Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn ở huyện phong thổ, tỉnh lai châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.36 KB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MẠNH HÙNG

THùC HIÖN PHáP LUậT
Về GIảI QUYếT VIệC LàM CHO THANH NIÊN
NÔNG THÔN
ở HUN PHONG THỉ, TØNH LAI CH¢U

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MẠNH HÙNG

THùC HIÖN PHáP LUậT
Về GIảI QUYếT VIệC LàM CHO THANH NIÊN
NÔNG THÔN
ở HUN PHONG THỉ, TØNH LAI CH¢U
Chun ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ THÚY LÂM

HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Trong quá trình thực hiện Luận văn này, tơi có sử dụng một số tài liệu
tham khảo của các tác giả, các nhà khoa học và các anh, chị bạn bè đồng
nghiệp. Riêng các số liệu và kết quả trong q trình nghiên cứu là hồn tồn
do q trình tìm hiểu và nghiên cứu của tơi, chưa được sử dụng cho đề tài
bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng bản luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu và mọi thơng tin trích dẫn trong Luận văn đều có
nguồn gốc rõ ràng.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Mạnh Hùng


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế khơng có sự thành cơng nào mà không gắn liền với những
hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác.
Luận văn này được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực của bản thân cịn có sự giúp
đỡ tận tình của tập thể thầy, cơ, các đồng nghiệp và người thân trong gia đình.
Với tình cảm chân thành, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội và các thầy, cô giáo đã
giúp đỡ trong thời gian tôi học tập và nghiên cứu tại trường.
Huyện ủy, UBND huyện Phong Thổ, các Phịng, Ban liên quan và
huyện đồn Phong Thổ đã tạo điều kiện cung cấp số liệu phục vụ trong q

trình nghiên cứu để tơi hồn thành Luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS, TS Trần Thị Thúy Lâm, người
đã trực tiếp hướng dẫn và dành nhiều thời gian, cơng sức giúp đỡ tơi hồn
thành Luận văn của cá nhân tôi.
Mặc dù tôi đã cố gắng và cẩn thận trong việc lựa chọn nội dung cũng
như trình bày Luận văn, tuy nhiên Luận văn khơng thể tránh khỏi những thiếu
sót. Tơi mong muốn tiếp tục nhận được những góp ý q báu để Luận văn
được hồn thiện hơn, nhằm tìm ra nhiều giải pháp quý báu, thiết thực để hoàn
thiện hơn nữa thực hiện pháp luật về GQVL cho TNNT ở huyện Phong Thổ,
tỉnh Lai Châu.
Trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
LỜI CẢM ƠN.........................................................................................1
MỞ ĐẦU.................................................................................................1
1.1. Một số vấn đề lý luận về giải quyết việc làm cho thanh niên
nông thôn.....................................................................................................10
KẾT LUẬN...........................................................................................74
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Stt

Chữ viết tắt

Các từ

1

AEC

Hiệp Hội các quốc gia Đơng Nam Á

2

CNH

Cơng nghiệp hóa

3

CNH-HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

4

GQVL

Giải quyết việc làm


5

HĐH

Hiện đại hóa

6

ILO

Tổ Chức lao động quốc tế

7

KT-XH

Kinh tế, xã hội

8

LĐNT

Lao động nông thôn

9

LLLĐ

Lực lượng lao động


10

MTQG

Mục tiêu quốc gia

11

NLĐ

Người lao động

12

NTM

Nông thôn mới

13

QLNN

Quản lý nhà nước

14

THCS

Trung học cơ sở


15

THPT

Trung học phổ thông

16

TLSX

Tư liệu sản xuất

17

TNNT

Thanh niên nông thôn

18

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

19

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


20

XLVP

Xử lý vi phạm

DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu

Tên bảng

Trang

Thống kê số thanh niên trong độ tuổi từ 16 đến 30

Error:

của huyện Phong Thổ từ năm 2018-2020

Referen
ce

Bảng 2.1

source
not
found

Kinh phí dành cho đào tạo nghề tại huyện Phong
Thổ, tỉnh Lai Châu giai đoạn 2018-2020

Error:
Referen
ce

Bảng 2.2

source
not
found
Số lao động được đào tạo nghề tại huyện Phong Thổ
trong giai đoạn từ 2018-2020

Error:
Referen
ce

Bảng 2.3

source
not
found
Số lao động thanh niên có việc làm tại huyện Phong
Thổ trong giai đoạn 2018-2020

Bảng 2.4

Error:

Referen
ce
source
not
found



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
GQVL ln là mối quan tâm lớn của hầu hết các quốc gia, có tác động
khơng chỉ đối với sự phát triển của nền kinh tế mà còn đối với đời sống xã
hội, nó phản ánh thực trạng phát triển KT-XH của quốc gia đó. Tăng việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp là một trong những biện pháp tốt nhất để từng bước ổn
định và nâng cao đời sống nhân dân. GQVL ở các nước đang phát triển đặc
biệt là ở những nước có LLLĐ lớn như Việt Nam đang ngày càng trở thành
vấn đề cấp bách, nếu khơng giải quyết nó sẽ là yếu tố kìm hãm tăng trưởng
kinh tế và là nguyên nhân, nguồn gốc sâu xa nhất gây ra những tiêu cực về
mặt xã hội. Đối với nước ta, GQVL cịn là tiền đề quan trọng để sử dụng có
hiệu quả nguồn lực lao động đáp ứng nhu cầu của quá trình CNH-HĐH và hội
nhập quốc tế, là yếu tố quyết định để phát huy nội lực con người.
Thanh niên nói chung và TNNT nói riêng là nguồn nhân lực quan trọng
trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước. Hiện nay, Việt Nam hơn
17.000.000 thanh niên trong độ tuổi lao động và hơn 70% trong số này đang
sống tại khu vực nông thôn, phần lớn TNNT nước ta hiện nay thiếu việc làm.
GQVL và tình trạng thất nghiệp, mất cân bằng giữa yêu cầu công việc, nhu cầu
của thị trường lao động cũng như năng lực lao động đang là những vấn đề Đảng
và Nhà nước rất quan tâm và cấp thiết. GQVL, đảm bảo cho mọi người có khả
năng lao động, đáp ứng nhu cầu làm việc để có thu nhập ổn định là trách nhiệm
của các cấp, các ngành cũng như của tồn xã hội, góp phần quan trọng cho sự

phát bền vững của đất nước; là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn
lực lao động, góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước những
năm qua cùng với quá trình phát triển của tỉnh Lai Châu nói chung, huyện
Phong Thổ nói riêng đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt: Kinh tế phát
1


triển nhanh, an ninh chính trị ổn định, đời sống người dân từng bước được nâng
lên. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế hiện nay, GQVL cho TNNT ở huyện
Phong Thổ vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, tỷ lệ TNNT thất nghiệp, thiếu việc
làm đang có xu hướng tăng lên, một bộ phận thanh niên vi phạm pháp luật và
mắc các loại tệ nạn xã hội mà nguyên nhân chủ yếu là khơng có việc làm.
Vì vậy, học viên đã lựa chọn đề tài "Thực hiện pháp luật về GQVL cho
TNNT ở huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
ngành Luật kinh tế - Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về việc làm, GQVL luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu của giới luật học nước ta. Thời gian qua đã có nhiều cơng
trình khoa học về vấn đề này được công bố mà tiêu biểu phải kể đến một số
cơng trình nghiên cứu sau:
Luận án tiến sĩ kinh tế với tên đề tài “Giải pháp tạo việc làm cho
LĐNT thành phố Hà Nội trong bối cảnh đơ thị hố” của tác giả Trần Thị
Minh Phương, luận án đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm
cho LĐNT; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho LĐNT trong
bối cảnh đơ thị hố; những chính sách, quy định hiện nay đã được thực hiện
như thế nào để có thể hỗ trợ tạo việc làm, hiệu quả của các chính sách đề xuất
các giải pháp tăng cường khả năng tạo việc làm cho khu vực này.
Luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài “Nghiên cứu giải pháp chủ yếu
nhằm tạo việc làm cho TNNT huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình” của Bùi Đức

Hồng, tác giả đã phân tích khá chi tiết các nguyên nhân thiếu việc làm đối
với LĐNT nói chung, TNNT nói riêng và nêu ra những cơ hội chuyển đổi
việc làm và cách thức tạo việc làm cho đối tượng trên.
Luận án tiến sĩ với đề tài “Chuyển dịch cơ cấu LĐNT nhằm tạo việc
làm và sử dụng hợp lý nguồn lao động vùng đồng bằng sông Hồng về kết quả

