Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.55 KB, 14 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
.....0O0.....

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số 3:
Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận
chung và liên hệ với thực tiễn.

Họ và tên SV: Nguyễn Thị An Chinh
Mã SV: 11216987
Lớp: Triết học Mác – Lênin (121) _ 06
Khóa: 63

Hà Nội – 12/2021


A. PHẦN MỞ ĐẦU
Theo quan điểm của Mác – Lênin: vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng
với nhau, tác động qua lại với nhau trong hoạt động thực tiễn; trong đó vật chất là cái
có trước, giữ vai trò quyết định ý thức, nhưng ý thức cũng có “đời sống” riêng và tác
động trở lại vật chất.
Dựa vào quan điểm trên, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng vào công cuộc đổi
mới đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, công cuộc đổi
mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Điều này đã chứng minh những quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước xuất phát từ tình hình thực tại đất nước
là hết sức đúng đắn.
Là một sinh viên đại học, cũng là công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, em muốn tìm hiểu kĩ hơn Triết học Mác – Lênin, cụ thể là mối quan hệ


biện chững giữa vật chất và ý thức để hiểu rõ hơn sự thành cơng của Đảng và Nhà
nước ta. Vì vậy, em chọn đề tài: “Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận
chung và liên hệ với thực tiễn”. Em muốn góp một phần sức nhỏ của mình vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng và toàn dân. Mọi đường lối của Đảng đều phải xuất phát
từ thực tiễn khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan. Điều này sẽ được
làm rõ trong phần nội dung của đề tài.
Do thời gian và kiến thức của em còn nhiều hạn chế nên trong quá trình làm bài
khơng thể tránh khỏi sai sót. Em mong nhận được những góp ý của thầy giáo cũng
như bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn!


B. PHẦN NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG THEO QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của Triết học. Việc giải quyết
vấn đề này là cơ sở để giải quyết các vấn đề khác của Triết học. Để hiểu rõ hơn về
mối quan hệ đó, ta cần tìm hiểu các nội dung sau:
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1 “Vật chất” là gì ?
“Vật chất” là phạm trù cơ bản và nền tảng của chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ
nghĩa duy vật biện chứng nói riêng.
a. Các quan niệm trước Mác về vật chất
Trước Mác có rất nhiều quan niệm về vật chất, điển hình là một số quan niệm sau:
Thời cổ đại, đặc biệt là ở Hy Lạp, Trung Quốc, Ấn Độ đã có nhiều quan niệm về
vật chất song đều cho rằng vật chất là một hay một số chất đã có sẵn trong tự nhiên;
một hay một số thực thể cụ thể, hữu hình và cảm tính đầu tiên, có vai trị là cơ sở
hình thành nên tồn bộ sự tồn tại của thế giới bên ngoài. Chẳng hạn, ở phương Đông,
theo Thuyết Ngũ hành của Trung Quốc quan niệm rằng “Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ”

là 5 tố chất căn bản tạo nên tính phong phú, đa dạng của thế giới và mọi sự biến đổi
của tự nhiên đều do sự tác động qua lại của 5 yếu tố vật chất này, sự tương tác đó
chính là q trình tồn tại của vật chất.
Thời cận đại Tây Âu, tiếp tục quan niệm về vật chất thời cổ đại, tuy nhiên, đã có
những bước tiến mới, đó là đi sâu phân tích sự biểu hiện của vật chất dưới các hình
thức cụ thể trong giới tự nhiên. Ở thời kì này, vật chất được quan niệm là tất cả những
gì có thuộc tính của vật thể như: được tạo nên từ ngun tử, có thuộc tính khối lượng,
có thể cảm nhận được bằng các giác quan,...
Các quan niệm trước Mác đã giải thích được thế giới từ bản thân cấu tạo vật chất
của nó. Từ đó, tạo phương pháp luận đúng cho sự phát triển của nhận thức khoa học
và thực tiễn cải tạo thế giới. Song, vẫn chưa bao quát được mọi tồn tại của vật chất và
chưa tiếp cận đầy đủ theo giác độ vấn đề cơ bản.
b. Quan niệm Triết học Mác – Lênin về vật chất
Với phương pháp định nghĩa đặc biệt – định nghĩa vật chất thơng qua khái niệm
đối lập với nó trên phương diện nhận thức luận cơ bản, nghĩa là phải định nghĩa vật
chất thông qua ý thức, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán”, V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà đến nay các
nhà khoa học hiện đại coi là định nghĩa kinh điển như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.


Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách quan - cái có
thật, hiện thực bên ngồi, khơng phụ thuộc vào ý thức.
Với tư cách là một phạm trù triết học thì vật chất là một sự trừu tượng hóa. Bởi tính
trừu tượng này bắt nguồn từ cơ sở hiện thực, chỉ các đặc tính khái quát nhất, bao quát
nhất mọi tồn tại của vật chất, đó là tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con
người. Đây cũng chính là đặc điểm để phân biệt cái nào là vật chất, cái nào không

phải là vật chất, đặc biệt là sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức theo quan
niệm của V.I.Lênin. Vật chất gồm hai khía cạnh tồn tại gắn bó với nhau, đó là tính
trừu tượng và tính hiện thực cụ thể. Nếu tuyệt đối hóa tính trừu tượng sẽ khơng thấy
vật chất đâu cả mà sẽ rơi vào quan điểm duy tâm. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính
hiện thực cụ thể sẽ đồng nhất vật chất với khối lượng – quan điểm về vật chất trước
Mác. Do vậy, chủ nghĩa duy vật Mác luôn luôn cho rằng vật chất là cái hiện thực
khách quan.
Thứ hai, thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.
V.I.Lênin đã khẳng định về mối quan hệ giữa vật chất và cảm giác rằng, vật chất là
cái có trước, là nguồn gốc của cảm giác; cịn cảm giác là cái có sau, phụ thuộc vào
vật chất.
Thứ ba, thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh.
V.I.Lênin đã chứng minh rằng, chỉ có duy nhất một thế giới, đó là thế giới vật chất.
Trong thế giới đó, tồn tại song song hai hiện tượng, đó là hiện tượng vật chất và hiện
tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không phụ thuộc
vào các hiện tượng tinh thần, nhưng khơng phải là tồn tại vơ hình mà được biểu hiện
qua các sự vật, hiện tượng cụ thể, và bằng giác quan của mình, con người có thể nhận
biết được. Như vậy, vật chất không những biểu hiện qua tính tồn tại khách quan mà
cịn được biểu hiện qua tính có thể nhận thức được của con người. Trong thế giới vật
chất ấy, khơng có gì là không biết, chỉ là chưa nhận thức được mà thôi.
Chúng ta cùng xét ví dụ sau: Nước sơi ở 100 độ C.
Đây là một ví dụ về vật chất và quy luật này là vật chất. Bởi vì, đây là một hiện
tượng có thật, hiện thực bên ngồi mà con người có thể nhìn thấy (được đem lại cho
con người trong cảm giác), truyền cho nhau thông tin về hiện tượng này (được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh) và dù có con người hay khơng thì quy
luật này vẫn đúng, vẫn tồn tại (vật chất tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác).
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản
của triết học một cách toàn điện, đúng đắn nhất. Ngồi ra, nó cịn có ý nghĩa phương
pháp luận đối với chúng ta trong nhận thức và thực tiễn, đó chính là ngun tắc

khách quan – xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan, nhận thức và
vận dụng đúng đắn quy luật khách quan. ( Trích Giáo trình Triết học 2019 )


1.2 Các hình thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định rằng vật chất tồn tại bằng cách vận
động, và không gian, thời gian chính là hình thức tồn tại của vật chất vận động. Như
vậy, vận động, không gian, thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất.
a. Vận động

 Khái niệm
Với tư cách là một khái niệm triết học, vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự
thay đổi nói chung. Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất – tức
được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. ( Trích Giáo trình Triết học 2019 )
 Vật chất và vận động
- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Vật chất luôn luôn ở trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Vận động của vật
chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện
sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú, mn vẻ, vơ tận. Vì vậy, bất cứ sự vật,
hiện tượng nào cũng luôn ở trong trạng thái vận động. Con người chỉ nhận thức sâu
sắc sự vật, hiện tượng bằng cách xem xét chúng qua q trình vận động. Đó cũng là
q trình nhận thức bản thân sự vật, hiện tượng đó.
 Vận động và đứng im
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái ổn định về
chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể. Như vậy,
đứng im là tương đối và chỉ có tính tạm thời do chỉ xảy ra trong một mối quan hệ và

