Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.91 KB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM HẰNG NGA

PH¸P LUËT Về HOạT ĐộNG CHO VAY
CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI ĐốI VíI DOANH
NGHIƯP
ë VIƯT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM HẰNG NGA

PH¸P LUËT Về HOạT ĐộNG CHO VAY
CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI ĐốI VíI DOANH
NGHIƯP
ë VIƯT NAM
Chun ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ THU THỦY


HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Hằng Nga


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
LỜI CAM ĐOAN.........................................................................................2
MỤC LỤC....................................................................................................3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...............................................................5
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
Chương 1.........................................................................................................6
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HOẠT ĐỘNG CHO VAY

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP.........................6
.1.1. Những vấn đề lý luận về hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại đối với doanh nghiệp......................................................................6
.1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại đối với doanh nghiệp...........................................................15
.1.3. Các yếu tố tác động tới pháp luật về hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại đối với doanh nghiệp...........................................................32
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY.......................40
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP.............40
Ở VIỆT NAM................................................................................................40
.2.1. Chủ thể trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối
với doanh nghiệp.............................................................................................40
.2.2. Các điều kiện cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật ở Việt Nam..............................................52


.2.3. Nội dung hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại và
doanh nghiệp...................................................................................................64
.2.4. Vi phạm và xử lý vi phạm trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại đối với doanh nghiệp...........................................................78
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM...........................................................................................92
.3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại đối với doanh nghiệp ở Việt Nam........................................92
.3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại đối với doanh nghiệp ở Việt Nam........................................95
KẾT LUẬN..............................................................................................114



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

CTCP

Cơng ty cổ phần

HĐTD

Hợp đồng tín dụng

NHNNVN

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

NHTM

Ngân hàng thương mại

TCTD

Tổ chức tín dụng


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TSBĐ

Tài sản bảo đảm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việc mở rộng sự tham gia thị trường ngày càng đa dạng của các chủ thể, sự
xuất hiện thêm nhiều công cụ tài chính mới với xu hướng thành lập các tập đồn tài
chính hoạt động đa lĩnh vực (tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) đã cho
thấy sự phát triển vượt bậc của thị trường Việt Nam những năm qua, đồng thời đặt
ra nhiều thách thức và những rủi ro tiềm ẩn. Trong đó, sự phát triển cả về quy mô,
nghiệp vụ NHTM và doanh nghiệp đã phần nào thúc đẩy sự phát triển chung của
nền kinh tế. Có thể nói, NHTM là hệ thần kinh, trái tim của nền kinh tế, là dấu hiệu
báo hiệu trạng thái sức khỏe của nền kinh tế. Ngân hàng mạnh, nền kinh tế mạnh.
Ngược lại, ngân hàng yếu, nền kinh tế yếu. Thậm chí nếu ngân hàng đổ vỡ nền kinh
tế sẽ lâm vào khủng hoảng và sụp đổ. Với tư cách là tổ chức trung gian tài chính
nhận tiền gửi, đầu tư và tiến hành hoạt động cho vay, NHTM đã xâm nhập mọi lĩnh
vực kinh tế- xã hội như là người mở đường, người tham gia, người quyết định đối
với mọi quá trình sản xuất kinh doanh. NHTM ngày càng đóng vai trị là trung tâm
tiền tệ, tín dụng và thanh tốn của các thành phần kinh tế, giữ dịng vốn được lưu
thơng và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với
mọi thành phần kinh tế và là định chế quan trọng nhất của nền kinh tế tại Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với sự xuất hiện và
phát triển của nền sản xuất xã hội. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta có những
chuyển biến sâu sắc và ngày càng hội nhập vào cộng đồng quốc tế, việc xây dựng

hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động của NHTM nói chung, đặc biệt là hoạt động
cho vay – hoạt động chủ đạo của NHTM tại Việt Nam giữ vai trị vơ cùng quan
trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Pháp luật hoạt động cho vay của
NHTM đã hỗ trợ việc điều tiết cung cứng vốn của thị trường, đảm bảo quá trình tái
sản xuất của các tổ chức kinh tế được thực hiện liên tiếp với quy mô ngày càng mở
rộng, đặc biệt là các doanh nghiệp. Tình hình kinh tế diễn biến phức tạp, doanh
nghiệp tha thiết muốn tìm kiếm cơ hội kinh doanh tối đa hố lợi nhuận, NHTM
cũng khơng nằm ngồi mục đích đó đã vận dụng linh hoạt mọi nguồn lực và các

1


quy phạm pháp luật phát huy hoạt động đầu tư, kinh doanh đặc biệt là hoạt động
cho vay của NHTM khi doanh nghiệp có nhu cầu tiếp cận vốn vay. Phải khẳng định
rằng, vốn đóng vai trị then chốt trong quá trình hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp. Song song với việc thực hiện tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành,
NHTM đã và đang khuyến khích doanh nghiệp bằng nhiều chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp với hình thức tài trợ đa dạng, tập trung vào hoạt động cho vay vốn kinh
doanh, khẳng định vị thế của chính NHTM, kích thích thị trường, gia tăng cơ hội sử
dụng vốn cho các chủ thể kinh tế.
Có thể nói trong những năm qua, pháp luật ngân hàng nói chung và pháp luật
hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp nói riêng đã và đang được cải
thiện. Các văn bản pháp lý được xây dựng và ban hành đã tạo ra khung pháp lý
quan trọng, góp phần tạo đà phát triển cho hoạt động cho vay của NHTM hay hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hiện nay vẫn cịn tồn tại khơng ít
những bất cập trong q trình áp dụng các quy định của pháp luật vào thực tiễn tại
NHTM. Để hiểu đúng những quy định của pháp luật trong từng lĩnh vực là hồn
tồn khơng đơn giản và để thực hiện đúng, hành xử đúng quy định của pháp luật
phải trên cơ sở hiểu đúng nội dung quy định của pháp luật. Vì những lý do trên, tác
giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối

