Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Vấn đề xâm hại danh dự, trên không gian mạng ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.52 MB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG

BÀI TIỂU LUẬN
CƠNG TÁC QUỐC PHỊNG VÀ AN NINH

ĐỀ TÀI: VẤN ĐỀ XÂM HẠI DANH DỰ, TRÊN
KHÔNG GIAN MẠNG Ở VIỆT NAM - THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Giảng viên hướng dẫn: Đặng Văn Khoa
Sinh viên thực hiện: Đào Phúc Hậu
MSSV: 45.01.102.025
Lớp: MILI270212
TPHCM, ngày 03 tháng 10 năm 2021


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................
3
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................................
5
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.............................................................................................
5
1.Cơ sở lý luận về quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm
...............................................................................................................................
5
2. Cơ sở lý luận về bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người qua môi
trường mạng..........................................................................................................
6


3. Mối quan hệ giữa quyền tự do ngôn luận với sự xâm phạm quyền bảo
vệ danh dự, nhân phẩm..........................................................................................
7
4.Bôi nhọ danh dự người khác trên mạng xã hội có thể bị tội gì ?
...............................................................................................................................
8
II. HÌNH THỨC XỬ LÝ HÀNH VI BÔI NHỌ DANH DỰ NGƯỜI KHÁC
TRÊN MẠNG XÃ HỘI.......................................................................................
9
III. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI
KHÁC...................................................................................................................
11
1.
Khách
thể
...............................................................................................................................
11
2.
Chủ
thể
...............................................................................................................................
11
3.
Mặt
khách
quan
...............................................................................................................................
11

—2—



4.
Mặt
chủ
quan
...............................................................................................................................
11
IV. THỰC TRẠNG VỀ SỰ XÂM PHẠM QUYỀN BẢO VỆ DANH DỰ,
NHÂN PHẨM CỦA NGƯỜI KHÁC QUA MẠNG INTERNET.....................
11
V. KINH NGHIỆM CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIẢI
PHÁP CHO VIỆT NAM.....................................................................................
15
1. Các quốc gia trên thế giới đã siết chặt an ninh mạng như thế nào?............
15
1.1.
Các
quốc
gia
EU
...............................................................................................................................
15
1.2.
Trung
Quốc
...............................................................................................................................
16
2. Đề xuất cho luật pháp Việt Nam trong việc bảo vệ quyền bất khả xâm
phạm về danh dự, nhân phẩm trên môi trường mạng (Giải pháp).................

16
PHẦN KẾT LUẬN..............................................................................................
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................
18

PHẦN MỞ ĐẦU
Quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm là một trong những quyền cơ
bản của con người, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế và được
công nhận bởi nhiều quốc gia trên thế giới. Trong thời đại 4.0, internet nói
chung và mạng xã hội nói riêng đều phát triển với tốc độ nhanh chóng, đem lại

—3—


nhiều tiện ích cho con người, nhưng cũng kéo theo những hệ lụy khôn lường.
Một trong những vấn đề “nổi cộm” trong những năm gần đây chính là việc bảo
vệ quyền khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm trong môi trường internet, khi
pháp luật về an ninh mạng chưa thực sự được thực thi một cách có hiệu quả,
chế tài chưa chặt chẽ, với các quy định chưa theo kịp với sự phát triển mạnh mẽ
và ngày càng phức tạp của mạng xã hội.
Việt Nam là một trong số những quốc gia có lượng người sử dụng internet cao
nhất trên thế giới. Sự phát triển “chóng mặt” của internet và mạng xã hội tại
Việt Nam đã dẫn đến những khó khăn việc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm
về danh dự, nhân phẩm của con người. Vậy do đâu mà vấn nạn này xuất hiện,
và tại sao đến bây giờ vẫn cịn tồn tại và chưa có biện pháp giải quyết triệt để ?
Đây là câu hỏi mà mọi người dùng mạng xã hội đều quan tâm và cũng là lý do
em chọn đề tài này.
Việc lợi dụng mạng xã hội để bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
ngưới khác không phải xuất hiện ở tất cả người dùng mạng xã hội, mà chỉ có ở