điều kiện nhất định, cịn vật chất là tuyệt đối bởi nó luôn luôn đúng trong mọi mối
quan hệ. Đặc biệt, đứng im chỉ là một sự biểu hiện của vật chất, do vậy, ngay trong
đứng im thì nó cũng khơng ngừng biến đổi.
 Các hình thức vận động
Ph.Ăngghen đã chia vận động gồm 5 hình thức cơ bản, đó là:
- Vận động cơ học: sự chuyển dịch vị trí của vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý: các quá trình biến đổi của nhiệt, điện, các phân tử, các hạt cơ
bản,...
- Vận động hóa học: sự biến đổi của các chất vô cơ, hữu cơ,...
- Vận động sinh vật: quá trình biến đổi của các cơ thể sống,...
- Vận động xã hội: sự biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,...
Các hình thức vận động này vừa đơn giản, vừa phức tạp và chúng chuyển hóa lẫn
nhau, tồn tại trong mối liên hệ khơng thể tách rời nhau. Giữa hai hình thức vận động


cao và thấp có thể có hình thức vận động trung gian. Vì vậy, vừa phải thấy mối liên
hệ giữa các hình thức vận động vừa phải phân biệt được chúng.
b. Không gian và thời gian
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định rằng không gian và thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất vận động. Trong đó, khơng gian là hình thức tồn tại xét về
mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự và sự tác động lẫn nhau; thời gian là hình thức
tồn tại xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các q trình. Khơng gian và thời
gian là hai hình thức tồn tại khác nhau nhưng chúng khơng thể tách rời nhau. Khoa
học hiện đại đã chứng minh, không gian và thời gian của vật chất nói chung là vơ tận,
xét cả phạm vi lẫn tính chất.
2. Phạm trù ý thức
2.1 “Ý thức” là gì ?
Định nghĩa “ý thức” được hai nhà triết học đưa ra quan điểm như sau:
- Lênin cho rằng: “Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
- Mác cho rằng: “Ý thức là cái vật chất được “di chuyển” vào bộ óc con người và

được cải biến đi ở trong đó”.
Từ hai quan điểm trên, ta có thể định nghĩa ý thức như sau:
Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản của triết học, thể hiện đời sống tinh thần
của con người (tri thức, tình cảm, cảm giác,...); là sự phản ánh năng động sáng tạo thế
giới khách quan vào bộ óc con người.
Để tìm hiểu rõ hơn về phạm trù ý thức, ta cùng đi tìm hiểu bản chất và nguồn gốc của
ý thức.
2.2 Bản chất của ý thức
- Tính phụ thuộc vào thực tại khách quan.
Ý thức là cái phản ánh hiện thực khách quan, không phải là sự vật, hiện tượng cụ thể,
mà chỉ là “hình ảnh” của sự vật, hiện tượng đó ở trong bộ óc người. Thế giới khách
quan là nguyên bản, là tính thứ nhất. Còn ý thức chỉ là bản sao, là cái phụ thuộc vào
thế giới khách quan, là tính thứ hai.
- Tính chủ quan
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thực tại khách quan, xét về mặt nội dung mà ý thức
phản ánh thì nó là khách quan, nhưng xét về hình thức phản ánh thì nó là chủ quan.
- Tính phản ánh sáng tạo của ý thức
Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, thụ động, mà là kết quả
của quá trình phản ánh có mục đích, định hướng rõ ràng. Con người luôn cố gắng
biến đổi thế giới để thỏa mãn nhu cầu bằng các hoạt động thực tiễn phong phú của
mình. Song, sự biến đổi đó phải dựa trên hai đặc tính: khách quan và chủ quan, bởi
nếu chỉ dựa trên tính chủ quan, tính ảo mà khơng có tính khách quan thì sự sáng tạo
đó chỉ là tưởng tượng thuần túy, khơng có thật; cịn nếu chỉ dựa trên tính khách quan


mà khơng có tầm nhìn phóng khống (tính chủ quan) thì cũng khơng có sự sáng tạo,
khơng tạo ra cái mới. Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức.
- Tính xã hội
Ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người; mà
con người tạo nên xã hội nên ý thức cũng có bản chất là tính xã hội. Đời sống tinh