với doanh nghiệp ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để thực hiện được những nghiên cứu trên, tác giả luận văn đã tích cực tìm
hiểu, tham khảo các tài liệu chun khảo, các cơng trình, luận văn đã được cơng bố
của các tác giả như:
Sách chuyên khảo “Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới”;
Chủ biên PGS. TS Lê Thị Thu Thuỷ (2016). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đề tài khoa học cấp đặc biệt ĐHQGHN, QG.04.32, nghiệm thu 12/2005
“Pháp luật về các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản- kinh nghiệm các nước
và thực tiễn Việt Nam”. Chủ trì đề tài PGS.TS Lê Thị Thu Thuỷ.

2


Bài viết “Bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng” của tác
giả Lê Thị Thu Thuỷ. Tạp chí Khoa học Kinh tế - Luật, số 3/2002.
Bài viết trên tạp chí luật học điển hình của tác giả Lê Thị Thu Thuỷ & Đỗ
Minh Tuấn, “Giao dịch bảo đảm dưới khía cạnh so sánh luật học”, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp số 23 (303)/Kỳ 1 – tháng 12/2015.
Khoá luận tốt nghiệp: “Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại” của tác giả Trần Ngọc Thu (2011).
Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy (2010).
Luận văn thạc sĩ: “Mở rộng tín dụng doanh nghiệp tại Chi nhánh ngân hàng
Đầu tư và phát triển Gia Lai” của tác giả Nguyễn Tấn Lộc (2012).
Những giá trị tham khảo được từ các cơng trình trên và những cơng trình
nghiên cứu liên quan khác, cùng thực tế pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của
NHTM đối với doanh nghiệp ở Việt Nam là nguồn tài liệu tham khảo để tôi thực
hiện đề tài: “Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với

doanh nghiệp ở Việt Nam”.
Qua phân tích các nội dung và thực trạng pháp luật hoạt động cho vay của
NHTM đối với doanh nghiệp, tác giả đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp ở Việt
Nam, nhằm đảm bảo tốt hơn quyền, lợi ích của NHTM và doanh nghiệp khi tham
gia quan hệ tín dụng. Từ đó tạo ra mơi trường pháp lý thơng thống, thuận lợi để
NHTM sử dụng hiệu quả nguồn vốn đã huy động được, doanh nghiệp được tiếp cận
nguồn vốn hữu ích kịp thời phục vụ sản xuất, kinh doanh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về pháp luật về hoạt
động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp, đánh giá thực trạng về hoạt động
cho vay của NHTM ở Việt Nam, từ đó đưa ra kiến nghị hồn thiện pháp luật về hoạt
động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp ở Việt Nam;

3


Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích và làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho vay của
NHTM đối với doanh nghiệp và pháp luật về vấn đề này.
- Đánh giá thực trạng, thực tiễn hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh
nghiệp ở Việt Nam thời gian qua.
- Đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của
NHTM đối với doanh nghiệp ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là các quy phạm pháp luật
Việt Nam và thực tiễn thực thi pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM tại Việt
Nam, một số quy định của pháp luật nước ngoài về hoạt động của NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không đi sâu nghiên cứu về quản lý nhà
nước đối với hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp cũng như các

phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động cho vay của NHTM.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp, diễn giải, cụ thể:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng nhiều trong Chương 1 khi
nghiên cứu một số vấn đề lý luận về pháp luật về hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp tại NHTM.
- Phương pháp phân tích, đối chiếu, quy nạp, diễn giải được sử dụng chủ yếu
ở Chương 2 để nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về hoạt động cho vay đối
với doanh nghiệp tại NHTM ở Việt Nam.
- Phương pháp bình luận, tổng hợp, quy nạp được sử dụng chủ yếu ở Chương
3 khi đề cập đến một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay
đối với doanh nghiệp tại NHTM ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và những đóng góp mới của đề tài
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu, kết quả nghiên cứu của các cơng trình
khoa học đã được cơng bố, luận văn có một số đóng góp mới chủ yếu sau:

4


Thứ nhất, luận văn khơng chỉ phân tích những vấn đề lý luận về hoạt động
cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp ở Việt Nam mà còn nêu ra những ưu
nhược điểm, tìm ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế và
bất cập qua thực trạng pháp luật hiện hành về vấn đề này.
Thứ hai, từ thực trạng thực thi pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM
đối với doanh nghiệp, đề xuất kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật hiện hành về hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt và danh mục
tài liệu tham khảo, gồm có 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại đối với doanh nghiệp ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp ở Việt Nam.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
.1.1. Những vấn đề lý luận về hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại đối với doanh nghiệp
Ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh của mình với rất nhiều chủ thể
kinh tế, các chủ thể này tham gia hoạt động kinh doanh nói chung được biết đến với
những tên gọi như “thương nhân”, “doanh nghiệp” và “chủ thể kinh doanh”. Với
mỗi nước khác nhau có cách hiểu và sử dụng từ ngữ khác nhau, trong cuốn
Business Law có viết, “Một người được gọi là thương nhân khi người đó hành động
trong khả năng thương mại, sở hữu hoặc sử dụng chun mơn liên quan cụ thể đến
hàng hóa được bán” [68]. Thương nhân trong trường hợp này được hiểu là người có
chun mơn, hiểu biết nhất định về hoạt động thương mại của mình. Cách tiếp cận
này hồn toàn phù hợp với đặc thù nghề nghiệp của mỗi thương nhân bởi hoạt động
thương mại luôn gắn với yếu tố “lợi nhuận – rủi ro” nếu thương nhân không có
chun mơn thì khó có thể hành nghề cũng như tồn tại trên thương trường. Cách
tiếp cận của Luật Thương mại Việt Nam cũng hướng đến yếu tố này khi mà nhà làm
luật quy định tính chất “thành lập hợp pháp, hoạt động thường xuyên”. Bên cạnh đó,
pháp luật doanh nghiệp cũng tồn tại khái niệm “doanh nghiệp” có nội hàm gần giống
với khái niệm “thương nhân”. Theo đó, doanh nghiệp “là tổ chức có tên riêng, có tài

sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” [48]. Cụm từ “chủ thể kinh doanh” không
được luật hoá nhưng cũng được sử dụng trong một số giáo trình và được hiểu là
“những tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh mang tính nghề nghiệp, hoạt
động dưới một hình thức pháp lý nhất định… theo quy định của pháp luật” [12]. Trên
thực tế, cụm từ này được sử dụng khá phổ biến với nội hàm bao gồm tất cả các tổ
chức, cá nhân kinh doanh trên thị trường.
Như vậy, một số đối tượng là “thương nhân” nhưng không được xác định là

6


“doanh nghiệp” như hộ kinh doanh, hợp tác xã, mặc dù đây cũng là những tổ chức
kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, thực hiện hoạt động đầu tư sản
xuất kinh doanh. Ngoài ra, khái niệm “thương nhân” được hiểu theo nghĩa rộng
hơn, còn bao gồm những cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xun, có
đăng ký kinh doanh, chứ khơng chỉ bao gồm doanh nghiệp. Cả hai đối tượng
“thương nhân”, hay “doanh nghiệp” đều được xác định là “chủ thể kinh doanh”, đều
là những chủ thể có thực hiện hoạt động kinh doanh và thực hiện việc thu lợi nhuận
từ hoạt động kinh doanh. Nhưng không phải mọi “chủ thể kinh doanh” đều được
xác định là “thương nhân” hay “doanh nghiệp”. Điều đó có nghĩa, một số “chủ thể
kinh doanh” nhưng khơng được xác định là “doanh nghiệp” như hộ kinh doanh cá
thể, hợp tác xã, cá nhân kinh doanh cá thể… Đồng thời một số “chủ thể kinh doanh”
nhưng không được xác định là “thương nhân” như cá nhân kinh doanh, hoạt động
thương mại độc lập, thường xuyên, không đăng ký kinh doanh và khơng được gọi là
“thương nhân”, có thể ví dụ những người bán hàng rong, buôn bán vặt, bán quà vặt,
buôn chuyến, đánh giày, bán vé số, sửa chữa xe... Tùy vào từng chủ thể khác nhau,
là thương nhân, là doanh nghiệp, hay chủ thể kinh doanh khác mà thủ tục đăng ký
thành lập, hay cơ quan quản lý hoạt động kinh doanh của những chủ thể này cũng sẽ
khác nhau. Ở đây vừa có sự tương đồng, mở rộng dần về mặt khái niệm từ “doanh

nghiệp” đến “thương nhân” đến “chủ thể kinh doanh” nhưng cũng có sự khác biệt.
Mỗi một loại chủ thể đều được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật dựa trên những
cơ sở pháp lý và đặc điểm đặc trưng, nhằm phân loại và đưa ra những phương thức
giải quyết phù hợp đối với từng mối quan hệ kinh doanh thương mại. Cũng như vậy,
hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp có sự tham gia của hai chủ thể
là bên cho vay là NHTM và bên đi vay là doanh nghiệp, được điều chỉnh bởi những
nhóm quy phạm pháp luật chủ yếu liên quan tới hai chủ thể này.
 Khái niệm hoạt động cho
vay của NHTM đối với
doanh nghiệp
NHTM là tổ chức tín dụng – một loại hình doanh nghiệp đặc biệt trong nền

7


kinh tế, kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với mục đích lợi nhuận. Với chức
năng là trung gian tài chính, NHTM đóng vai trị kết nối giữa bên có vốn nhàn rỗi
gửi tại ngân hàng với bên thiếu vốn, có nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống chủ yếu thông qua hoạt
động cho vay. Hoạt động cho vay có vai trị rất quan trọng trong việc đảm bảo nhu
cầu vốn và sự luân chuyển vốn nhịp nhàng giữa các chủ thể kinh tế. Hoạt động cho
vay của NHTM đối với doanh nghiệp có thể hiểu là một hình thức cấp tín dụng,
theo đó NHTM cho vay hay giao cho khách hàng là doanh nghiệp một khoản tiền
để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có
hồn trả cả gốc và lãi. Với mỗi nhóm đối tượng khách hàng mang những đặc điểm
và đặc trưng khác nhau, bởi vậy NHTM có những điều kiện ràng buộc tương ứng
với từng nhóm khách hàng, nhằm đảm bảo tối đa hiệu lực của HĐTD, hạn chế rủi ro
phát sinh, phát huy được hiệu quả hoạt động tín dụng, giúp NHTM trở thành nơi tin
cậy để doanh nghiệp đi vay tin tưởng. Hoạt động cho vay của TCTD nói chung và
của NHTM nói riêng là một hoạt động nghiệp vụ ngân hàng truyền thống, phức tạp