một số thành phần. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ làm cho mạng xã hội trở nên
thiếu lành mạnh, bạo lực, và thâm chí là ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của
người khác. Qua bài viết này ta sẽ cùng đi tìm hiểu về thực trạng không gian
mạng Việt Nam trong những năm gần đây. Từ đó lựa chọn và đưa ra một số
giải pháp khả quan cho vấn đề nêu trên để mọi người cùng cân nhắc và thực
hiện nhằm đưa không gian mạng trở thành một không gian sống lành mạnh, an
toàn đối với tất cả mọi người.
Những trang mạng xã hội thịnh hành hiện nay như Facebook, Instagram,
Tiktok,… là nơi xuất hiện nhiều nhất của những thành phần luôn chờ đợi thời
cơ để bơi nhọ, xâm hại và nói xấu người khác trên mạng. Chỉ trong vòng 2 năm
gần đây, số lượng những thành phần này tăng lên một cách đáng kể. Nhưng
những thành phần này đa số chỉ xuất hiện bằng cách giả danh hoặc lập tài
khoản ảo nên ta sẽ thu hẹp phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Đó là những tải
khoản giả mạo, những bình luận, bài viết tiêu cực của những sự việc “nổi cộm”
trên mạng trong hai năm gần đây (2019-2021).

—4—


Để đạt hiệu quả tối ưu trong đề tài nghiên cưu này, phương pháp nghiên cứu
triệt để nhất có lẽ là phương pháp điều tra, phương pháp quan sát sau đó là
phương pháp phân tích, tổng kết.

PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Cơ sở lý luận về quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm

—5—



Quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm được công nhận từ rất
sớm bởi các văn kiện quốc tế liên quan đến quyền con người. Cụ thể, tại tại
Điều 1 và Điều 2 của Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948,
quyền con người được ghi nhận như sau: “Mọi người sinh ra đều được tự do
và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền, đều được tạo hố ban cho lý trí và
lương tâm, và cần phải đối xử với nhau bằng tình anh em”. Bên cạnh đó, Điều
12 của Tun ngơn này cũng khẳng định: “Không ai phải chịu can thiệp một
cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị
xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân…”. Cơng ước về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966 cũng ghi nhận: “Khơng ai bị can thiệp một cách độc đoán
hoặc bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín hoặc bị xúc
phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín”. Có thế thẩy, các văn kiện quốc tế
được công nhận rộng rãi trên thế giới đã ghi nhận quyền bất khả xâm phạm về
danh dự, uy tín, nhân phẩm như một phần quyền nhân thân của con người.
Việt Nam là một trong những quốc gia thừa nhận và bảo vệ quyền nhân
thân của con người, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về danh dự và nhân
phẩm. Tiêu biểu, ngày 24/9/1982, Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, văn hóa và xã hội và Công ước quốc tề về các quyền dân sự
chính trị. Trước khi tham gia vào các cơng ước này, Việt Nam đã có sự thừa
nhận quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người trong Hiến pháp
năm 1980, cụ thể tại Điều 70: “Cơng dân có quyền được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm”. Đến năm 2013, Hiến pháp của
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lại một lần nữa nhấn mạnh và
khẳng định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; khơng bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Cụ thể hóa các quy định này, Bộ luật
Dân sự 2015 đã quy định cụ thể về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy
tín tại Điều 34, Khoản 1 của Điều 584 và Điều 592 về các nguyên tắc bồi
thường và đối tượng phải bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân

phẩm. Các văn bản pháp luật khác cũng có sự ghi nhận quyền bất khả xâm

—6—


phạm về danh dự, nhân phẩm và các chế tài khi xâm phạm quyền. Cụ thể, tại
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), người xúc phạm danh
dự nhân phẩm của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều
155 về tội làm nhục người khác và Điều 156 về tội vu khống người khác.
Ngoài ra, Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin
và giao dịch điện tử có hiệu lực từ ngày 15 tháng 4 năm 2020 cũng đưa ra các
mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của người khác trên môi trường mạng. Như vậy, có thể thấy, quyền bất
khả xâm phạm về danh dự và nhân phẩm đã được pháp luật Việt Nam công
nhận và bảo hộ thông qua nhiều văn bản pháp luật.
2. Cơ sở lý luận về bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người qua môi
trường mạng
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm và quyền bất khả xâm phạm về
danh dự và nhân phẩm của con người là những khái niệm khá trừu tượng và
mông lung, khi chưa đặt ra được những tiêu chí nhất định để xác định có hay
khơng việc xâm phạm quyền và đánh giá mức độ xâm phạm quyền. Bên cạnh
đó, việc phán xét sự xâm phạm còn phụ thuộc khá nhiều vào các chuẩn mực
đạo đức và hậu quả thực tế đối với người bị xâm phạm. Xuất phát từ đặc điểm
này, việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm của con
người trong môi trường mạng internet đang là một thách thức rất lớn đối với
các cá nhân và cơ quan có thẩm quyền.
Ngày 01/01/2019, Luật An ninh mạng 2018 có hiệu lực đã đặt những
“viên gạch” đầu tiên, xây dựng nền móng cho việc bảo vệ quyền nhân thân của
con người trong môi trường mạng internet. Trên tinh thần của Luật này, những

hành vi xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
đưa ra thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc
gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
được xem là thông tin trên khơng gian mạng có nội dung làm nhục, vu khống
và sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, những quy định của Luật An
ninh mạng 2018 còn khá chung chung và chưa thực sự đặt ra những giải pháp