2


nghiên cứu cơ cấu và thực trạng chuyển dịch cơ cấu LĐNT vùng đồng bằng
sông Hồng thời kỳ 1989-1994” đã được tác giả Trần Thị Tuyết đã trình bày
một cách khá bài bản có hệ thống; cũng trong luận án này, tác giả phân tích
vai trị đặc biệt của đồng bằng sông Hồng trong chiến lược phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước và chỉ ra mối quan hệ về kinh tế giữa Trung du miền núi
Bắc Bộ và đồng bằng sông Hồng.
Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính cơng với đề tài “QLNN về GQVL
cho TNNT ở tỉnh Hải Dương” của tác giả Phùng Ngọc An, tác giả mới chỉ tập
trung nghiên cứu các giải pháp GQVL, mà chưa nghiên cứu cụ thể 6 nội dung
QLNN về việc làm theo Luật Việc làm 2013 cho lao động là TNNT.
Luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài “Việc làm cho lao động nơng nghiệp
trong q trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội” của tác tác giả
Nguyễn Thị Huệ đã tập trung trình bày cơ sở lý luận về việc làm cho lao động
nông nghiệp trong q trình xây dựng nơng thơn mới. Luận án đã phân tích thực
trạng, đề xuất 05 giải pháp chung, 09 giải pháp cụ thể, tạo thành một hệ thống
giải pháp đồng bộ, logic, khoa học và có tính khả thi trong việc GQVL cho lao
động nông nghiệp trong q trình xây dựng nơng thơn mới ở Thủ đơ Hà Nội.
Luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài “Tự tạo việc làm của LĐNT trên địa
bàn tỉnh Nghệ An” của tác giả Hồ Thị Diệu Ánh, trong đó, vai trị của hộ gia
đình được xác định có yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tự tạo việc làm của
LĐNT; kết quả phân tích cho thấy các yếu tố thuộc về hộ gia đình có ảnh

hưởng lớn đến tự tạo việc làm cho LĐNT, bao gồm: Sự hỗ trợ của hàng xóm;
sử dụng vốn vay của họ hàng; vốn của bạn bè trong xã; gia đình có đất đai
nhà xưởng và ảnh hưởng của bạn bè. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp
thúc đẩy tự tạo việc làm của LĐNT trên địa bàn.
Luận án tiến sĩ kinh tế về “Chính sách việc làm cho LĐNT trong bối
cảnh di dân - Nghiên cứu tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ” của tác giả Nguyễn

3


Hồi Nam đã hệ thống hóa sở lý luận và thực tiễn về chính sách việc làm cho
LĐNT trong bối cảnh di dân; phân tích chính sách việc làm cho LĐNT trong
bối cảnh di dân tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ, chỉ ra những thành công và hạn
chế, đồng thời đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tác
động chính sách việc làm cho LĐNT trong bối cảnh di dân ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ đến năm 2025.
Tác giả Nguyễn Vi Khải trong cuốn sách “Dân số, lao động, việc làm”.
Vấn đề - giải pháp đã tiếp cận từ góc độ lý luận, thực tiễn đổi mới nhận thức,
quan điểm, định hướng chiến lược về dân số, lao động và việc làm. Đề xuất
một số kiến nghị, giải pháp cấp bách về lao động và việc làm qua kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới.
Các tác giả Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung trong cuốn sách “Về
chính sách GQVL ở Việt Nam” đã trình bày vị trí của chính sách việc làm
trong QLNN. Các khái niệm cơ bản về lao động, thị trường lao động, việc
làm. Thực trạng việc làm ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp giải quyết có
tính khả thi sát với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Đinh Đăng Định, trong cuốn sách “Một số vấn đề về lao
động, việc làm và đời sống NLĐ ở Việt Nam hiện nay” đã phân tích cơ cấu
lao động, khả năng GQVL, đời sống NLĐ, thực trạng lao động và việc làm

ở Việt Nam. Đề xuất những phương hướng và giải pháp căn bản mang tính
định hướng về các chương trình phát triển cơng nghiệp, dịch vụ, khuyến
khích xã hội hóa dịch vụ cơng nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động
và GQVL ở Việt Nam.
Trong cuốn sách “Tạo việc làm cho NLĐ bị ảnh hưởng trong q trình
đơ thị hố Hà Nội”, tác giả Vũ Thị Mai đã trình bày cơ sở lý luận một số
nhân tố kinh tế, xã hội gây áp lực mạnh đối với vấn đề việc làm trong quá