bởi chính sự đa dạng trong nhu cầu vay vốn của các loại chủ thể đi vay.
 Đặc điểm hoạt động cho
vay của NHTM đối với
doanh nghiệp
Hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp là loại hình cấp tín
dụng của TCTD, đồng thời là một loại cho vay tài sản trong dân sự, vì vậy nó có
những đặc điểm chung với cho vay dân sự:
- Trong hoạt động cho vay luôn xuất hiện hai bên chủ thể tham gia là bên vay
và bên cho vay. Chủ thể cho vay là NHTM được pháp luật cho phép cấp tín dụng và
chủ thể đi vay là doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tại NHTM. Khi vay vốn tại
NHTM, doanh nghiệp phải thoả mãn các điều kiện vay vốn theo quy định pháp luật
và các điều kiện khác do các bên thoả thuận mà pháp luật khơng cấm.
- HĐTD là hình thức pháp lý của quan hệ cho vay ghi nhận sự thoả thuận
giữa NHTM với doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tại NHTM.
- Sự kiện cho vay luôn phát sinh bởi hành vi ứng trước và hành vi hoàn trả

8


được thực hiện bởi bên vay, sau khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận giữa các
bên trong HĐTD.
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của NHTM, hoạt động cho vay là hoạt
động đóng góp lợi nhuận nhiều nhất cho ngân hàng có những đặc điểm riêng của
hoạt động tín dụng ngân hàng:
- Là hoạt động kinh doanh có điều kiện, mang tính nghề nghiệp kinh doanh,
là một trong những nghiệp vụ chính mà NHTM thực hiện thường xuyên và chuyên
nghiệp mang lại lợi nhuận đáng kể cho NHTM.
- Tính chất rủi ro là rất lớn, dây chuyền, có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền
kinh tế - xã hội nên ngoài việc phải tuân thủ những quy định chung của pháp luật về
hợp đồng trong luật dân sự, hoạt động cho vay của NHTM còn phải chịu sự điều

chỉnh chặt chẽ của pháp luật ngân hàng.
Bên cạnh đó, NHTM được coi là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, hoạt động cho vay của NHTM đối
với doanh nghiệp mang nhiều đặc điểm phân biệt với các chủ thể kinh tế khác:
- Đối tượng khách hàng đa dạng vì các doanh nghiệp hoạt động trong nhiều
lĩnh vực khác nhau. Do đó nhu cầu vay vốn để đáp ứng cũng đa dạng và phong phú,
từ việc cho vay trong lĩnh vực xây dựng đối với các doanh nghiệp xây lắp hay cho
vay lĩnh vực đầu tư chăm sóc cây cơng nghiệp đối với các doanh nghiệp sản xuất cà
phê, cao su...
- Mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp là để đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất như vay vốn để mua nguyên liệu phục vụ sản
xuất, mua sắm tài sản cố định, xây dựng nhà xưởng, đổi mới thiết bị và áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh với các khoản
vay có giá trị lớn và có thể rất lớn.
- Thủ tục và quy trình cho vay doanh nghiệp phức tạp hơn vì tính pháp lý của
doanh nghiệp phức tạp hơn nhiều so với cá nhân. Bên cạnh đó giá trị khoản vay lớn
và tài sản đảm bảo thường phức tạp, khó định giá hơn vì hầu hết tài sản doanh

9


nghiệp thường thế chấp chính nhà máy, dụng cụ sản xuất của mình...
- Nguồn trả nợ của người vay- doanh nghiệp là từ tiền bán hàng (T-H-T’), lợi
nhuận, khấu hao và các nguồn thu hợp pháp khác.
- So với cho vay khách hàng cá nhân và hộ kinh doanh, khách hàng doanh
nghiệp có hệ thống thơng tin tốt hơn, chặt chẽ hơn do đều có hệ thống thơng tin kế
tốn, báo cáo tài chính. Các thơng tin tài chính được khách hàng cung cấp từ các
báo cáo tài chính, báo cáo thuế... Tùy thuộc vào báo cáo tài chính có được kiểm
tốn hay khơng, uy tín tổ chức kiểm tốn mà chất lượng thơng tin tài chính khách
hàng cung cấp cao hay thấp.

- Rủi ro xảy ra từ hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp
thường gây ra tổn thất lớn cho NHTM. Do đó, NHTM rất quan tâm đến quản trị rủi
ro các khoản cho vay doanh nghiệp.
 Nguyên tắc cho vay của
NHTM

