Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Doanh nghiệp - mắt xích quan trọng và là khâu đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.62 KB, 7 trang )

DOANH NGHIỆP - MẮT XÍCH QUAN TRỌNG VÀ LÀ
KHÂU ĐỘT PHÁ TRONG ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh*
TÓM TẮT:
Hợp tác nhà trường - doanh nghiệp là một giải pháp quan trọng để nâng cao kỹ năng
nghề cho sinh viên nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Bài viết dưới đây đánh
giá thực trạng hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong giáo dục nghề nghiệp (GDNN)
hiện nay và từ phân tích những khó khăn trong hợp tác nhà trường và doanh nghiệp từ góc
nhìn của doanh nghiệp, người học và cơ sở GDNN, bài viết đưa ra các kiến nghị về cơ chế,
chính sách cũng như đề xuất các giải pháp từ phía cơ sở GDNN và doanh nghiệp nhằm phát
triển sự gắn kết giữa doanh nghiệp và nhà trường trong đào tạo nghề.
Từ khóa: hợp tác, gắn kết, doanh nghiệp, giáo dục nghề nghiệp, thực trạng giải pháp.

I. Thực trạng hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong GDNN
Trước những thách thức và cơ hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, GDNN cần có những chuyển biến thích nghi với
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn tới, cần gắn kết,
phát huy ưu điểm của việc liên kết các bên trong đào tạo. Trong chiến lược phát
triển của mình, một số trường đào tạo nghề đã xác định phát triển mối liên kết
doanh nghiệp là một trong những giải pháp then chốt để đột phá nhằm:
- Khai thác tối đa ưu thế trang thiết bị, kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp
của doanh nghiệp trong việc triển khai thực tập nghề nghiệp cho học sinh sinh
viên và nhà giáo;
- Khai thác nhu cầu việc làm cho học sinh sinh viên sau khi tốt nghiệp, đặc
biệt là việc làm đáp ứng nhu cầu chất lượng cao cho doanh nghiệp;
- Ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất tại
doanh nghiệp.
Luật Giáo dục nghề nghiệp ban hành có hiệu lực từ 7/2015 đã quy định cụ
thể quyền của doanh nghiệp trong hoạt động GDNN tại Điều 51 với các nội dung
cụ thể về cho phép doanh nghiệp được thành lập cơ sở GDNN; được Nhà nước



* Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt

297


hỗ trợ kinh phí đào tạo cho người khuyết tật vào học tập và làm việc cho doanh
nghiệp; được phối hợp với các cơ sở hoạt động GDNN khác để tổ chức đào tạo các
trình độ; quy định các khoản chi cho hoạt động đào tạo nghề nghiệp của doanh
nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật về
thuế… Ngồi ra, cịn có các văn bản khác hướng dẫn thực thi Luật Giáo dục nghề
nghiệp: Nghị định số 48/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2015 của Thủ tướng
chính phủ quy định chi tiết một số điều của luật GDNN; Thông tư số 29/2017/
TT-BLĐTBXH “Quy định về liên kết tổ chức thực hiện chương trình đào tạo”
quy định, nhà trường và doanh nghiệp có thể liên kết tổ chức đào tạo. Trong đó,
doanh nghiệp đảm nhận 40% chương trình đào tạo; Cơng văn số 786/LĐTBXHTCGDNN về việc “Gắn kết GDNN với doanh nghiệp”…
Kết quả đạt được:
Trong thời gian qua, sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào
tạo nghề đã có chuyển biến tích cực. Gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp có
nhiều ưu điểm như người học nghề được học những nghề phù hợp với nhu cầu
thực tế của doanh nghiệp; các kiến thức và kỹ năng nghề mà người học được đào
tạo đáp ứng được lợi ích của cả người học và người sử dụng lao động. Người học
nghề ngồi việc học lý thuyết nghề tại trường cịn được thực tập ngay trên các máy
móc, thiết bị đang sử dụng tại doanh nghiệp, giúp cho người học có thể vận dụng
được những kiến thức đã học, đồng thời nâng cao được kỹ năng nghề. Việc gắn kết
đào tạo trên đã làm tăng mối quan hệ hiểu biết giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Cơ sở GDNN không phải tăng đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị thực hành,
người học có thể tiếp thu bài học nhanh hơn. Doanh nghiệp có thể sử dụng được
những học sinh học nghề để tạo ra những sản phẩm mới hoặc có cơ hội lựa chọn
được những người lao động có ý thức, kỷ luật và kỹ năng tay nghề tốt cho mình,

