Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận pháp luật về kinh doanh bảo hiểm tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.05 KB, 20 trang )

BỘ TƯ PHÁP
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MÔN HỌC: LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM
ĐỀ TÀI: PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:

Hà Nội, Tháng 4/2022


2
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 4
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ KINH DOANH BẢO HIỂM.........6
1.1. Bảo hiểm................................................................................................................6
1.1.1. Định nghĩa bảo hiểm.......................................................................................6
1.1.2. Phân loại bảo hiểm..........................................................................................7
1.2. Kinh doanh bảo hiểm............................................................................................8
CHƯƠNG II. PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM...................................10
2.1. Khái quát pháp luật về kinh doanh bảo hiểm...................................................10
2.1.1. Khái niệm......................................................................................................10
2.1.2. Nguyên tắc kinh doanh bảo hiểm................................................................10
2.1.3. Nguồn điều chỉnh pháp luật kinh doanh bảo hiểm......................................11
2.2. Hợp đồng bảo hiểm.............................................................................................12
2.2.1. Khái niệm.......................................................................................................12
2.2.2. Nội dung hợp đồng bảo hiểm.......................................................................13
2.2.3. Hiệu lực hợp đồng bảo hiểm........................................................................14
2.2.4. Chuyển nhượng hợp đồng............................................................................15


2.3. Chủ thể trong quan hệ pháp luật kinh doanh bảo hiểm..................................15
2.3.1. Doanh nghiệp bảo hiểm................................................................................16
2.3.2. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.................................................................17
2.3.3. Tổ chức, cá nhân đại lý bảo hiểm................................................................18
2.3.4. Doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm......................................................19
2.3.5. Bên tham gia bảo hiểm và bên liên quan trong hợp đồng bảo hiểm.........20


3

MỞ ĐẦU
Từ xa xưa, nhu cầu được bảo đảm về sức khỏe, tính mạng và tài sản đã xuất hiện và đặt cơ
sở cho những biện pháp hạn chế rủi ro, thiệt hại. Bảo hiểm là một trong những cách thức hiệu quả.
Tốc độ phát triển chóng mặt của sản xuất, kinh tế kỹ thuật, thương mại… và nhu cầu ổn định cuộc
sống đã đòi hỏi và thúc đẩy những tổ chức chuyên nghiệp thực hiện bảo hiểm ra đời. Bảo hiểm
nhằm mục đích thương mại đầu tiên xuất hiện ở Babylon vào khoảng 1.700 năm trước Công
nguyên. Khác với phương thức tổ chức và hoạt động của các quỹ tương trợ, bảo hiểm nhằm mục
đích thương mại, do các tổ chức chuyên nghiệp thực hiện.
Cùng với sự ra đời của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp, phương thức và kĩ thuật thực
hiện kinh doanh bảo hiểm cũng ngày càng phát triển. Ở Italia, Tây Ban Nha đầu thế kỉ XIV các
bản hợp đồng hàng hải đã được thiết lập. Ở Anh, từ cuối thế kỉ XVII bảo hiểm hàng hải được thực
hiện như một nghiệp vụ kinh doanh và đến đầu thế kỉ XVIII, nhiều nghiệp vụ kinh doanh bảo
hiểm mới ra đời như bảo hiểm hoả hoạn (cùng với sự phát triển các đô thị ở thế kỉ XVIII), bảo
hiểm thân thể... Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy kinh doanh bảo hiểm trở
thành ngành kinh doanh dịch vụ với nhiều loại hình bảo hiểm.
Kinh doanh bảo hiểm ngày nay là “kinh doanh rủi ro”, chia sẻ tổn thất với khách hàng, sản
phẩm bảo hiểm là những dịch vụ mang tính đặc thù cao. Song, nó đóng góp một phần không nhỏ
đối với phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Bảo hiểm, mang nhiều vai trò quan trọng đối
với đời sống.
Về xã hội, bảo hiểm giúp phòng ngừa rủi ro, hạn chế tổn thất, bảo đảm an toàn cho xã hội;

giảm áp lực cho ngân sách nhà nước trong việc trợ cấp thiên tai, tai nạn bất ngờ; và góp phần tạo
nếp sống tiết kiệm và mang đến trạng thái an toàn về tinh thần.
Về kinh tế, bảo hiểm giúp đảm bảo sự an toàn và ổn định về mặt tài chính; điều tiết cung
cầu - cầu vốn cho nền kinh tế; gián tiếp thúc đẩy hoạt động thương mại bằng việc tạo sự an tâm
cho các thương nhân và tạo thêm việc làm đối với lao động ngành bảo hiểm.