—7—


thiết thực nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền bảo vệ danh dự, nhân
phẩm của con người, cũng chưa bắt kịp tốc độ phát triển nhanh chóng và ngày
càng phức tạp của mạng xã hội. Bên cạnh đó, Luật An ninh mạng 2018 còn khá
bất cập trong việc điều chỉnh các hành vi đa dạng của người dùng internet để có
thể phịng ngừa và xử lý các trường hợp xâm phạm quyền bảo vệ danh dự,
nhân phẩm của người khác.
3. Mối quan hệ giữa quyền tự do ngôn luận với sự xâm phạm quyền bảo vệ
danh dự, nhân phẩm
Bên cạnh quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm, quyền tự do
ngôn luận cũng là một trong số những quyền con người được ghi nhận và bảo
vệ từ rất sớm trong các văn kiện quốc tế. Điều 19 của Tuyên ngôn thế giới về
Nhân quyền 1948 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngơn luận và bày
tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như tự
do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ
phương tiện truyền thông nào, và khơng có giới hạn về biên giới”. Bên cạnh
đó, Điều 29 của Tuyên ngôn này cũng nêu rằng: “1. Mọi người đều có nghĩa vụ
đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà nhân cách của bản thân họ có thể phát
triển tự do và đầy đủ; 2. Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi
người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm
sự cơng nhận và tơn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người

khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự
công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ; 3. Trong mọi trường
hợp, việc thực hiện các quyền tự do này cũng không được trái với các mục tiêu
và nguyên tắc của Liên hiệp quốc”.
Quyền tự do ngôn luận của công dân Việt Nam cũng được ghi nhận
trong Hiến pháp 2013 như sau: “Điều 25. Cơng dân có quyền tự do ngơn luận,
tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định”. Đây là quy định mang tính chất nguyên tắc
để các nhà lập pháp triển khai các quy định có giá trị pháp lý thấp hơn, vì vậy,
nó chưa có sự hạn chế cụ thể đối với quyền tự do ngôn luận. Tuy nhiên, tại
Điều 20, Hiến pháp 2013 vẫn khẳng định: “Mọi người có quyền bất khả xâm

—8—


phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Cụm từ
“bất kỳ hình thức đối xử nào khác” có tính khái qt cao, trong đó có cả hình
thức xúc phạm bằng lời nói, bằng từ ngữ thể hiện dưới dạng văn bản, và các
hình thức đối xử khác.
Có thể thấy rằng, ở các đạo luật mang tính nguyên tắc như các văn kiện
quốc tế và Hiến pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, quyền
tự do ngôn luận vẫn được công nhận như một quyền cơ bản của con người. Tuy
nhiên, quyền tự do ngôn luận vẫn bị hạn chế nếu nó xâm phạm và gây thiệt hại
đến danh dự, uy tín và nhân phẩm của người khác. Như vậy, thực thi và bảo
đảm quyền tự do ngôn luận của con người không được đi ngược lại với các
chuẩn mực đạo đức xã hội, các lợi ích chính đáng của con người và cộng đồng.
4. Bôi nhọ danh dự người khác trên mạng xã hội có thể bị tội gì ?
Danh dự nhân phẩm của mỗi con người được pháp luật thừa nhận và bảo

vệ. Theo quy định tại Điều 34 BLDS 2015: Quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín
 Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được
pháp luật bảo vệ.
 Cá nhân có quyền u cầu Tịa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
 Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá
nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp
khơng có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết,
trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
 Thơng tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được
đăng tải trên phương tiện thơng tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải
chính bằng chính phương tiện thơng tin đại chúng đó. Nếu thông tin này
được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.