thần như những quan điểm, tình cảm, tâm trạng, phong tục,... thuộc về tính xã hội của
ý thức.
2.3 Nguồn gốc của ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên
* Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định rằng: ý thức chỉ là thuộc tính của vật
chất nhưng khơng phải mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất
sống có tổ chức cao nhất là bộ não con người. Bộ não là khí quan vật chất của ý thức
còn ý thức là chức năng bộ não người khi hoạt động bình thường. Mối quan hệ giữa
bộ não người hoạt động bình thường và ý thức là khơng thể tách rời. Ý thức sẽ không
diễn ra khi tách rời hoạt động của bộ não người.
* Giới tự nhiên: Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu
hiện trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Phản ánh
là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác
động và vật nhận tác động; đồng thời luôn mang nội dung thông tin của vật tác động.
Đó là những đặc trưng cơ bản để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Như vậy, sự xuất hiện của con người và hình thành bộ não của con người có năng
lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b. Nguồn gốc xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhiều lần chỉ rõ rằng, ý thức khơng những có nguồn gốc
tự nhiên mà cịn có nguồn gốc xã hội và là một hiện tượng mang bản chất xã hội.
Ý thức khơng phải được hình thành qua q trình con người tiếp nhận thụ động
mà chủ yếu từ hoạt động thực tiễn. Hoạt động lao động sáng tạo của con người tác
động vào đối tượng hiện thực, bắt chúng phải bộc lộ thành những hiện tượng, kết cấu,
thuộc tính,... nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ não con người. Nhờ sự
tác động vào thế giới mà con người khám phá ra nhiều điều mới mẻ của thế giới và
làm phong phú, sâu sắc hơn nhận thức của mình về thế giới.
Nhu cầu lao động đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm. Từ đó,
ngơn ngữ dần được hình thành và hồn thiện trong bộ não con người. Khơng có ngơn

ngữ - hệ thống tín hiệu, thì ý thức khơng thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ não của con người
nhưng khơng phải cứ có thế giới khách quan và bộ não là có ý thức mà phải đặt
chúng trong mối quan hệ với thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, một hiện
tượng xã hội đặc trưng của lồi người. (Trích Giáo trình Triết học 2019)


3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan niệm duy vật biện chứng
Mối quan hệ vật chất và ý thức là “ Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là
của triết học hiện đại”. (Trích Giáo trình Triết học 2019). Tùy theo lập trường thế
giới quan khác nhau, khi giải quyết vấn đề này đã hình thành những đường lối khác
nhau. Nhưng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khái quát đúng đắn về
mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa
chúng.
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, cịn ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất.
3.1 Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện qua các nội dung sau:
 Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức – một thuộc
tính của bộ phận con người – cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu
khoa học hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật
chất là cái có trước, cịn ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với
ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động của bộ
não con người (vật chất) trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động
của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ
não người.
 Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung

của ý thức chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ
não con người. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là
động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung tư duy,
ý thức con người.
 Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem thế giới vật chất là những sự vật, hiện tượng cảm
tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem thế giới vật chất là thế giới của con người
trong hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế
giới của con người – là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con
người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo để phản ánh.
 Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất;
vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người - một
sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý
thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình
thức phản ánh của nó, Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học phát triển đã
chứng minh điều đó. Nội dung này được biểu hiện rõ rệt ở vai trò của kinh tế đối với


chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã
hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của
văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi
theo. (Trích Giáo trình Triết học 2019)
3.2 Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
 Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức:
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong bộ não con người, nhưng ý thức
cũng có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng. Ý thức một khi ra
đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất.
 Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người, còn tự bản thân ý thức thì khơng thể biến đổi được hiện thực. Con

người dựa trên những tri thức và hiểu biết về thế giới khách quan, từ đó đề ra mục
tiêu, phương hướng, bỉện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã
xác định.
 Thứ ba, vai trị của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể hình thành nên những
lý luận đúng đắn, góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo.
Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lệch hiện thực.
 Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trị của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh
tồn cầu hóa, vai trị của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn
là hết sức quan trọng.
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN.
1. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, chúng ta rút ra một số phương pháp luận
như sau:
- Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn, để xác định
phương hướng, kế hoạch, mục tiêu của mình, trước hết chúng ta phải xem xét, xuất
phát từ hiện thực khách quan, từ những điều kiện, quy luật vốn có của sự vật, hiện
tượng. Phải có nhận thức đúng đắn, tơn trọng và hành động theo những quy luật
khách quan đó, khơng phóng đại, có quan điểm sai lệch, nói sai sự thật cái mà sự vật,
hiện tượng khơng có. Ngược lại, nếu khơng làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu
những hậu quả mà không thể lường được trước. Đồng thời, phải xuất phát từ chính
bản thân sự vật, hiện tượng với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong nó để có cái
nhìn tồn diện, tổng quan, đánh giá đúng sự thật. Ngày nay, giới trẻ hầu như đều
mang trong mình những nhu cầu, ước muốn, niềm tin để hành động, thực hiện những
định hướng của mình, tuy nhiên, mọi người lại không nghiên cứu, đánh giá đúng đắn
các đối tượng vật chất, nhìn sâu bản chất đối tượng. Đây là biểu hiện của bệnh chủ