4
Với tầm quan trọng như vậy, pháp luật mỗi quốc gia đều cố gắng tạo ra hành lang pháp lý
hiệu quả để thúc đẩy phát triển hoạt động kinh doanh bảo hiểm và đảm bảo an toàn cho mỗi giao
dịch. Thêm vào đó, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm là nội dung quan trọng trong học phần luật
tài chính. Việc nghiên cứu, tìm hiểu về nó giúp ta có những kiến thức cơ bản về pháp luật kinh
doanh bảo hiểm và cũng bổ trợ cho những nội dung khác bên ngồi học phần. Do đó, nhóm 8 xin
lựa chọn chủ đề: “Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm” để làm bài tập nhóm cho học phần luật tài
chính.


5
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ KINH DOANH BẢO HIỂM
1.1. Bảo hiểm
1.1.1. Định nghĩa bảo hiểm
Cùng với sự phát triển của xã hội, con người dần nhận thức rõ hơn về những rủi ro trong
đời sống hàng ngày và tìm ra cách thức để phịng ngừa chúng. Bảo hiểm ngày nay dần được coi
như một phần không thể thiếu đối với các hoạt động của con người. Song, cách hiểu về nó vẫn
chưa được thống nhất. Nhiều học giả đã đưa ra các khái niệm, mô tả về tính chất đặc điểm về bảo
hiểm. Ví dụ, Dennis Kessler đã tiếp cận khái niệm bảo hiểm dưới khía cạnh triết lý vận hành của
nó để khẳng định bảo hiểm là sự đóng góp của số đơng vào sự bất hạnh của số ít. Trong cách tiếp
cận về hoạt động giữa người mua và người bán, Monique Gaullier cho rằng bảo hiểm là một
nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo
hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro

sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Và
dưới góc độ nghiệp vụ kinh doanh, Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa: Bảo hiểm là một
cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho
cơng ty bảo hiểm, cơng ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi
bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm.
Dù những cách tiếp cận và mơ tả nêu trên có phần khác nhau về câu từ sóng các tác giả đều
cho thấy sự thống nhất với nhau về bản chất của bảo hiểm. Bản chất của bảo hiểm là việc phân
chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo
hiểm hoạt động dựa trên Quy luật số đông (the law of large numbers).
Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp bảo hiểm nhờ vào
một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp
này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với tồn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt
hại theo các phương pháp của thống kê.
Pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa chung về bảo hiểm song nhà làm luật đã cho
thấy hai cách tiếp cận khác nhau đối với các loại bảo hiểm khác nhau. Cụ thể, đối với những bảo


6
hiểm bắt buộc do nhà nước thực hiện không mang tính chất kinh doanh, bảo hiểm được hiểu đơn
giản là sự “bảo đảm, bù đắp”1 cho chủ thể được bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm do luật
quy định. Đối với những loại bảo với mục đích thương mại, nhà làm luật tiếp cận dưới góc độ là
một “nghiệp vụ”2 được cung cấp bởi thương nhân trong thị trường và được thực hiện thông qua
các hợp đồng (được gọi là hợp đồng bảo hiểm).
1.1.2. Phân loại bảo hiểm
Có nhiều cách phân loại bảo hiểm khác nhau dựa trên tiêu chí đối tượng được bảo hiểm,
tính chất hoạt động hoặc phương thức tham gia bảo hiểm. Nhà làm luật Việt Nam đã thực hiện
phân loại bảo hiểm dựa trên 2 tiêu chí tính chất tự nguyện (bảo hiểm tự nguyện, bảo hiểm bắt
buộc) và tính chất thương mại (bảo hiểm thương mại, bảo hiểm phi thương mại). Với hai tiêu chí
phân loại này, bảo hiểm được chia thành 2 nhóm bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm phi thương mại do
nhà nước thực hiện) và bảo hiểm không bắt buộc (bảo hiểm thương mại do các doanh nghiệp kinh

doanh cung cấp).
Bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm phi thương mại) được đảm bảo thực hiện bởi quyền lực nhà
nước, áp dụng cho một số loại bảo hiểm nhất định nhằm bảo vệ lợi ích cơng cộng và an tồn xã
hội. Những loại bảo hiểm đó bảo gồm: bảo hiểm tiền gửi 3, bảo hiểm y tế3, bảo hiểm xã hội4 và một
số loại bảo hiểm khác như (bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe cơ giới, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm
nghề nghiệp tư vấn pháp luật …).