—9—


 Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền u cầu
Tịa án tun bố thơng tin đó là khơng đúng.
 Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì
ngồi quyền u cầu bác bỏ thơng tin đó cịn có quyền u cầu người đưa
ra thơng tin xin lỗi, cải chính cơng khai và bồi thường thiệt hại.”
Bên cạnh đó, Luật An ninh mạng mới được thơng qua và có hiệu lực từ
01/01/2019 có quy định tại khoản 3 Điều 16 về những hành vi xâm phạm đến
danh dự của người khác trên khơng gian mạng, thơng tin trên khơng gian mạng
có nội dung làm nhục, vu khống bao gồm:
 Xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
 Thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc

gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác.
Hành vi sử dụng mạng xã hội (facebook) là hành vi trái pháp luật, gây
ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Đối với hành vi này có thể bị xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định tại Khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP
phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi “Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe
dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác”.
Bên cạnh đó, nếu đáp ứng đủ điều kiện cấu thành tội danh thì người có
hành vi sử dụng mạng xã hội để bơi nhọ danh dự của người khác có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội Làm nhục người khác quy định tại Điều
155 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
II. HÌNH THỨC XỬ LÝ HÀNH VI BÔI NHỌ DANH DỰ NGƯỜI KHÁC
TRÊN MẠNG XÃ HỘI
- Buộc xin lỗi, cải chính cơng khai và bồi thường thiệt hại:
Theo quy định tại khoản 5 Điều 34 Bộ luật dân sự 2015, khi một người
bị thơng tin khơng chính xác làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy
tín thì có thể u cầu bác bỏ thơng tin đó. Ngồi ra, cịn có quyền u cầu

— 10 —


người đưa ra thông tin sai lệch xin lỗi, yêu cầu cải chính cơng khai và bồi
thường thiệt hại.
- Xử phạt vi phạm hành chính về hành vi bơi nhọ danh dự người khác:
Hành vi bôi nhọ danh dự của người khác có thể bị phạt vi phạm hành
chính từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng theo quy định tại Khoản 3 Điều
102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP đối với hành vi Cung cấp, trao đổi, truyền đưa
hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống,

xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác;
Tùy theo mức độ vi phạm và hậu quả gây ra, người vi phạm có thể bị xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về trật tự công cộng
tại Nghị Định 167/2013:
Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với
một trong những hành vi có cử chỉ, lời nói thơ bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm của người khác
- Chịu trách nhiệm hình sự khi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác:
Nếu đủ căn cứ cấu thành tội danh, người phạm tội có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự tại Điều 155 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung đối
với các trường hợp:
 Xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác
 Phạm tội 02 lần trở lên;
 Đối với 02 người trở lên;
 Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
 Đối với người đang thi hành công vụ;
 Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;
 Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thơng, phương tiện điện tử để
phạm tội;
 Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%.
 Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
 Làm nạn nhân tự sát.

— 11 —


Đối với tội danh này, người phạm tội có thể chịu hình phạt từ mức phạt
tiền 10.000.000 đồng lên đến mức phạt tù lên đến 5 năm trong trường hợp
khiến cho nạn nhân phải tự sát.
Ngoài ra, người phạm tội cịn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm

hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
III. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI
KHÁC
1. Khách thể
Khách thể mà tội phạm xâm phạm đến là danh dự, nhân phẩm của con
người. Là yếu tố được pháp luật hình sự bảo vệ
2. Chủ thể
Chủ thể của tội là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và
từ đủ 16 tuổi trở lên.
3. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội này được thể hiện qua hành vi xúc phạm nghiêm
trọng nhân phẩm, danh dự của người khác dưới các hình thức như lời nói (chửi
bới, sỉ nhục,…) hoặc các hành động làm hạ thấp nhân cách, danh dự của người
khác, làm cho người bị hại cảm thấy nhục nhã, xấu hổ.
4. Mặt chủ quan
Người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý. Thấy trước hậu quả sẽ làm cho
người khác bị xúc phạm nhân phẩm nặng nề nhưng vẫn để mặc cho hậu quả
xảy ra.
IV. THỰC TRẠNG VỀ SỰ XÂM PHẠM QUYỀN BẢO VỆ DANH DỰ,
NHÂN PHẨM CỦA NGƯỜI KHÁC QUA MẠNG INTERNET
Tốc độ phát triển nhanh chóng của internet như một con dao hai lưỡi.
Một mặt, phương thức biểu đạt của con người đã phát triển đến một tầm cao
mới, vươn ra khỏi biên giới quốc gia, tạo điều kiện cho sự tự do ngơn luận, xóa
mờ lằn ranh của các nền văn hóa, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên,
mặt trái của sự phát triển nhanh chóng của internet chính là vơ số hành vi xâm
phạm quyền con người ẩn dưới tên giả, hình ảnh giả. Việc tạo lập một tài khoản
trên mạng xã hội mà khơng cần cơng khai danh tính, nghề nghiệp, nơi ở, số