đối

với

doanh

nghiệp
Nguyên tắc cho vay được xác định trên cơ sở chính sách tín dụng của Nhà
nước trong từng giai đoạn, yêu cầu bảo đảm quyền tự chủ cho TCTD và bảo đảm an
toàn cho các hoạt động ngân hàng. Trước khi ban hành Quy chế cho vay của TCTD
đối với khách hàng, các nguyên tắc cho vay bao gồm:
- Nguyên tắc tự do ý chí, tự nguyện và bình đẳng giữa các bên trong HĐTD.
Xuất phát là một loại giao dịch dân sự bởi vậy hoạt động cho vay cần đảm bảo
nguyên tắc chung đối với một giao dịch dân sự hợp pháp. Bên cho vay cho bên vay
vay tài sản là tiền tệ thông qua HĐTD- một loại hợp đồng vay tài sản. Mọi nội dung
thỏa thuận phải được sự tự nguyện, nhất trí của các bên. Đây là cơ sở để thực hiện
giao kết HĐTD giữa các bên, nếu trái nguyên tắc này thì HĐTD sẽ bị vơ hiệu.
- Ngun tắc sử dụng vốn vay đúng mục đích: Đây là điều kiện bảo đảm cho
việc thực hiện kế hoạch mà các bên định sẵn trước đó, mục đích sử dụng vốn vay là
nội dung phải được ghi rõ trong HĐTD. Theo đó, NHTM có quyền kiểm tra, giám

10



sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp
sử dụng vốn vay không đúng mục đích như đã thoả thuận, NHTM có quyền chấm
dứt việc cho vay và thu hồi nợ trước hạn. Điều này xuất phát từ sự cần thiết phải
kiểm soát tính rủi ro trong hoạt động tín dụng và vai trò rất quan trọng của nguyên
tắc này đối với khả năng thu hồi nợ vay của NHTM.
- Nguyên tắc hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi đúng thời hạn đã cam kết trong
HĐTD là nguyên tắc thể hiện tính chất đặc trưng của tín dụng phân biệt so với cấp
phát ngân sách. Đây cũng là điều kiện “tồn vong” của tín dụng. Hồn trả đúng thời
hạn cịn liên quan đến tính kế hoạch của nguồn vốn. Mantranốp- một nhà kinh tế
học người Nga từng cho rằng đây là nguyên tắc trên cả nguyên tắc (over
principle). Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, tức là kinh tế XHCN
phát triển cao, thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tuyệt đại bộ phận, thì ngân
hàng một cấp (NHNNVN kiêm cả nhiệm vụ NHTM) và doanh nghiệp quốc doanh
được coi là một chủ sở hữu (đều là sở hữu tồn dân) ở đâu đó khơng coi trọng,
thậm chí loại bỏ nguyên tắc này. Nhưng trong nền kinh tế thị trường dù là có định
hướng xã hội chủ nghĩa, quyền sở hữu tài sản của từng thành phần kinh tế được
bảo vệ nghiêm ngặt, thì “hồn trả” là ngun tắc tín dụng được coi trọng. Chính vì
vậy, từ năm 1990 đến nay chưa có văn bản nào bác bỏ nguyên tắc này. Theo đó, số
tiền mà doanh nghiệp vay chỉ được sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định
đã cam kết. Tuỳ thuộc vào phương thức vay mà người đi vay phải trả cho người
cho vay theo cách thức đã thỏa thuận tương ứng.
 Vai trò hoạt động cho vay
của NHTM đối với doanh
nghiệp
- Góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thơng hàng hóa phát triển: Trong q trình
sản xuất kinh doanh, để duy trì sự hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của doanh nghiệp
phải đồng thời tồn tại cả ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và lưu thông nên hiện tượng
thừa và thiếu vốn tạm thời thường xun xảy ra ở doanh nghiệp. Từ đó tín dụng góp

11



đã phần điều tiết các nguồn vốn tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh không bị
gián đoạn, là nguồn cung ứng vốn cho doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong nền
kinh tế. Mặt khác, với mục tiêu mở rộng sản xuất kinh doanh đối với từng doanh
nghiệp thì yêu cầu về nguồn vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được
đặt ra. Để đẩy mạnh tiến độ sản xuất, doanh nghiệp không chỉ trông chờ vào nguồn
vốn tự có mà cịn phải biết tận dụng những dịng chảy khác của vốn trong xã hội.
Tín dụng đã chứng tỏ là một trong những công cụ để tập trung vốn một cách hữu
hiệu trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, tín dụng cịn là cơng cụ thúc đẩy tích tụ vốn
cho doanh nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế. Đối với doanh nghiệp: vốn vay luôn
chiếm một vị trí đáng kể trong cơ cấu vốn lưu động và cố định của các doanh
nghiệp. Nói cách khác, vay vốn ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho các đơn vị sản
xuất kinh doanh và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Đối với dân chúng: vay
vốn ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Đối với toàn xã hội: vay vốn
ngân hàng làm tăng hiệu suất sử dụng đồng vốn.
- Góp phần ổn định tiền tệ, giá cả: Khi thực hiện chức năng tập trung và phân
phối lại vốn tiền tệ, tận dụng những nguồn vốn nhãn rỗi trong xã hội, cho vay doanh
nghiệp đã trực tiếp làm giảm khối lượng tiền tệ tồn đọng trong lưu thơng. Bên cạnh
đó, cho vay doanh nghiệp đã tạo điều kiện mở rộng thanh tốn khơng dùng tiền mặt.
Đây là một trong những nhân tố tích cực làm giảm việc sử dụng tiền mặt trong nền
kinh tế. Do đó cho vay doanh nghiệp được xem là một trong những biện pháp hữu
hiệu góp phần làm giảm lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Mặt khác,
do cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn
thành kế hoạch sản xuất kinh doanh...làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản
phẩm hàng hoá dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng được nhu cầu ngày càng
tăng của xã hội, chính nhờ đó mà cho vay doanh nghiệp góp phần làm ổn định thị
trường giá cả trong nước...
- Góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm, ổn định trật xã hội: Đây
là hệ quả tất yếu của hai vai trò nêu trên: nền kinh tế phát triển trong một môi