giảm hiện tượng phải đào tạo lại cho phù hợp với thực tiễn tại doanh nghiệp.
Có nhiều hình thức hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, như tổ chức
cho học sinh sinh viên thực tập, hỗ trợ đầu tư trang thiết bị thực tập nghề cho cơ
sở GDNN; doanh nghiệp đặt hàng cơ sở GDNN đào tạo và các hoạt động hợp tác
khác để nâng cao chất lượng đào tạo. Nhiều trường và doanh nghiệp phối hợp để
học sinh sinh viên sau khi học lý thuyết tại trường được thực tập, thực hành tại
doanh nghiệp. Các trường còn phối hợp với doanh nghiệp để tổ chức cho giáo viên
đi thực tế tại các cơng trình, trực tiếp hướng dẫn sinh viên ngay tại hiện trường.
Các cơ sở GDNN và doanh nghiệp có nhiều hình thức đào tạo rất linh hoạt thông
qua chuỗi liên kết đào tạo tại các doanh nghiệp thành viên trong cùng tập đoàn
(đào tạo tại chỗ làm việc - liên kết nội bộ). Một số doanh nghiệp đã trực tiếp đầu
tư trang thiết bị cho các cơ sở GDNN để có thể đào tạo được những nghề ở những
trình độ doanh nghiệp mong muốn, như các doanh nghiệp ô tô (TOYOTA Việt
Nam, Huyndai...).
298


Hình thức đào tạo theo hợp đồng đang trở thành xu hướng hiện nay trong
hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, thông qua việc thống nhất từ khâu
tuyển sinh, nội dung, mục tiêu, chương trình đào tạo, đến mơ hình dạy nghề…
Ngồi sự hợp tác trong đào tạo, giữa nhà trường và doanh nghiệp có sự phối
hợp tư vấn nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên. Về phía doanh nghiệp, đó là tư
vấn về những cơng việc, những u cầu mà một người lao động cần có, để từ đó
học sinh có thể lựa chọn nghề học phù hợp với khả năng và sở thích của mình. Về
phía nhà trường, đó là tư vấn, giới thiệu về khả năng thu hút lao động của doanh
nghiệp; tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận các thông tin về doanh nghiệp để họ
có thể đến làm việc trước và sau khi tốt nghiệp...
Có thể thấy sự phối hợp giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp là một cách làm
hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu về nhân lực của
xã hội.