— 12 —



điện thoại… dần tạo điều kiện cho con người giao tiếp một cách rộng rãi,
nhanh chóng, mà khơng để lộ thơng tin cá nhân. Vì lí do đó, khơng ít cá nhân
đã lạm dụng quyền tự do ngôn luận ở trong mơi trường khó xác định được danh
tính người phát ngôn, lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của các nền tảng mạng xã
hội, các chức năng ẩn danh trình duyệt… để thực hiện hành vi xâm phạm danh
dự, nhân phẩm của người khác. Những hành vi này thường khó bị phát hiện và
điều tra một cách rốt ráo, bởi lẽ, việc chứng minh chủ thể thực hiện và hậu quả
của thiệt hại đều khá khó khăn và thiếu tính chính xác. Một hình thức bơi nhọ
danh dự, nhân phẩm khá phổ biến nhưng chủ thể thực hiện hành vi thường rất ít
khi phải đối mặt với chế tài của pháp luật chính là những hội nhóm trên
facebook như: hội nhóm bóc “phốt” các cơng ty, cửa hàng, hội nhóm antifans
của nghệ sĩ… Bên cạnh đó, nhiều đối tượng được thuê mướn để lập các tài
khoản giả mạo trên mạng xã hội, hoặc những tài khoản phụ mà không ai biết
chính xác danh tính của người lập, để tiến hành các hành vi bôi nhọ, vu khống,
xúc phạm người khác, gây ảnh hưởng đến uy tín của cá nhân. Hầu hết những
hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác đều để lại những hậu
quả nghiêm trọng trong đời sống cá nhân của người bị hại như: ảnh hưởng về
tinh thần, làm giảm sút uy tín, ảnh hưởng đến công việc và các mối quan hệ
trong xã hội.
Thực tế có rất nhiều trường hợp quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm của
con người bị xâm phạm thông qua mạng internet đã được đưa ra pháp luật.
Trong hầu hết các trường hợp này, việc xác định có hay khơng có hành vi xâm
phạm thường gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, trong bản án dân sự sơ thẩm số
289/2019/DS-ST về tranh chấp bồi thường thiệt hại danh dự, nhân phẩm ngày
29/05/2019 do Toà án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh thụ lý
giữa nguyên đơn là Trường Mầm Non H và bị đơn là Ông Nguyễn Thanh Đ., bị
kháng cáo và xét xử theo thủ tục phúc thẩm với Bản án phúc thẩm số
735/2019/DS-PT ngày 21/08/2019 do Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh thụ lý, cả Tòa cấp sơ thẩm và Tòa cấp phúc thẩm đều đưa ra nhận định:

“Phía ngun đơn khơng cung cấp được chứng cứ chứng minh ông Nguyễn
Huy H là người tạo ra và là người sử dung Facebook với tên gọi “ H N” để

— 13 —


đăng tin nói trên gây thiệt hại cho Trường mầm non H và cũng không cung cấp
được chứng cứ chứng minh lý do nghỉ học của 11 học sinh là do đọc thông tin
trên Facebook “ H N”. Bên cạnh đó, việc xác minh sự thực đằng sau những tài
khoản ảo trên mạng xã hội đều mang tính tương đối và gặp nhiều khó khăn, khi
khơng có đủ căn cứ chứng minh hành vi xâm phạm, chủ thể thực hiện hành vi
xâm phạm, hệ lụy của hành vi đó. Đó là chưa kể đến những trường hợp tài
khoản bị ăn cắp mật khẩu, bị điều khiển từ xa bởi các ứng dụng, phần mềm.
Cũng xuất phát từ việc “ẩn danh” trên mạng xã hội, việc khởi kiện bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm về danh dự,
nhân phẩm cũng gặp khó khăn khi xác định nơi cư trú của bị đơn, gây khó khăn
trong việc xác định tịa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan
đến hành vi xâm phạm về danh dự, nhân phẩm. Trên môi trường Internet, một
lời nói ngắn ngủi khơng rõ danh tính người phát ngơn đã có thể gây tổn hại đến
danh dự và nhân phẩm của người khác. Tuy nhiên, người bị hại có thể sẽ khơng
biết được ai là người đang xâm phạm mình, hoặc biết được ai đang xâm phạm
mình thì việc tìm ra nơi cư trú, thơng tin liên lạc, nhân thân… là điều vơ cùng
khó khăn. Vì vậy, một thách thức đặt ra đối với cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp về danh dự, uy tín và nhân phẩm của cá nhân, tổ chức thông qua
mạng Internet chính là xác định đúng và đầy đủ nhân thân, thông tin liên lạc và
địa chỉ cư trú của người có hành vi xâm phạm để thực hiện việc yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền xem xét và giải quyết. Việc xác định địa chỉ truy cập có
thể được thực hiện thơng qua các cơng dụng dị IP của thiết bị, tuy nhiên, việc
dò IP thiết bị truy cập không khả quan khi người dùng sử dụng thiết bị công
cộng, sử dụng các thiết bị không thuộc quyền sở hữu của người đó, hoặc người