quan, duy ý chí trong cuộc sống. Vì vậy, chúng ta cần có thái độ loại bỏ, tránh những
căn bệnh này và có những cái nhìn tích cực hơn.
- Vì ý thức tác động trở lại vật chất, nên cần phải kết hợp phát huy tính năng
động sáng tạo của ý thức, phát huy sức mạnh to lớn của con người, nhất là phát huy
vai trò của tri thức khoa học, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhận thức. Trong quá
trình hoạt động thực tiễn, chúng ta phải phát huy hết những khả năng của mình, chủ
động tìm tịi, sáng tạo những cái mới dựa trên cơ sở kế thừa những cái cũ phù hợp.
Đồng thời, phải kiên trì, nỗ lực vượt qua khó khăn; tuyệt đối khơng mang trong mình
tư tưởng, thái độ thụ động, bảo thủ, ỷ lại, trì trệ, thiếu tính sáng tạo. Bên cạnh đó,
khơng nên tuyệt đối hóa vai trị của vật chất trong mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, bởi vật chất có vai trị quyết định nhưng khơng có nghĩa là khi thiếu vật chất thì
sẽ khơng có giải pháp mà có thể vận dụng tính năng động chủ quan để xử lý vấn đề.
Để thực hiện những nguyên tắc trên, chúng ta còn phải đảm bảo sự thống nhất
giữa khách quan và sáng tạo trong hoạt động con người. Đó là nhận thức và giải
quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hịa giữa lợi ích cá nhân với
lợi ích tập thể, cộng đồng; phải có động cơ hành động trong sáng, thái độ khách quan
trong nhận thức và hành động của mình.
2. Liên hệ thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở đất nước ta.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và
được Đảng vận dụng tư tưởng lý luận đó trong việc xây dựng đất nước. Những thành
tựu mà đất nước ta đạt được đã thể hiện sự vận dụng đúng đắn qua các quan điểm,
đường lối chính sách của Đảng ta.
Như chúng ta đã biết, trước thời kỳ đổi mới, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn
về mọi mặt, nhất là về kinh tế. Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước,
nền kinh tế nước ta bị tàn phá nặng nề. Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém, phân bố kinh
tế mất cân đối, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân vơ cùng khổ cực.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã đặt ra những nhiệm vụ để cải thiện đất nước. Tuy
nhiên, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 – 1986) nhấn mạnh trong
những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội

của đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến nhiều sai lầm “trong việc xác
định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ
nghĩa và quản lý kinh tế”. Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói trên là
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ
đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về
nhận thức lý luận. Đó là chủ quan, nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ
ngay nền kinh tế nhiều thành phần; đẩy mạnh quá mức việc xây dựng cơng nghiệp
nặng; duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai
trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương.
Qua đó, chúng ta có thể thấy tác động tiêu cực của ý thức (các chủ trương, chính
sách) đối với vật chất (nền kinh tế) khi đã không thực hiện theo nguyên tắc của phép


biện chứng giữa vật chất và ý thức, cụ thể ở đây là khơng xuất phát từ hiện thực
khách quan.
Vì vậy, trước cuộc khủng hoảng trầm trọng như thế, Đảng ta đã tạo ra nhiều
bước chuyển mới trên con đường cơng cuộc đổi mới. Cụ thể, với ngun tắc: “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan là cơ sở để Đảng ta xác định phương
hướng, nhiệm vụ đúng đắn. Và đã đạt được nhiều thành tích sau bốn năm thực hiện
đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 – 1991) đã khẳng định rằng:
công cuộc đổi mới bước đầu đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta
đã đứng vững và phát triển.
Tình hình chính trị của đất nước ổn định. Nền kinh tế có những bước phát triển,
đạt được những tiến bộ rõ rệt, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, huy động được
nguồn lực sản xuất của xã hội, tốc độ lạm phát được kiềm chế, đời sống của một bộ
phận nhân dân đã được cải thiện.
Một lần nữa chúng ta lại thấy rõ sự tác động qua lại giữa ý thức và vật chất, cụ
thể là giữa kinh tế và chính trị. Nhờ có những đường lối đổi mới đúng đắn mà tình