12


trường ổn định về tiền tệ là điều kiện để sản xuất hàng hoá và dịch vụ ngày càng gia
tăng có thể thoả mãn nhu cầu đời sống của các thành viên trong xã hội. Mặt khác,
do cho vay doanh nghiệp cung ứng đã tạo ra khả năng trong việc khai thác các tiềm
năng sẵn có trong xã hội do đó có thể thu hút được nhiều lực lượng lao động của xã
hội để tạo ra lực lượng sản xuất mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp: Sự sinh
lời của đồng tiền, đều là mong muốn của những ai nắm giữ nó. Trên thực tế, những
người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay để kiếm lãi, doanh nghiệp cũng vì
mục đích sinh lời của vốn mà cần vay thêm tiền để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Với tư cách là trung gian dẫn vốn, ngân hàng đã giải quyết được mâu thuẫn đó. Với
hoạt động đi vay để cho vay, ngân hàng đã tạo cơ hội cho các chủ doanh nghiệp có
thể thành lập cơng ty hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh bằng việc vay vốn.
- Góp phần tăng tiềm lực tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp: Theo quy luật khách quan, trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là một
tất yếu, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Việc tạo dựng thương hiệu và phát triển thị phần là một thử thách lớn đối với doanh
nghiệp trong quá trình cạnh tranh trên thương trường. Để mở rộng sản xuất, tạo vị
thế cho mình, ngồi nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp phải thường xuyên tìm
biện pháp huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, trong đó vốn vay ngân hàng
được coi là nguồn vốn bổ sung chủ yếu. Khi yêu cầu về vốn của doanh nghiệp được
đáp ứng thì mục đích chiễm lĩnh thị trường, tạo thế cạnh tranh của doanh nghiệp trở
nên dễ dàng hơn.
- Góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh doanh nghiệp: Thực chất,
ngân hàng cũng là doanh nghiệp kinh doanh, nhưng ở dạng kinh doanh tiền tệ hoạt
động theo cơ chế “vay để cho vay”, nghĩa là, ngân hàng cũng phải đi vay, phải đi vay,
phải tiến hành huy động vốn và có quy định thời hạn trả. Vì vậy, trước khi ký kết hợp

đồng vay vốn, ngân hàng tiến hành thẩm định tình hình hoạt động kinh doanh, năng
lực tài chính của doanh nghiệp rất kỹ càng và ngân hàng chỉ cho vay đối với những

13


khách hàng có kết quả hoạt động kinh doanh hiệu quả, tài chính lành mạnh, đảm bảo
khả năng trả nợ khi đến hạn. Yêu cầu này của ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp
quan tâm hơn đến hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vịng quay vốn
tạo điều kiện nâng cao khả năng tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. Mặt khác,
thông qua hoạt động cho vay, vốn vay ngân hàng được cung cấp kịp thời tạo điều kiện
cho sản xuất kinh doanh, vòng quay vốn được luân chuyển thuận lợi và nhanh chóng,
thúc đẩy hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
 Hình thức pháp lý của
quan

hệ

cho

vay

của

NHTM với doanh nghiệp
Trong quan hệ cho vay, bên cho vay không chỉ quan tâm đến lãi suất mà
cịn quan tâm đến sự an tồn của khoản vay, bên vay ngoài vấn đề lãi suất họ còn
quan tâm tới giá tiền của giá trị sử dụng mà họ phải trả có phù hợp với khả năng
tài chính và kết quả kinh doanh mang lại hay khơng. Với mỗi hình thức cho vay,
các chủ thể tham gia quan hệ cho vay với mức độ, nội dung khác nhau, kết quả là

sự thống nhất thỏa thuận giữa các bên được ghi nhận bằng văn bản chính là hợp
đồng tín dụng. HĐTD là hình thức pháp lý ghi nhận sự thoả thuận bằng văn bản
giữa NHTM với doanh nghiệp, trong đó ghi nhận một cách chi tiết cụ thể các nội
dung về chi phí vay, phương thức vay, lãi suất ... không trái với các quy định pháp
luật. Trên cơ sở đó, quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên được xác lập kể từ
thời điểm NHTM chuyển giao một khoản vốn tiền tệ cho doanh nghiệp sử dụng
trong một thời hạn nhất định, với điều kiện doanh nghiệp sẽ hoàn trả vốn vay (tiền
gốc) và lãi vay theo đúng thỏa thuận. HĐTD là hình thức ghi nhận bằng văn bản
sự thỏa thuận giữa NHTM và doanh nghiệp, tạo ra căn cứ có giá trị pháp lý cụ thể
cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTD.
Theo quy định hiện hành, văn bản HĐTD được hiểu bao gồm văn bản viết và văn
bản điện tử. HĐTD được xác lập thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức
thơng điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản. Các hợp đồng điện tử được
coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ trong