dùng di chuyển qua nhiều địa điểm. Chưa kể đến một số website có tính năng
và cam kết bảo mật thông tin tài khoản người dùng để tránh bị đánh cắp thông
tin cá nhân, khi đó, các website này sẽ tự động mã hóa các thơng tin được cung
cấp bởi người dùng. Đặt trong tình huống người được che giấu thơng tin cá
nhân có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác thì các cam kết
khơng tiết lộ danh tính có thể là rào cản trong việc nhanh chóng xác định địa
chỉ cư trú của người vi phạm, cũng như thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

— 14 —


Năm 2021 là năm đầy biến động của Showbiz Việt Nam, nhiều nghệ sĩ
Việt Nam liên tục dính vào những scandal, drama… Nhưng điều đáng chú ý đó
chính là cách hành xử kém văn minh của những thành phần trên mạng có thể
đã ảnh hưởng ít nhiều đến cuộc sống và sự nghiệp của những người nghệ sĩ.
Trong đó khơng thể không kể đến drama “Trà xanh” của Sơn Tùng MTP. Tuy
người trong cuộc không lên tiếng quá nhiều nhưng những bình luận tiêu cực
của cư dân mạng nhằm cơng kích, bơi nhọ danh tiếng, thậm chí có thể huỷ hoại
sự nghiệp của một người nghệ sĩ.
Cụ thể, vào thời điểm rạng sáng 21.1, mạng xã hội xôn xao thông tin mối
quan hệ tình cảm giữa Thiều Bảo Trâm và Sơn Tùng M-TP có dấu hiệu rạng
nứt khi Thiều Bảo Trâm bỏ theo dõi trang cá nhân của Sơn Tùng. Đồng thời
những người bạn của Trâm đăng nhiều dòng trạng thái ẩn ý trên trang cá nhân.
Ngay sau đó, cộng đồng mạng lập tức quy kết người thứ 3 chen vào mối tình
10 năm của cặp đơi khơng ai khác chính là Hải Tú. Cơ ca sĩ mới gia nhập Công
ty MTP Talent cách đây không lâu và được sự quan tâm nồng nhiệt của giới trẻ.
Sau khi Hải Tú bị gán ghép trở thành người thứ 3, các từ khố liên quan đến
câu chuyện này đều có lượt tìm kiếm tăng vọt. Theo thống kê từ Google Việt
Nam thì từ khoá như: “Hải Tú”, “Thiều Bảo Trâm”, “Sơn Tùng M-TP”, và “trà
xanh” được tìm kiếm tăng chóng mặt. Đặc biệt nhất là cụm từ “trà xanh”

(người thứ 3) được gán ghép cho Hải Tú được tìm kiếm nhiều nhất vào hơm
21.1 vừa qua.
Ngồi chuyện tên tuổi được nhiều người tìm kiếm, trang cá nhân của Hải
Tú cịn nhận được nhiều sự quan tâm, tò mò của dư luận. Đơn cử như những
bài đăng, hình ảnh của cơ nàng liên tục nhận được hàng chục ngàn lượt “like,
share” và bình luận. Trong đó, những bình luận từ các bài đăng ở giữa tháng
12.2020 đến thời điểm hiện tại tăng một cách nhanh chóng.
Thay vì bình luận một cách ơn hịa, nhiều người lại để lại những lời lẽ
khó nghe. Thậm chí chỉ trích, mạt sát với nhiều ẩn ý dưới những dịng trạng
thái Hải Tú đã đăng tải. Ngồi ra, Hải Tú cịn bị nhiều người lập nhóm Anti với
hơn 500.000 lượt theo dõi chỉ trong 1 đêm. Mục đích của nhóm Anti này nhằm
chỉ trích, "ném đá" Hải Tú.