1 Xem Điều 4 Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012 (xem tại Văn bản hợp nhất 31/VBHN-VPQH năm 2019 hợp nhất Luật Bảo hiểm
tiền gửi do Văn phòng Quốc hội ban hành); Điều 2 Luật Bảo hiểm y tế 2008 sửa đổi, bổ sung 2014 (xem tại Văn bản hợp nhất
28/VBHN-VPQH năm 2020 hợp nhất Luật Bảo hiểm y tế do Văn phòng Quốc hội ban hành ); Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội
2014 (xem tại Văn bản hợp nhất 19/VBHN-VPQH năm 2019 hợp nhất Luật Bảo hiểm xã hội do Văn phòng Quốc hội ban
hành).
2 Xem Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi, bổ sung 2010 (được sửa đổi, bổ sung cùng luật sở hữu trí tuệ 2019) 3 Bảo
hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản.
3 Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật bảo hiểm y tế để
chăm sóc sức khỏe, khơng vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện.
4 Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.


7
Bảo hiểm không bắt buộc (bảo hiểm thương mại) được thực hiện bởi các chủ thể tư thông
qua các hợp đồng. Các loại bảo hiểm này bảo gồm 3 nhóm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân
thọ và bảo hiểm sức khỏe. Ở mỗi nhóm, nhà làm luật đã liệt kê những nghiệp vụ bảo hiểm tương
ứng.
-

Bảo hiểm nhân thọ gồm các nghiệp vụ: bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm


hỗn hợp (kết hợp sinh kỳ và tử kỳ), bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm trả tiền định kỳ, bảo hiểm liên
kết đầu tư (vừa bảo vệ rủi ro vừa đầu tư sinh lời).
-

Bảo hiểm phi nhân thọ, loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các

nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ, bao gồm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm
thiệt hại, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm
cháy nổ, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính, bảo hiểm thiệt hại kinh
doanh, bảo hiểm nơng nghiệp.
-

Bảo hiểm sức khỏe, hình bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm bị thương

tật, tai nạn, ốm đau, bệnh tật hoặc chăm sóc sức khỏe được doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo
hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, gồm: bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm y tế
(thương mại), bảo hiểm chăm sóc sức khỏe.
1.2. Kinh doanh bảo hiểm
Các hợp đồng hàng hải xuyên quốc gia vào thế kỷ XIV đã đặt nền móng cho hoạt động kinh
doanh bảo hiểm bằng cách xác nhu cầu về bảo hiểm hàng hóa, tàu biển và thân thể. Chủ nghĩa tư
bản sau này lại càng thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm và biến nó trở thành một ngành kinh
doanh dịch vụ.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, kinh doanh bảo hiểm là một hành vi thương mại (thông
thường là hành vi thương mại hỗn hợp) được thực hiện bởi các thương nhân nhằm mục đích kiếm
lời. Do đó, kinh doanh bảo hiểm có tính chất chun nghiệp và mang tính đặc thù của ngành bảo
hiểm – tính rủi ro, chia sẻ tổn thất với khách hàng. Tại Việt Nam, Kinh doanh bảo hiểm được quy
định tại điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm - là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục


8

đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ
sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Để tham gia vào hoạt động bảo hiểm, một doanh nghiệp cần có cho mình số vốn ban đầu
tương đối lớn để bắt đầu ký kết hợp đồng bảo hiểm với người đăng ký. Sau đó, doanh nghiệp sẽ
lập nên một quỹ bảo hiểm để có thể sẵn sàng sử dụng trong quá trình kinh doanh. Trường hợp sự
kiện bảo hiểm xảy ra, tiền trong quỹ sẽ được huy động để chi trả chi phí bồi thường. Trong quá
trình kinh doanh, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm tranh thủ sử dụng các biện pháp kinh doanh
hợp lý để sử dụng hiệu quả nguồn tiền bảo hiểm nhàn rỗi để tạo thêm nguồn thu nhập. Sau khi
nhận một hợp đồng bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ lưu ý, tính tốn những tình huống rủi ro xảy ra
ở những hợp đồng có giá trị bồi thường cao, để đưa ra những biện pháp phòng ngừa rủi ro như tái
bảo hiểm, thêm điều khoản trong hợp đồng.