hình kinh tế được cải thiện, đời sống nhân dân ổn định hơn,... Bên cạnh đó, Đại hội
cũng xác định đất nước vẫn cịn khó khăn, chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế, nhiều
vấn đề xã, hội, kinh tế chưa được giải quyết,... Do vậy, Đại hội cũng đề ra nhiều
chính sách đổi mới tồn diện, đồng bộ hơn nữa cũng như hành động quyết liệt hơn.
Đến năm 1986, công cuộc đổi mới đã thực hiện được 10 năm và đạt được nhiều
thành tựu về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện
một bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc
phịng, an ninh được củng cố, phát triển mạnh mối quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây
cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Đồng thời, thành tựu 10
năm đổi mới đã tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước.
Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng, Đại hội đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa”, với sáu đặc trưng cơ bản. Đến
năm 1991, Đại hội lần thứ X đã bổ sung thêm hai đặc trưng là “ xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” và “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam”. Và đến năm 2011, “Cương lĩnh” tiếp tục được bổ sung, phát triển phù hợp với
thực tiễn.
Đặc biệt, Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) đã đưa ra được một khái niệm
mới mà nước ta phải trải qua bao nhiêu năm Đảng ta mới xác định được từ lúc đề ra
đường lối đổi mới tại Đại hội VI, đó là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Và đến Đại hội lần thứ XII (năm 2016), Đảng ta đã nhận định rằng: nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ


theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, là nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.

Đảng ta đã xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội qua việc vận dụng các nguyên lý
của Mác – Lênin và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội
chủ nghĩa.
Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, khách quan và khoa học
hơn; thể hiện sự vận dụng sáng tạo những quan điểm lý luận của Mác – Lênin. Đảng
là cuộc sống của nhân dân, vì lợi ích nhân dân và ngày càng được nhân dân tin tưởng,
ủng hộ. Đặc biệt, theo tổng kết tại Đại hội XIII của Đảng (tháng 2- 2021), năm 2020,
trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về
kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những
kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy
thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một
trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Đó là sự nỗ lực của
toàn Đảng, toàn dân và niềm tin tưởng của người dân vào Đảng, Chính phủ trong
việc chống dịch hiện nay.
Báo cáo của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ: Qua 35 năm tiến hành công
cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện
thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn,
chúng ta vẫn có thể nói rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc vơ cùng khó khăn,
phức tạp, địi hỏi thời gian để tìm ra những chính sách, đường lối phù hợp với bối
cảnh nước ta qua các thời kỳ. Việc có những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình xây
dựng đất nước là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn như: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao;
an ninh chính trị ổn định; tăng cường hợp tác, đa phương hóa với các nước khác;...

Bắt đầu từ một đất nước lạc hậu, khó khăn, để được như ngày hôm nay, tất cả là nhờ
vào những đường lối hết sức đúng đắn của Đảng ta trong việc xây dựng đất nước.


C. PHẦN KẾT LUẬN
Từ các nội dung trên, một lần nữa chúng ta khẳng định rằng: vật chất và ý
thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó, vật chất có trước, ý thức có sau; vật
chất bao giờ cũng đóng vai trị quyết định ý thức nhưng ý thức lại tác động lại vật
chất. Mối quan hệ này tác động qua lại trong hoạt động thực tiễn của con người.
Chúng ta cần phải nâng cao nhận thức, tôn trọng các quy luật khách quan kết hợp
với phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn của con
người.
Trong q trình làm bài, em cịn rất nhiều thiếu sót, vì vậy, em mong nhận
được những lời góp ý từ thầy giáo để em có nhiều hiểu biết hơn về cả lý luận và
thực tiễn và có nhiều kinh nghiệm hơn trong các bài làm tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn!


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, năm 2019.
2.

/>e=TGWfvO (slides bài giảng của thầy giáo).

3. Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, XII, XIII.



×