— 15 —


Đặng Thị Ngọc Mai (23 tuổi, ngụ đường Nguyễn Thiện Thuật, Q.3,
TP.HCM) chia sẻ: “Chuyện Hải Tú bị cộng đồng mạng chửi, chỉ trích những
ngày qua thật vơ lý. Mọi chuyện bắt đầu từ những động thái rất nhỏ của những
người nổi tiếng là bỏ theo dõi trang cá nhân nhau, rồi ngàn người thêu dệt
thành câu chuyện tình tay ba gây cấn. Cộng đồng mạng chia cánh tả, cánh hữu,
kẻ bênh vực, người chửi trong khi những người trong cuộc chưa ai lên tiếng gì
về câu chuyện này”.
Mai nói thêm, hiện chưa có thơng tin chính xác mà cộng đồng mạng đã
vào Facebook Hải Tú mạt sát cô bằng ngơn ngữ khó nghe. Chuyện tình cảm dù
sao cũng là chuyện cá nhân, nghệ sĩ cũng có quyền con người và giữ chuyện
riêng tư của họ.
Nguyễn Viết Dũng (27 tuổi, ngụ đường Võ Văn Ngân, P.Linh Chiểu,
Q.Thủ Đức, TP.HCM) cho biết mỗi người đều có quyền riêng tư, khơng ai
muốn chuyện riêng của mình bị mang ra bàn tán, soi mói suốt ngày như vậy.

Bạn trẻ đừng hóng hớt, chửi bới vô tội vạ người khác như vậy...".
V. KINH NGHIỆM CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIẢI
PHÁP CHO VIỆT NAM
1. Các quốc gia trên thế giới đã siết chặt an ninh mạng như thế nào?
1.1. Các quốc gia EU
Các quốc gia EU có quy định khá nghiêm ngặt đối với các công ty công
nghệ thông tin sở hữu mạng xã hội hay các nền tảng truy cập mạng để đảm bảo
an ninh, chống lại những ngôn từ phỉ báng, xúc phạm và gây thù ghét. Cụ thể,
“Thông báo của Ủy Ban Châu Âu và các Công ty công nghệ thơng tin về Quy
tắc ứng xử về lời nói gây thù ghét trực tuyến” đã đưa ra các cam kết cơng khai
mang tính chất đặt trách nhiệm cho các công ty công nghệ thông tin trong việc
đảm bảo an ninh và lợi ích cộng đồng trên nền tảng do mình sở hữu. Ví dụ, các
Cơng ty phải có các quy trình rõ ràng và hiệu quả để rà sốt những nội dung
gây thù ghét và hạn chế truy cập vào những nội dung đó, đồng thời phải có quy
tắc hoặc nguyên tắc cộng đồng nghiêm cấm sự kích động thù địch. Các Công ty
này cũng sẽ xem xét các báo cáo hợp lệ để xóa ngơn từ gây thù ghét, xúc phạm
và phỉ báng người khác dựa trên các quy tắc và nguyên tắc cộng đồng. Ngoải

— 16 —


ra, các Công ty này phải giáo dục và nâng cao nhận thức với người dùng về các
nội dung bị cấm theo quy tắc và nguyên tắc cộng đồng mà họ đã đưa ra…
Trên thực tế, Facebook và Youtube có các tính năng báo cáo các nội
dung gây thù ghét, xúc phạm, bôi nhọ, sai sự thật. Những tài khoản bị báo cáo
với các lí do trên cũng sẽ bị vơ hiệu hóa. Quy tắc và ngun tắc cộng đồng của
Facebook còn ngăn chặn những tài khoản sử dụng tên có dấu hiệu giả mạo.
1.2. Trung Quốc
Trung Quốc cũng là một trong những quốc gia có sự quan tâm đến an
ninh mạng, chống các ngôn từ thù địch, phỉ báng và xúc phạm người khác.

Trung Quốc khơng có chính sách “chào đón” các nền tảng quốc tế như
Facebook, Youtube, Google… vào mơi trường ảo của quốc gia này, thay vào
đó, họ tạo lập các nền tảng nội địa như Weibo, Baidu… Chính nhờ sự khác biệt
trong chính sách quản lý và vận hành các nền tảng mạng xã hội, nền tảng truy
cập tìm kiếm mà Trung Quốc dễ dàng quản lý các hoạt động trực tuyến của
người dùng.
Đối với mạng xã hội Weibo, người dùng buộc phải đăng ký các thơng
tin cá nhân, càng rõ ràng sẽ có điểm “dương quang” và điểm “uy tín” càng cao.
Điều này địi hỏi người dùng phải xác nhận số điện thoại, tên thật, nơi làm
việc… và có những tương tác tích cực trên mạng xã hội để hạn chế mọi trường
hợp bị công ty cơng nghệ thơng tin khóa tài khoản. Việc tương tác tích cực trên
mạng xã hội cũng là một cách để giữ gìn tài khoản của người dùng. Bên cạnh
đó, công ty công nghệ thông tin sở hữu Weibo sẽ loại bỏ và xóa sổ các tài
khoản có lượt báo cáo cao vì vi phạm quy tắc và nguyên tắc cộng đồng của họ.
2.Đề xuất cho luật pháp Việt Nam trong việc bảo vệ quyền bất khả xâm
phạm về danh dự, nhân phẩm trên môi trường mạng (Giải pháp)
Những thực trạng nhức nhối về sự xâm phạm quyền bảo vệ danh dự,
nhân phẩm của người khác xuất phát từ các cơ chế quản lý tài khoản không
chặt chẽ của mạng xã hội, sự thiếu sót của các quy định pháp luật và cả ý thức
chấp hành pháp luật còn hạn chế của người dân. Từ kinh nghiệm của Châu Âu
và Trung Quốc, tác giả cho rằng, Việt Nam cần có những phương hướng và
chính sách chặt chẽ, thiết thực hơn trong việc cải thiện trật tự, an ninh mạng.