CHƯƠNG II. PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM
2.1. Khái quát pháp luật về kinh doanh bảo hiểm
2.1.1. Khái niệm
Pháp luật về hoạt động kinh doanh bảo hiểm có vai trị chỉnh các quan hệ pháp luật trong
hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nó có ý nghĩa tạo ra một hành lang an toàn để các chủ thể trong
quan hệ yên tâm thực hiện các giao dịch để từ đó thúc đẩy phát triển hoạt động kinh doanh bảo
hiểm.
Pháp luật kinh doanh bảo hiểm là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh tổ chức và
hoạt động kinh doanh bảo hiểm, quy định quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia bảo
hiểm, quy định quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm.
2.1.2. Nguyên tắc kinh doanh bảo hiểm
Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm là tư tưởng chủ đạo trong việc kinh doanh bảo
hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm và tham gia bảo hiểm của tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm.
Là tư tưởng chủ đạo trong kinh doanh bảo hiểm nên tổ chức cá nhân người vi phạm nguyên tắc


9

phải gánh chịu các biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định. Với ý nghĩa như vậy, các nguyên
tắc do pháp luật quy định hoàn toàn khác biệt về bản chất so với các nguyên tắc của nghiệp vụ
kinh doanh bảo hiểm. Đối với các nguyên tắc nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
đảm thực hiện theo nguyên tắc tự chủ và tự chịu trách nhiệm. Còn đối với các nguyên tắc do pháp
luật quy định, việc tuân thủ là nghĩa vụ pháp lý mà doanh nghiệp phải đảm bảo thực hiện. Theo
Điều 6, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2019 có hai nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm:
Thứ nhất, “tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh
nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, người nước
ngồi làm việc tại Việt Nam có nhu cầu bảo hiểm được lựa chọn tham gia bảo hiểm tại doanh
nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam hoặc sử dụng dịch vụ bảo hiểm qua biên giới.”Việc đặt ra
nguyên tắc này nhằm mục đích tránh tình trạng các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động ở nước
ngồi nhưng vẫn tìm cách khai thác thị trường bảo hiểm ở Việt Nam và chuyển phí bảo hiểm ở
Việt Nam ra nước ngồi, ảnh hưởng tới việc khai thác nguồn vốn đầu tư phát triển.
Thứ hai, là một loại hình chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ tuân thủ
các quy định của pháp luật kinh doanh. Tuy vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm có rủi ro cao nên
Luật kinh doanh bảo hiểm quy định nguyên tắc: “doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo các yêu
cầu về tài chính để thực hiện các cam kết của mình đối với bên mua bảo hiểm.” Vì với tính chất là
hoạt động kinh doanh mang tính rủi ro cao, với vai trị quan trọng của kinh doanh bảo hiểm đối
với nền kinh tế và sự ổn định của đời sống xã hội việc đảm bảo khả năng tài chính của doanh
nghiệp bảo hiểm để đảm bảo quyền lợi cho các tổ chức cá nhân tham gia bảo hiểm là rất quan
trọng, bởi nó khơng chỉ tạo uy tín tạo ra khả năng kinh doanh có hiệu quả cho doanh nghiệp mà nó
cịn có ý nghĩa cho nền kinh tế xã hội. Việc đặt ra nguyên tắc này nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia,
tạo điều kiện phát triển lâu dài và lành mạnh cho thi trường bảo hiểm Việt Nam. Đồng thời bảo
đảm sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành và
pháp luật quốc tế.


10
2.1.3. Nguồn điều chỉnh pháp luật kinh doanh bảo hiểm
Hiện nay, hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở nước ta đang chịu sự điều chỉnh của nhiều

nguồn luật khác nhau. Bao gồm
-

Hiến pháp: cơ sở của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là quyền tự do kinh doanh được quy định tại
điều 33 Hiến pháp 2013.

-

Luật chuyên ngành: Luật kinh doanh bảo hiểm; Luật sửa đổi, bổ sung qua các năm

-

Các nghị định, thông tư, quyết định liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm: Nghị định số
18/2005/NĐ-CP Về quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm tương hỗ
ngày 24/02/2005 của Chính phủ; Nghị định số 130/2006/NĐ-CP Quy định chế độ bảo hiểm cháy,
nổ bắt buộc ngày 08/11/2006 của Chính phủ; Nghị định số 103/2008/NĐ-CP Về bảo hiểm bắt
buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 16/09/2008 của Chính phủ; Nghị định số
102/2011/NĐ-CP Về bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh, chữa bệnh ngày 14/11/2011 của
Chính phủ; Nghị định số 119/2015/NĐ-CP Quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư
xây dựng ngày 13/11/2015 của Chính phủ; Nghị định số 73/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết thi
hành Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo
hiểm ngày 01/07/2016 của Chính phủ;

-

Các luật chung bao gồm: Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư. Đây là những luật được
áp dụng chung cho mọi lĩnh vực của nền kinh tế trong đó có hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
2.2. Hợp đồng bảo hiểm
2.2.1. Khái niệm
Hai chế định cơ bản, trung tâm của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm gồm chế định về hợp