Khó khăn, hạn chế:
Nhìn tổng thể, sự phối hợp doanh nghiệp - nhà trường trong đào tạo nghề
chưa liên tục, chưa có sự ràng buộc chặt chẽ đảm bảo hiệu quả. Sự tham gia của
doanh nghiệp vào hoạt động đào tạo nghề còn hạn chế; chưa có cơ chế, chính
sách để thu hút người có kỹ năng nghề cao của doanh nghiệp tham gia đào tạo.
Mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp còn lỏng lẻo (cả về trách nhiệm
và quyền lợi), nên trên thực tế việc đào tạo theo khả năng “cung” của các cơ sở
GDNN nhiều hơn là thực sự đào tạo theo “cầu” của doanh nghiệp; để có thể đạt
được những bước tiến trong liên kết đào tạo với doanh nghiệp một cách hiệu quả
như một số mơ hình tiên tiến (ví dụ như mơ hình Hệ thống “đào tạo kép” của
Đức226), chúng ta cần nhiều nỗ lực trong thời gian tới, phát triển các cơ chế, chính
sách và áp dụng hiệu quả trong thực tiễn.
Theo thống kê, tỷ lệ doanh nghiệp có hợp tác với các cơ sở GDNN vẫn cịn
ở mức khiêm tốn và chưa có nhiều đột phá. Theo kết quả thống kê của Tổng cục
Giáo dục nghề nghiệp (tháng 11/2018): cả nước có 1.954 cơ sở GDNN, trong đó
có 538 cơ sở thuộc doanh nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp có hoặc thỉnh
thoảng hợp tác với doanh nghiệp mới chỉ chiếm 41,5%; doanh nghiệp có hợp tác
thường xuyên với trường nghề chiếm tỷ lệ khiêm tốn với 12,3%, trong khi có đến
46,2% doanh nghiệp khơng có bất kỳ hoạt động hợp tác nào với cơ sở GDNN.
Đối với Tây Ngun là vùng có số dân ít, đa dạng về dân tộc, trong đó có tới
30% số dân là người dân tộc thiểu số, đây là vùng khó khăn của đất nước, trình
Mơ hình “Đào tạo kép” của Đức: là một trong những mô hình đào tạo nghề tiên tiến nhấthiện nay. Khi học chương trình
này, sinh viên vừa được đào tạo lý thuyết tại trường dạy nghề và thực hành nghề tại các doanh nghiệp.

226

Học viên học nghề tại doanh nghiệp được ký hợp đồng với doanh nghiệp, được hưởng hỗ trợ về tài chính trong quá trình học
và được nhận vào làm sau khi tốt nghiệp mà không phải thực tập nghề nữa.

299



độ sản xuất trung bình thấp so với cả nước, lĩnh vực hoạt động chủ yếu dịch vụ
du lịch, là sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản; không thuận tiện cho việc
hình thành các khu cơng nghiệp lớn với công nghệ cao. Các doanh nghiệp địa bàn
Tây Nguyên chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ sản xuất thấp, mối
liên kết giữa các doanh nghiệp và các cơ sở GDNN còn hạn chế. Trong thời đại
hội nhập, phát triển công nghệ mạnh mẽ, Tây Nguyên càng thể hiện những khó
khăn nhất là chênh lệch về trình độ cơng nghệ, chênh lệch về trình độ sản xuất,
những khu vực đồng bào dân tộc thiểu số cần có những chính sách hiệu quả kết
hợp giữa doanh nghiệp, các cơ sở GDNN và chính quyền địa phương trong việc
thu hẹp những khoảng cách về trình độ cơng nghệ, tay nghề lao động; tạo nhiều
cơ hội việc làm, phát triển kinh tế nhằm đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã
hội của vùng Tây Nguyên.
Các nhân tố khó khăn khi doanh nghiệp tham gia vào q trình đào tạo:
Từ góc nhìn doanh nghiệp:
- Sự tham gia của doanh nghiệp trong thiết kế chương trình cịn hạn chế;
- Tính phù hợp của việc đào tạo kỹ năng nghề tại các trường với thực tiễn
nghề nghiệp tại doanh nghiệp;
- Nếu triển khai tự đào tạo lao động, kinh phí đầu tư cao, rủi ro tương đối lớn;
- Yêu cầu bí mật cơng nghệ và yếu tố vệ sinh an tồn thực phẩm; hoặc trình
độ sản xuất, mức độ chun môn thấp ở doanh nghiệp;
- Việc hợp tác đào tạo ảnh hưởng đến quá trình sản xuất hơn là mang lại
hiệu quả.
Từ góc nhìn người học:
- Khơng phải sinh viên nào cũng có ý thức cao về nghề nghiệp; thiếu tính chủ
động và biện pháp xử lý phù hợp;
- Sinh viên tốt nghiệp thiếu các kỹ năng thực hành, thiếu kiến thức về quy
trình sản xuất;
- Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng mềm, tác phong công nghiệp và đặc biệt là thái