14


quá trình giao dịch.
.1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại đối với doanh nghiệp
Kinh tế càng phát triển, doanh số cho vay của NHTM càng tăng nhanh, loại
hình cho vay càng trở nên đa dạng, phức tạp. Bên cạnh nguồn lợi mà hoạt động cho
vay mang lại thì NHTM gặp phải khơng ít khó khăn. Trong quan hệ cho vay,
NHTM thường ở vị thế chủ động quyết định việc doanh nghiệp có được vay vốn
hay khơng. Tuy nhiên khi thu hồi vốn vay, NHTM phần nào vẫn phải phụ thuộc vào
khả năng kinh doanh và thiện trí trả nợ của doanh nghiệp. Để đảm bảo an toàn cho
các khoản vay, đảm bảo nguồn vốn cho vay không mất cân đối trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, kiểm soát được rủi ro, phát huy tối đa hiệu quả hoạt động cho
vay của NHTM đối với doanh nghiệp, góp phần cho hoạt động chung của nền kinh

tế được thực hiện thông suốt, việc xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt
động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp có vai trị vơ cùng quan trọng.
 Khái niệm pháp luật về
hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại đối
với doanh nghiệp
Hoạt động cho vay là hoạt động mang tính truyền thống của NHTM, có vai
trị vơ cùng quan trọng trong nền kinh tế, khơng chỉ bởi nguồn lợi mà nó tạo ra để
duy trì hoạt động của NHTM mà cịn bởi đây là hoạt động gắn liền với đối tượng
nghiệp vụ cho vay là tiền tệ - một loại hàng hóa có tính nhạy cảm và rủi ro cao. Hầu
hết các quốc gia có hệ thống NHTM đều ban hành quy định pháp luật về hoạt động
cho vay điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ
đó. Pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ cho vay giữa NHTM và doanh
nghiệp dựa trên nguyên tắc hồn trả, bình đẳng và thỏa thuận giữa bên cho vay
(NHTM) và khách hàng vay (doanh nghiệp). Pháp luật về hoạt động cho vay của
NHTM đối với doanh nghiệp ở Việt Nam không chỉ bao gồm những quy phạm pháp

15


luật dân sự Việt Nam nói chung mà cịn bao gồm cả những quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng nói riêng. Khi tham gia quan hệ cho vay, bên
cạnh việc tuân thủ các văn bản quy phạm pháp luật trên thì các chủ thể cịn phải
tuân thủ các văn bản hướng dẫn quy chế nội bộ của NHTM, các văn bản thỏa thuận
thể hiện sự tự nguyện thống nhất thỏa thuận các nội dung giữa các bên không trái
với các quy định của pháp luật trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng.
Sự khác biệt về chủ thể tham gia quan hệ cho vay kéo theo về mặt lý thuyết
điều chỉnh pháp luật hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp có những
điểm khác biệt so với các chủ thể khác không phải là doanh nghiệp vay vốn. Tại Việt

Nam nếu như “doanh nghiệp” được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp năm 2020 và
các văn bản pháp luật về doanh nghiệp, thì “thương nhân” được điều chỉnh bởi Luật
thương mại năm 2005, Luật doanh nghiệp năm 2020, và các văn bản khác về hoạt
động kinh doanh thương mại, cũng như các văn bản điều chỉnh các chủ thể được xác
định là “thương nhân”. Còn đối tượng “chủ thể kinh doanh” thì được nhắc đến trong
các văn bản điều chỉnh về hoạt động kinh doanh, thương mại, nhưng không được
định nghĩa cụ thể bởi bất cứ văn bản pháp luật nào, bởi các đối tượng được xác định
là chủ thể kinh doanh rất đa dạng, và đã được điều chỉnh bởi các văn bản khác.
 Nội dung pháp luật về hoạt
động cho vay của ngân
hàng thương mại đối với
doanh nghiệp
Nhìn chung các quy định pháp lý về hoạt động cho vay của NHTM tập trung
vào các vấn đề sau:
- Các chủ thể tham gia hoạt động cho vay.
- Các điều kiện vay vốn tại NHTM.
- Hợp đồng tín dụng (viết tắt là HĐTD).
- Các biện pháp đảm bảo thực hiện.
- Vi phạm HĐTD, tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong hoạt động cho
vay của NHTM đối với doanh nghiệp.

16


.1.2.1. Các chủ thể tham gia quan hệ cho vay giữa ngân hàng thương mại
đối với doanh nghiệp


Bên cho vay


Bên cho vay là NHTM phải thỏa mãn điều kiện được phép thành lập và được
phép thực hiện hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp theo quy định của pháp
luật. NHTM là đối tượng cần được quản lý chặt chẽ, vì NHTM là doanh nghiệp có
các hoạt động ảnh hưởng lớn đến sự ổn định xã hội, kinh tế đất nước và là tổ chức
có được quyền lực rất lớn trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã
hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ, lạm dụng quyền lực trong nội bộ của NHTM có thể
là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, gây ra sự mất lòng tin trong dân cư và đe doạ
sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Do đó, một số quy định về tổ chức quản lý đối
với NHTM thường được thiết kế chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp khác trong
nền kinh tế và là một thông lệ chung được thừa nhận rộng rãi trên bình diện quốc tế.
NHTM được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở các nước trên thế giới. Tại
Mỹ, khái niệm NHTM được hiểu như sau: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ,
chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành cơng nghiệp dịch vụ tài
chính. Tại Pháp định nghĩa, NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp
thường xuyên là nhận tiền bạc của cơng chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới
hình thức khác và sử dụng tài ngun đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết
khấu, tín dụng và tài chính ... Như vậy ở nhiều quốc gia, NHTM ngoài việc thực
hiện các hoạt động ngân hàng cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng dịch vụ
thanh tốn thì cịn thực hiện các hoạt động được phép khác nhằm thỏa mãn tối đa
nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. Với hoạt động huy động vốn bằng cách
nhận tiền gửi, NHTM giúp luân chuyển vốn từ nơi thừa vốn tới nơi thiếu vốn, góp
phần tăng hiệu quả sử dụng vốn trên thị trường. Trong đó, nguồn vốn phục vụ hoạt
động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp là nguồn vốn huy động từ khách
hàng, NHTM không cho vay tiền của bản thân mình mà NHTM đi vay để cho vay.
Ở Việt Nam, NHTM thường được hiểu là loại hình TCTD được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan dưới