đồng bảo hiểm và chế định về các chủ thể kinh doanh bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là hình thức
thể hiện chính của quan hệ pháp luật về kinh doanh bảo hiểm mà thông qua đó các chủ thể ràng
buộc lẫn nhau trong mối quan hệ này. Tại Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi
bổ sung 2010, hợp đồng bảo hiểm được định nghĩa: “là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo


11
hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Cách định nghĩa trên cho thấy, một mặt, hợp đồng bảo hiểm cũng mang trong mình những đặc
trưng chung của hợp đồng dân sự, thương mại là một sự thỏa thuận giữa các chủ thể dựa trên cơ
sở tự do ý chí, tự do thỏa thuận nhằm làm phát sinh hiệu lực pháp lý ràng buộc các bên giao kết.
Hợp đồng bảo hiểm vừa nhằm mục đích kinh doanh sinh lời đối với chủ thể kinh doanh và vừa
nhằm tiêu thụ dịch vụ đối với bên được bảo hiểm. Mặt khác, hợp đồng bảo hiểm cũng mang một
số đặc trưng riêng của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm:
Thứ nhất, đây là hợp đồng song vụ. Người bảo hiểm và người được bảo hiểm có nghĩa vụ qua lại
lẫn nhau, cả hai đều được hưởng quyền lợi nhưng đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ; quyền lợi
của một bên được hưởng chính là nghĩa vụ của bên kia. Người bảo hiểm nhận phí bảo hiểm và
nhận bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Người được bảo hiểm thì đóng phí bảo hiểm để được nhận tiền bồi thường khi thiệt hại.
Thứ hai, bên mua chỉ lựa chọn gói dịch vụ chứ khơng thỏa thuận chi tiết về các nội dung
của dịch vụ. Về nguyên tắc người được bảo hiểm không được đàm phán hay sửa đổi các điều kiện
chung của hợp đồng mà người bảo hiểm ban hành, hoặc là tuân thủ hoặc là từ chối ký kết.
Thứ ba, việc thực hiện hợp đồng phụ thuộc vào những sự kiện ngẫu nhiên được các bên
thỏa thuận trước (sự kiện bảo hiểm). Bảo hiểm gắn với các khái niệm rủi ro; việc thực hiện hợp
đồng bảo hiểm chính là giải quyết hậu quả của rủi ro, hợp đồng mang tính may rủi khơng xác định
được hiệu quả khi ký kết, nghĩa là việc thực hiện hợp đồng của một bên – doanh nghiệp bảo hiểm
phụ thuộc vào việc có xuất hiện các sự kiện ngẫu nhiên mang tính may rủi hay khơng. Chỉ khi
xuất hiện điều đó mới xác định được hiệu quả của hợp đồng từ việc trả tiền của doanh nghiệp bảo

hiểm.
2.2.2. Nội dung hợp đồng bảo hiểm
Dựa trên vai trò của các điều khoản trong việc thiết lập quan hệ hợp đồng, các điều khoản
của hợp đồng bảo hiểm được phân chia thành: điều khoản bắt buộc, điều khoản tùy nghi. Điều


12
khoản bắt buộc là những điều khoản mà pháp luật quy định các bên phải thỏa thuận và ghi vào
văn bản hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm phải có những nội dung sau đây5:
-

Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng;

-

Đối tượng bảo hiểm;

-

Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản;

-

Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm;

-

Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm;


-

Thời hạn bảo hiểm;

-

Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm;

-

Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường;

-

Các quy định giải quyết tranh chấp;

-

Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng.
Trong những nội dung trên, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là điều khoản đặc thù

có vai trò quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Bởi vì, nội dung điều khoản loại trừ
là một căn cứ để xác định trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm. Điều 16 của Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định:
-

Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm
không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng


5 Điều 13 Luật Kinh doanh bảo hiểm


13
-

Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp: Bên mua
bảo hiểm vi phạm pháp luật do cố ý; Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc
chậm thơng báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Ngoài các điều khoản bắt buộc nêu trên, các bên có thể thỏa thuận và ghi vào hợp đồng các