độ nghề nghiệp chưa được chú trọng đào tạo.
Sự tham gia của các trường đào tạo:
- Thiếu cơ chế ràng buộc kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp;
- Thiếu sự chủ động tạo mối liên hệ gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp;
- Trong thiết kế chương trình: thiên hướng đào tạo lý thuyết, đào tạo “chay”
300


vẫn chưa hoàn toàn được chuyển đổi sang đào tạo thực hành, tích hợp;
- Thiết kế chương trình chưa linh hoạt để đảm bảo thuận lợi triển khai đào
tạo song hành cùng doanh nghiệp;
- Điều kiện cơ sở vật chất;
- Tính chuyên nghiệp, chuyên sâu, phù hợp với thực tiễn sản xuất của trang
thiết bị rất hạn chế (các xưởng thực hành cấp độ 2 và 3 theo khung tiêu chuẩn Đức);
- Chưa phát triển mơ hình trung tâm thực nghiệm sản xuất, doanh nghiệp
trong nhà trường.
II. Kiến nghị, đề xuất
Về cơ chế chính sách:
- Phát triển các cơ chế chính sách khuyến khích, ràng buộc và quy định trách
nhiệm cụ thể đối với doanh nghiệp. Hướng dẫn cụ thể về các quyền lợi cho doanh
nghiệp nhằm huy động các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề và phát triển cơ sở
GDNN tại doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có hoạt động đào tạo nghề, các chi phí
đào tạo được tính trong chi phí giá thành; được miễn, giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp hoặc được trích một phần thu nhập trước thuế để thực hiện đào tạo nghề;
- Chính sách đối với người lao động qua đào tạo nghề (tại doanh nghiệp) và
tự nâng cao tay nghề trong quá trình làm việc;
- Phát triển các chính sách ưu đãi với những nghề đặc thù, nặng nhọc, độc
hại khó tuyển sinh, tuyển dụng;
- Giao tự chủ nhiều hơn cho các cơ sở GDNN để các trường năng động hơn,
đặc biệt trong hoạt động đào tạo và tìm kiếm doanh nghiệp;

- Có chính sách đầu tư đặc biệt cho dạy nghề để đáp ứng nhu cầu nguồn
nhân lực chất lượng cao giỏi về chun mơn; thành thạo về kỹ năng;
- Có chính sách ưu đãi cho một số vùng kinh tế khó khăn như các vùng hải
đảo, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ… nhằm phát triển đào tạo GDNN, để đáp
ứng nhu cầu doanh nghiệp, phát triển kinh tế địa phương, kéo gần trình độ phát
triển cơng nghệ, phát triển hịa vào các vùng kinh tế xã hội của cả nước và khu vực;
- Có chính sách để tăng cường các hoạt động tư vấn nghề nghiệp tại cơ sở
GDNN và tại doanh nghiệp, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên lựa chọn nghề
nghiệp phù hợp khi vào trường; đồng thời những thông tin cần thiết về chỗ làm
việc khi sắp tốt nghiệp;
- Kinh nghiệm của các nước cho thấy, để xây dựng danh mục và tiêu chuẩn
301


nghề, cần có sự tham gia tích cực của doanh nghiệp và các Hội nghề nghiệp. Tăng
cường vai trò và trách nhiệm của các Hiệp hội (VCCI, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ
và vừa …) và các Hội nghề nghiệp khác vào hoạt động dạy nghề. Cần có cơ chế
phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước về lao động với đại diện doanh nghiệp,
đại diện người lao động, đại diện của các hội nghề nghiệp và cơ sở GDNN trong
việc xác định nhu cầu của doanh nghiệp về lao động và xây dựng danh mục, tiêu
chuẩn nghề.
Về phía các cơ sở GDNN:
- Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế - xã
hội, hội nhập trong khu vực và quốc tế. Chủ động xác định số lượng nghề đào tạo,
quy mô đào tạo trên cơ sở năng lực của cơ sở và nhu cầu của doanh nghiệp; chủ
động xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp. Đổi
mới phương pháp, quy trình đào tạo, lấy học sinh, người học nghề làm trung tâm
và nhu cầu của doanh nghiệp làm định hướng đào tạo.
- Có sự tham gia của doanh nghiệp trong quá trình đào tạo: trong Hội đồng
nhà trường; trong việc xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình; trong quá