— 17 —


Thứ nhất, Luật An ninh mạng 2018 chỉ mới nêu những nguyên tắc
chung để đảm bảo an ninh quốc gia và chống các thế lực thù địch, chưa có
những quy định cụ thể và chặt chẽ về việc đảm bảo quyền bất khả xâm phạm
về danh dự, nhân phẩm của con người trên mơi trường mạng. Vì vậy, cần có

những văn bản hướng dẫn và cụ thể hóa các quy tắc của Luật An ninh mạng
2018 về “các nội dung làm nhục, vu khống” để ngăn chặn những hành vi xúc
phạm nghiêm trọng và đưa ra thông tin bịa đặt, sai sự thật nhằm bơi nhọ danh
dự, uy tín, nhân phẩm của người khác.
Thứ hai, cần có quy định cụ thể để hướng dẫn công dân báo cáo các
hành vi xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm, vu khống và hạ thấp uy tín của
người khác. Ngoại trừ các khoản bồi thường theo Bộ luật Dân sự 2015 đối với
thiệt hại về danh dự, nhân phẩm và các mức phạt về tội làm nhục người khác
trong Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, theo điểm a, Khoản 1,
Điều 101 của Nghị định 15/2020/NĐ-CP, hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung
cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc
phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân sẽ bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Tuy nhiên, cần phải có các
hướng dẫn cụ thể về quy trình trình báo các hành vi xúc phạm đến danh dự và
nhân phẩm để cơng dân tự bảo vệ quyền của chính mình.
Thứ ba, khi tiếp nhận báo cáo của người có quyền lợi bị xâm phạm, tùy
theo mức độ của vụ việc, các cơ quan làm công tác tiếp nhận cần phải có ý thức
xem trọng nhất định đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về danh dự
và nhân phẩm của con người trên mạng xã hội, tiếp nhận báo cáo của công dân
một cách công khai, minh bạch, nhanh chóng để xử lý triệt để, bằng việc kết
hợp giữa các quy định pháp luật và ứng dụng công nghệ.
PHẦN KẾT LUẬN
Quyền tự do ngôn luận luôn được tôn trọng, đề cao và tạo điều kiện phát
triển mạnh mẽ trong môi trường internet. Việc công nhận và bảo vệ quyền tự
do ngơn luận trên mạng xã hội có ảnh hưởng tích cực đến sự giao lưu văn hóa,
phát triển tri thức của loài người, nhưng cũng kéo theo hệ lụy về sự xâm phạm
quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm của người khác. Trong bối cảnh

— 18 —



internet phát triển “chóng mặt”, luật pháp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế,
chưa bắt kịp với tốc độ biến đổi đa dạng của mạng xã hội và hành vi người
dùng. Vì vậy, cần có những cách nhìn nhận sâu sắc hơn đối với hệ lụy mà sự
xâm phạm quyền thông qua mạng xã hội đem lại, để đưa ra những phương
hướng thiết thực hơn nhằm đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về danh dự,
nhân phẩm và uy tín của con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />
toc-do-phat-trien-internet-nhanh-nhat-the-gioi20181204153607948.htm, xem ngày 27/12/2020
2. Điều 20, Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 2013,
được Quốc Hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11
năm 2013.
3. Xem điểm a, Khoản 1, Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP.
4. Theo Khoản 3, Điều 16, Luật An ninh mạng 2018.
5. Xem thêm bản án 735/2019/DS-PT ngày 21/08/2019 về tranh chấp bồi
thường thiệt hại danh dự, nhân phẩm.
6. Thơng

cáo báo chí của Ủy ban Châu Âu về việc “Ủy ban Châu Âu và các

công ty IT thông báo về Quy tắc ứng xử về phát ngôn thù hận trái pháp
luật trên mạng”, 31/5/2016, Bỉ, , truy cập ngày 29/12/2020.
7. Xem Điều 34, Khoản 1 của Điều 584 và Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015.
8. Xem Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
9. />10. />
— 19 —




×