điều khoản khác, các điều khoản này gọi là điều khoản tùy nghi6.
2.2.3. Hiệu lực hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có tính chất thực tế, cho nên về nguyên tắc hiệu lực của nó chỉ
phát sinh khi bên mua đóng phí bảo hiểm nếu các bên khơng có thỏa thuận gì khác. Việc phát sinh
hiệu lực khi các bên thỏa thuận không trái với các yêu cầu của pháp luật. Các quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt khi hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu lực
(theo quy định bộ luật dân sự và luật kinh doanh bảo hiểm): bên mua bảo hiểm khơng cịn quyền
lợi có thể được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm khơng đóng phí bảo hiểm hoặc khơng đóng phí bảo
hiểm theo thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác…
2.2.4. Chuyển nhượng hợp đồng
Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là chuyển giao quyền và nghĩa cụ của bên mua bảo
hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm cho người khác. Người thực
hiện chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là bên mua bảo hiểm phát sinh do có sự chuyển quyền sở
hữu tài sản được bảo hiểm. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường
hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển
nhượng và doanh nghiệp có văn bản chấp nhận chuyển nhượng đó (trừ trường hợp chuyển nhượng
được thực hiện theo tập quán quốc tế).
Thời hiệu khởi kiện hợp đồng bảo hiểm là ba năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp . Việc

xác định thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm không phụ thuộc vào bản chất pháp lý của hợp
đồng bảo hiểm là hợp đồng dân sự hay kinh tế.

6 Giáo trình Luật Tài chính Việt Nam, Khoa Luật – ĐHQGHN, NXB. ĐHQGHN, Năm 2002, Tr. 329


14
2.3. Chủ thể trong quan hệ pháp luật kinh doanh bảo hiểm
Chủ thể trong quan hệ pháp luật kinh doanh bảo hiểm là gồm các chủ thể xuất hiện trong
quan hệ hợp đồng dịch vụ bảo hiểm. Trong quan hệ này, chủ thể kinh doanh bảo hiểm là những
chủ thể đặc biệt mang tính đặc thù cao bởi nghiệp vụ của họ. Các chủ thể này, hoạt động kinh
doanh bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi và hoạt động của các chủ
thể khác để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm:
+ Hoạt động kinh doanh bảo hiểm, hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm
+ Hoạt động đại lý bảo hiểm
+ Hoạt động môi giới bảo hiểm.
Chủ thể hoạt động bảo hiểm bao gồm: Doanh nghiệp bảo hiểm, Doanh nghiệp tái bảo
hiểm, Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và Tổ chức, đại lý bảo hiểm.
2.3.1. Doanh nghiệp bảo hiểm
Thứ nhất, về doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành
lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của
pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm. Như vậy theo quy định của luật kinh
doanh bảo hiểm thì mặc dù có nhiều loại chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh trong lĩnh vực bảo
hiểm nhưng doanh nghiệp bảo hiểm chỉ gồm các tổ chức trực tiếp ký kết hợp đồng bảo hiểm với
khách hàng hoặc được thực hiện việc kinh doanh bảo hiểm với các hình thức tái bảo hiểm từ các
doanh nghiệp bảo hiểm khác.
Để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm phải được thành lập dưới các
hình thức sau: Cơng ty cổ phần bảo hiểm, Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm, Hợp tác xã bảo
hiểm, Tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Đặc điểm đặc thù giúp chúng ta nhận biết với các loại doanh
nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác là:

Thứ nhất, doanh nghiệp bảo hiểm có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu thường xuyên và
mang tính nghề nghiệp là kinh doanh bảo hiểm.


15
Thứ hai, Doanh nghiệp bảo hiểm được tổ chức thành lập và hoạt động theo các quy định
của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật. Trong việc tổ chức thành lập
và hoạt động của mình doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân theo Luật kinh doanh bảo hiểm.
Thứ ba, Doanh nghiệp bảo hiểm chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Tài Chính. Để quản lý
hoạt động kinh doanh bảo hiểm hầu hết các quốc gia trên thế giới đều giao cho một cơ quan quản
lý nhà nước nhất định. Một số nước ở Châu á như Singapore, Philipin, cơ quan quản lý nhà nước
về hoạt động kinh doanh bảo hiểm có tên gọi là Ủy ban giám sát bảo hiểm. Các nước khác như
Anh, Nhật Bản, cơ quan này là một phòng trực thuộc vụ quản lý các ngân hàng. Ở Việt Nam, Bộ
Tài chính là cơ quan của Chính phủ trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động
kinh doanh bảo hiểm. Điều này đã được Luật kinh doanh bảo hiểm quy định cụ thể: “Bộ Tài chính
chịu trách nhiệm trước Chính Phủ thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm” (Khoản 2,
Điều 121).
Ngoài hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm còn được phép thực hiện các hoạt động
như: áp dụng các biện pháp để đề phòng, hạn chế rủi ro áo, Tổn thất; giám định tổn thất, đại lý
giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn; quản lý quỹ, đầu tư
vốn và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
Để bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm nhân thọ, pháp luật quy định: Doanh
nghiệp bảo hiểm không được phép đồng thời kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân
thọ, trừ trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe và
bảo hiểm tai nạn con người bổ trợ cho Bảo hiểm nhân thọ.
Dựa vào hình thức hoạt động và điều kiện được cấp phép, quy định của Luật Kinh doanh
bảo hiểm Việt Nam cịn quy định Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài tại chương VI của
Luật này. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngồi được phép mở văn phòng đại