17



sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước. Trong đó, hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền gửi sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh
toán, các hoạt động kinh doanh khác là các dịch vụ tổng hợp về kinh doanh tiền tệ
như nhận tiền gửi của khách hàng để cho vay, chiết khấu, cung cấp phương tiện
thanh toán, cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Như vậy, khái niệm
NHTM có thể được hiểu như sau: NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ,
là một TCTD thực hiện huy động vốn nhàn rỗi từ các chủ thể trong nền kinh tế để
tạo lập nguồn vốn tín dụng và cho vay phát triển kinh tế, tiêu dùng cho xã hội.


Bên vay

Bên vay vốn trong hoạt động cho vay của NHTM khơng bị giới hạn bởi bất
kì tổ chức cá nhân nào mà chỉ cần là tổ chức, cá nhân thoả mãn các điều kiện vay
vốn theo quy định chung của pháp luật và Quy chế cho vay nội bộ của từng NHTM.
Xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở quy định của pháp luật có liên quan, đề tài tập
trung xem xét nhóm khách hàng vay vốn là doanh nghiệp. Dư nợ cho vay doanh
nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của NHTM. Trên phương diện lý
thuyết có khá nhiều cách hiểu khi khái niệm doanh nghiệp được nghiên cứu và xem
xét dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Theo M.Francois Peroux: “doanh nghiệp là
một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự
quan tâm giá cả của các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty thực hiện
nhằm bán ra thị trường những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ để nhận được khoản tiền
chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy”. Theo quan điểm
phát triển: doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra những của cải. Nó sinh
ra, phát triển, có những thất bại, có những thành cơng, có lúc vượt qua những thời
kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đơi khi tiêu vong do gặp phải
khó khăn khơng vượt qua được. Hay doanh nghiệp là khái niệm chung nhất để chỉ
các loại hình cơng ty. Trên thế giới, so với loại hình doanh nghiệp khác, cơng ty
xuất hiện muộn hơn, vào khoảng giữa thế kỷ 19. Trước đó, hoạt động kinh doanh

thực hiện dưới hình thức hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân. Cũng từ thế kỷ 19,
đặc biệt nửa đầu thế kỷ 20, công ty là loại hình kinh doanh phát triển mạnh mẽ nhất.

18


Nhiều nước trên thế giới, thay vì thiết lập luật doanh nghiệp, đã thiên về quy định tổ
chức và hoạt động của loại hình cơng ty. Theo quan điểm của các nước tư bản, công
ty là một tổ chức kinh tế được thành lập theo vốn, thành viên góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về trái vụ của công ty trong phạm vi số vốn mà thành viên đó góp vào công
ty. Công ty được thành lập dựa trên thỏa thuận về quản lý điều hành, thường gọi là
điều lệ, có thể phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn và được thừa nhận
là pháp nhân ở hầu hết các nước.
Tuỳ theo đặc thù về lĩnh vực hoạt động kinh doanh, hình thức tổ chức trong
các lĩnh vực khác nhau, doanh nghiệp có thể được hiểu dưới các thuật ngữ khác
nhau: nhà máy, xí nghiệp, cơng ty, cửa hàng... mang đặc điểm chung là các tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đựơc đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh. Như vậy, trước hết doanh nghiệp phải là chủ thể kinh tế độc lập, có hoặc
khơng có tư cách pháp nhân, có tên gọi và hoạt động với danh nghĩa riêng, thực
hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thị trường và chịu trách nhiệm độc lập
về mọi hoạt động kinh doanh của mình. Thứ hai, tuỳ theo mục đích thành lập doanh
nghiệp mà mỗi doanh nghiệp có mục đích hoạt động khác nhau trừ một số ít các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cơng ích cịn mục đích của các doanh nghiệp
là tối đa hố lợi nhuận. Như vậy, dù định nghĩa ở góc độ mở rộng hoặc xem xét ở
góc độ hẹp, thì hình thức thể hiện phổ biến nhất của doanh nghiệp là một tổ chức
kinh tế và mục đích chủ yếu nhất của nó là kinh doanh.
.1.2.2. Các điều kiện vay vốn tại ngân hàng thương mại
Với từng loại hình doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tại NHTM, sẽ được NHTM
xem xét, đưa ra yêu cầu cụ thể về các điều kiện vay vốn trên cơ sở pháp luật quy định:

Trước hết về chủ thể vay vốn: Pháp luật quy định bên vay phải là cá nhân
hoặc pháp nhân [21, Điều 2]. Theo đó, doanh nghiệp vay vốn tại NHTM phải có tư
cách pháp nhân. Vậy vấn đề đặt ra là, đối với trường hợp doanh nghiệp tư nhân
khơng có tư cách pháp nhân nhưng cũng là một trong các chủ thể kinh tế tham gia
hoạt động sản xuất kinh doanh và họ đương nhiên cũng có nhu cầu vay vốn thì có

19


×