trình giảng dạy; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; phản hồi chất lượng “sản
phẩm” đào tạo.
- Dạy kiến thức nghề cho người lao động đã có kỹ năng nghề được đào
tạo tại doanh nghiệp hoặc tích lũy được trong quá trình lao động để được
cấp phát các văn bằng, chứng chỉ.
- Phối hợp có hiệu quả với doanh nghiệp để nắm bắt nhu cầu của doanh
nghiệp và hợp tác với doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo; đẩy mạnh việc ký
hợp đồng đào tạo với doanh nghiệp, trong đó có quy định về lợi ích và trách nhiệm
của người dạy, người học. Cơ sở GDNN phải chủ động điều tra để có được thơng
tin về nhu cầu của doanh nghiệp (nghề, trình độ, mức độ kỹ năng...) để tổ chức
đào tạo phù hợp.
- Phát triển các mơ hình trung tâm thực nghiệm, sản xuất, doanh nghiệp
trong nhà trường nhằm tiệm cận xu thế tự chủ tài chính và tăng tính chủ động
trong đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho người học.
Về phía doanh nghiệp:
- Chủ động phối hợp với các cơ sở GDNN trong đào tạo kỹ năng, hỗ trợ đầu
tư, phát triển cơ sở GDNN tại doanh nghiệp; đẩy mạnh dạy nghề tại chỗ và bồi
dưỡng, nâng cao tay nghề cho người lao động;
- Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thơng tin cho cơ sở GDNN về nhu
cầu lao động (quy mô, cơ cấu ngành, nghề, trình độ đào tạo, kỹ năng nghề...);
302


- Tạo điều kiện cho học sinh sinh viên tại các cơ sở GDNN thực tập trên các
thiết bị của doanh nghiệp; giáo viên dạy nghề được đi thực tế tại doanh nghiệp;
- Doanh nghiệp tham gia xây dựng tiêu chuẩn, kỹ năng nghề, thiết kế chương
trình và tham gia giảng dạy, đánh giá kết quả học tập của người học nghề; tham gia
đánh giá kỹ năng nghề cho người lao động qua đào tạo;
- Hỗ trợ cung cấp sản phẩm mới của doanh nghiệp cho cơ sở GDNN làm
thiết bị đào tạo;

- Tổ chức đào tạo nghề tại doanh nghiệp với nhiều hình thức khác nhau cho
những lao động tuyển mới chưa qua đào tạo nghề và nâng cao kỹ năng nghề; cấp
chứng chỉ nghề cho người lao động;
- Tạo điều kiện cho người lao động được học tập nâng cao trình độ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. (2018). Công văn số 768/LĐTBXH-TCGDNN ngày
2/3/2018 về việc gắn kết GDNN với doanh nghiệp
2. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. (2018). Thông tư số 29/2017/TT-BLĐTBXH quy
định về liên kết doanh nghiệp, nhà trường tổ chức thực hiện chương trình đào tạo
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Báo cáo khảo sát, thống kê về GDNN các năm 2016,
2017, 2018, 2019;
4. Chính phủ. (2015). Nghị định số 48/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015 quy định về quyền và
trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động GDNN
5. Quốc hội. (2014). Luật Giáo dục nghề nghiệp
6. Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp. (2019). Báo cáo Hội nghị tuyển sinh năm 2018 tại Hội
nghị tổ chức ngày 10.3.2019.

303



×