diện tại Việt Nam để thực hiện các hoạt động đại diện cho doanh nghiệp tuy nhiên văn

phịng đại diện khơng được kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, đồng thời phải tuân theo
pháp luật Kinh doanh bảo hiểm cũng như các Luật khác của Việt Nam.


16
2.3.2. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là doanh nghiệp thực hiện hoạt động môi giới bảo hiểm theo
quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Doanh
nghiệp môi giới bảo hiểm được hưởng hoa hồng môi giới bảo hiểm. Hoa hồng môi giới bảo hiểm
được tính trong phí bảo hiểm.
Đặc điểm của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm: (1) Là khâu trung gian thu xếp các hợp đồng
bảo hiểm; (2) Được hưởng khoản hoa hồng mà doanh nghiệp bảo hiểm trả theo nghĩa vụ quy định;
(3) Nghiên cứu nhu cầu của khách hàng và đưa ra sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất, hiệu quả nhất
và chi phí thấp nhất; (4) Được khách hàng ủy quyền và hành động vì quyền lợi khách hàng. Nên
doanh nghiệp bảo hiểm không được liên lạc trực tiếp với khách hàng khi khơng có sự nhất trí của
mơi giới.
Về thành lập doanh nghiệp môi giới bảo hiểm: (1) Bộ Tài chính cấp giấy phép thành lập
và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan; (2) Việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm
phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển thị trường bảo hiểm, thị trường tài
chính của Việt Nam.
Về hoạt động của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm: (1) Cung cấp thông tin về loại hình
bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; (2)
Tư vấn cho bên mua bảo hiểm trong việc đánh giá rủi ro, lựa chọn loại hình bảo hiểm, điều kiện,
điều khoản, biểu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm; (3) Đàm phán, thu xếp giao kết hợp đồng
bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm; (4) Thực hiện các cơng việc khác có
liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm.
Tương tự như Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngồi, Doanh nghiệp môi giới
bảo hiểm cũng được quy định trong chương VI của Luật Kinh doanh bảo hiểm về “Doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, cung cấp dịch vụ ra biên giới để đảm bảo chính sách thu hút vốn đầu tư

từ các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài vào thị trường kinh doanh bảo hiểm Việt Nam. Tại đây,
các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm khác phải tuân thủ


17
những quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện thành lập, điều kiện hoạt động đối với từng
chủ thể riêng.
2.3.3. Tổ chức, cá nhân đại lý bảo hiểm
Tổ chức, cá nhân đại lý bảo hiểm không bắt buộc phải là doanh nghiệp như hoạt động môi
giới bảo hiểm. Tổ chức, cá nhân thỏa mãn điều kiện luật định đều có thể thực hiện đại lý bảo hiểm
cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Tổ chức, cá nhân đại lý bảo hiểm được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền tiến hành các hoạt
động dựa trên cơ sở hợp đồng đại lý bao gồm:
-

Giới thiệu, chào bán bảo hiểm

-

Thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm

-

Thu phí bảo hiểm

-

Thu xếp giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm

-


Thực hiện các hoạt động có liên quan đến thực hiện hợp đồng bảo hiểm
Điều kiện hoạt động đại lý bảo hiểm gồm:

-

Bên nhận đại lý là cá nhân là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở
lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm do doanh
nghiệp bảo hiểm hoặc hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cấp

-

Bên nhận đại lý là tổ chức là tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp, nhân viên
trong tổ chức, đại lý trực tiếp thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện
quy định đối với cá nhân làm đại lý bảo hiểm.
Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm và đại lý bảo hiểm:
Đại lý bảo hiểm hoạt động theo sự ủy quyền của doanh nghiệp bảo hiểm. Vì vậy hành vi

của đại lý gây thiệt hại đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp của khách hàng tham gia bảo hiểm vẫn


18
thuộc về trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, sau đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có
biện pháp xử lý thích hợp với đại lý vi phạm.
Trong trường hợp đại lý bảo hiểm vi phạm hợp đồng đại lý bảo hiểm, gây thiệt hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải chịu
trách nhiệm về hợp đồng bảo hiểm do đại lý bảo hiểm thu xếp giao kết, đại lý bảo hiểm có trách
nhiệm bồi hồn cho doanh nghiệp bảo hiểm các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi
thường cho người được bảo hiểm.
Như vậy, đại lý do vơ tình hay hữu ý gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của khách hàng thì

người chịu trách nhiệm vẫn là doanh nghiệp bảo hiểm.
2.3.4. Doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm
Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lợi, theo đó
doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản phí bảo hiểm của doanh nghiệp khác để cam kết bồi
thường cho các trách nhiệm đã nhận bảo hiểm (Điều 3.2 Luật Kinh doanh bảo hiểm)
Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm bao gồm: (1) chuyển một phần trách nhiệm đã nhận bảo
hiểm cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác; (2) nhận bảo hiểm lại một phần hay toàn bộ
trách nhiệm mà doanh nghiệp khác đã nhận bảo hiểm.
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm các doanh nghiệp có thể ký kết hợp đồng và nhận
bảo hiểm trực tiếp với khách hàng tham gia bảo hiểm, nếu thấy trách nhiệm đó quá lớn, doanh
nghiệp có thể chuyển một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho các doanh nghiệp khác nhằm
phân tán chi phí rủi ro cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
Doanh nghiệp tái bảo hiểm có thể khơng ký kết hợp đồng và nhận trách nhiệm bảo hiểm
trực tiếp với khách hàng mà nhận một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm từ một doanh nghiệp bảo
hiểm khác. Theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm “Doanh nghiệp bảo hiểm có thể tái bảo
hiểm cho doanh nghiệp khác, bao gồm cả doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, tổ chức nhận tái
bảo hiểm nước ngoài. Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, tổ chức nhận tái bảo hiểm nước ngoài


19
phải đạt hệ số tín nhiệm theo xếp hạng của cơng ty đánh giá tín nhiệm quốc tế do Bộ Tài chính
quy định.” (Điều 9 Luật Kinh doanh bảo hiểm)
Hiện nay, tại Việt Nam có các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chuyên về kinh doanh tái bảo
hiểm: Công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) và Tổng công ty cổ phần tái
bảo hiểm PVI.
2.3.5. Bên tham gia bảo hiểm và bên liên quan trong hợp đồng bảo hiểm
Bên tham gia bảo hiểm
Người tham gia bảo hiểm còn gọi là người yêu cầu bảo hiểm, tức là người phải nộp phí bảo
hiểm khi ký kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm được
coi là người đối lập với doanh nghiệp bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm cần phải có đủ 3 điều

kiện sau đây:
Thứ nhất, có năng lực hành vi dân sự. Dù là cá nhân hay tổ chức đều phải có năng lực pháp
luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Người đã chết hoặc người chưa ra đời không được coi là
người tham gia bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm.
Thứ hai, có mối quan hệ mật thiết với tài sản hay sinh mạng, thân thể của đối tượng bảo
hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng may rủi, Luật pháp không cho phép u cầu bảo
hiểm cho những đối tượng khơng có mối quan hệ thân thiết với bản thân mình, tránh nguy cơ trục
lợi bảo hiểm
Thứ ba, có sự thỏa thuận về nộp phí bảo hiểm.
Bên có liên quan (bên thứ 3 được hưởng quyền lợi bảo hiểm)
Là người nhận tiền bảo hiểm, là người được tham gia bảo hiểm chỉ định và được ghi trong
hợp đồng bảo hiểm và được quyền đòi trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm thường xuất hiện trong loại hình bảo hiểm con người. Trong bảo hiểm
tài sản, người được bảo hiểm được hưởng quyền địi trả tiền bảo hiểm, thơng thường khơng nảy
sinh vấn đề người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Trong loại hình bảo hiểm con người, rủi ro


20
bảo hiểm thường là trường hợp chết của người được bảo hiểm. Sau khi xảy ra sự kiện bảo hiểm,
người được bảo hiểm không thể nào thực hiện được quyền địi bồi thường. Vì thế, khi lập hợp
đồng bảo hiểm con người, phải xác định được người nhận tiền bảo hiểm, tức là người được hưởng
quyền lợi bảo hiểm. Sau khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm có
quyền địi trả tiền bảo hiểm. Trong hợp đồng bảo hiểm người được hưởng quyền lợi bảo hiểm chỉ
hưởng quyền lợi, không phải đảm nhận bất cứ nghĩa vụ nào.



×