4


trình đơ thị hóa; tác động, ảnh hưởng của vấn đề đơ thị hóa và việc làm cho
NLĐ bị thu hồi đất và kinh nghiệm quốc tế về tạo việc làm cho NLĐ.
Hai tác giả Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa đã có những phân tích
tương đối đầy đủ vấn đề sử dụng nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam: Dư
thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật lành nghề; trong đó, chất
lượng lao động được đào tạo bài bản, có tác phong cơng nghiệp…đóng vai trị
quan trọng cho việc gọi vốn, thu hút công nghệ, khai thác tiềm năng thiên
nhiên để tạo việc làm cho NLĐ trong một cuốn sách có tựa đề Sử dụng nguồn
lao động và GQVL ở Việt Nam.
Cuốn sách “Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng nghề
truyền thống” của hai tác giả Nguyễn Văn Đại, Trần Văn Luận tập trung vào
việc xây dựng khái niệm, xác định các đặc điểm việc làm trong các làng nghề;
tình hình việc làm trong các làng nghề truyền thống trước thời kỳ đổi mới,
thực trạng việc làm trong các làng nghề truyền thống từ đổi mới đến nay, dự
báo số làng nghề; phương pháp và các giải pháp cơ bản nhằm khôi phục và
phát triển các làng nghề truyền thống gắn với các sản phẩm thủ cơng từng có
"tên tuổi" trên thị trường, đồng nghĩa với việc giúp NLĐ nơng thơn có thêm
việc làm, tăng thu nhập đã và đang là vấn đề trăn trở của chính quyền các cấp
và người dân tại nhiều địa phương trong cả nước.

Trong một nghiên cứu do Tổng Liên đồn Lao động Việt Nam chủ trì
với tựa đề: “Những tác động tới việc làm, đời sống của NLĐ và các giải pháp
hoạt động Cơng đồn khi Việt Nam gia nhập WTO” [16], đã đề cập đến
những hiểu biết cơ bản nhất về WTO; Hiệp định thương mại tự do và những
tác động tới kinh tế Việt Nam; những mặt tích cực, thuận lợi, những khó khăn
và thách thức; những tác động đối với việc làm và đời sống của NLĐ nước ta
khi Việt Nam gia nhập WTO và các giải pháp về hoạt động Cơng đồn Việt
Nam trước những tác động đó.

5


Trong đề tài luận án tiến sĩ xã hội học có tên “Mối quan hệ giữa dân số
và việc làm ở nơng thơn đồng bằng sơng Hồng trong q trình CNH-HĐH”,
tác giả Đặng Xuân Thao đã chứng minh được mối quan hệ tương tác giữa dân
số và việc làm ở nơng thơn đồng bằng sơng Hồng mang tính quy luật chung
của nhiều nền kinh tế bước sang cơ chế thị trường, mối quan hệ này còn liên
quan, ảnh hưởng đến nhiều yếu tố xã hội của cộng đồng làng, xã hoặc khu
vực, quốc gia, nó cũng có tính đặc thù ở từng địa phương. Đồng thời, cũng đã
nêu ra một số khuyến nghị về kiểm soát dân số ở cấp cơ sở.
Chính sách, pháp luật về việc làm, một số vấn đề đặt ra và hướng hồn
thiện (Tạp chí Báo lao động số ra ngày 13/12/2011, tác giả: Lê Quang
Trung); Đánh giá nguồn nhân lực Việt Nam khi tham gia AEC (Tạp chí tài
chính số ra ngày 02/7/2015, tác giả: Nguyễn Thương Lạng, Trần Đức
Thắng).
GQVL cho NLĐ năm 2017 (tạp chí Thế giới &Việt Nam, số ra ngày
29/01/2017, tác giả: Đào Ngọc Dung).
Ngồi ra, Một số cơng trình nghiên cứu dưới góc độ pháp lý như:
“Pháp luật lao động về việc làm và GQVL ở Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập” (tác giả: Đinh Thị Nga Phượng, năm 2011); “Một số giải pháp nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực Việt nam trong bối cảnh hội nhập” (tạp chí
Lao động&xã hội, số ra ngày 29/9/2016).
Cho đến nay đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu vấn đề GQVL
dưới nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên rất ít cơng trình nghiên cứu dưới góc
độ luật học. Đặc biệt đối với vấn đề GQVL cho TNNT ở huyện Phong Thổ thì
chưa có đề tài nào. Vì vậy có thể xem đây là cơng trình nghiên cứu luật học đầu
tiên về vấn đề này. Qua nghiên cứu các cơng trình đã cơng bố, tác giả luận văn
cũng đã tham khảo được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất có giá trị khoa
học đối với đề tài của mình và trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề

6


được nghiên cứu trong các cơng trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát tình
hình thực tế tại huyện Phong Thổ, tác giả luận văn có thể rút ra những giải pháp
thực hiện pháp luật về GQVL cho TNNT ở huyện Phong Thổ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về GQVL cho thanh niên
và thực hiện quy định của pháp luật về vấn đề này.
Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về GQVL cho TNNT huyện
Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về GQVL cho TNNT trên địa bàn huyện Phong Thổ,
tỉnh Lai Châu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về GQVL cho thanh niên.
Phân tích thực trạng pháp luật về GQVL cho thanh niên.

Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về việc làm cho TNNT huyện
Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Đề xuất giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về GQVL cho TNNT huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về GQVL
cho thanh niên. Các quy định pháp luật về GQVL, trong đó tập trung cơ bản
nhất là Luật Việc làm năm 2013, Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài và một số văn bản pháp luật có liên quan.
Ngồi ra luận văn còn nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật về

7


GQVL cho thanh niên tại huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn này nghiên cứu vấn đề GQVL cho TNNT dưới góc độ pháp
luật lao động ở một số nội dung như: trách nhiệm của một số chủ thể trong
GQVL, GQVL thông qua tổ chức dịch vụ việc làm, hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ
trợ chuyển dịch việc làm, đưa NLĐ đi làm việc có thời hạn ở nước ngồi.
Luận văn khơng nghiên cứu về GQTC và XLVP trong vấn đề này.
Bên cạnh đó luận văn còn nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật
về GQVL cho TNNT ở huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Về không gian: Khu vực nông thôn huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Về thời gian: 2018 - 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin.
Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu

được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về
việc làm, GQVL.
Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng
pháp luật về GQVL ở huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải
được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về GQVL trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về GQVL cho
thanh niên, phân tích được thực trạng pháp luật về vấn đề này cũng như thực
tiễn thực hiện tại huyện Phong thổ, tỉnh Lai Châu. Đồng thời luận văn cũng
đưa ra được một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện pháp luật và nâng

8


cao hiệu quả thi hành pháp luật về GQVL ở huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích khơng chỉ đối với các nhà lập
pháp, đối với đội ngũ cán bộ QLNN về việc làm mà cịn có thể là tài liệu
nghiên cứu có giá trị cho các cơ sở đào tạo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 Chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết việc làm cho thanh niên
nông thôn, trách nhiệm và chính sách giải quyết việc làm.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm cho
TNNT ở huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn ở huyện

Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
THANH NIÊN NƠNG THƠN, TRÁCH NHIỆM VÀ CHÍNH SÁCH
HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. Một số vấn đề lý luận về giải quyết việc làm cho thanh niên
nông thôn
1.1.1. Quan niệm về thanh niên nông thôn
Thanh niên là khái niệm dùng để chỉ những người nằm trong độ tuổi
chuyển tiếp giữa lớp, lứa thiếu niên và trưởng thành. Đây là khoảng thời gian
con người trải qua giai đoạn quá độ hoàn thiện dần bản thân cả về thể chất,
tinh thần, về sinh lý, tâm lý, tri thức, đạo đức và nhân cách để trở thành một
công dân trưởng thành trong xã hội. Thanh niên là một khái niệm có thể được
hiểu và định nghĩa theo nhiều cách. Tùy thuộc vào nội dung tiếp cận, góc độ
nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá mà người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau
về thanh niên.
Về mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là một giai đoạn
xác định trong q trình "tiến hóa" của cơ thể. Các nhà tâm lý học thường
nhìn nhận thanh niên là một giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ phụ thuộc sang
hoạt động độc lập với tư cách là một công dân có trách nhiệm. Dưới góc độ
kinh tế học, thanh niên được xem là một LLLĐ xã hội, nguồn bổ sung cho đội
ngũ lao động trên tất cả các lĩnh vực. Với các triết gia, văn nghệ sĩ, thanh niên
lại được định nghĩa bằng cách so sánh hình tượng: "thanh niên là mùa xuân
của xã hội" là "bình minh của cuộc đời".
Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc điểm
truyền thống, tuổi thọ bình quân... mà mỗi quốc gia có quy định độ tuổi thanh


10


niên khác nhau. Nhưng hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất tuổi
thanh niên bắt đầu từ 15 hoặc 16. Còn thanh niên kết thúc ở tuổi nào thì có sự
khác biệt. Có nước quy định là 25 tuổi, có nước quy định là 30 tuổi và cũng
có nước cho đó là tuổi 40. Nhưng xu hướng chung là nâng dần giới hạn kết
thúc của tuổi thanh niên. Ở Việt Nam tại Điều 1, Luật Thanh niên 2020 quy
định: Thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi.
Như vậy, thanh niên ở nông thôn cũng được hiểu là những người trong
độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi sinh sống ở những vùng, địa phương có cơ
cấu tỷ trọng ngành nơng nghiệp là chủ yếu, các hoạt động kinh tế chủ yếu
nhằm phục vụ cho nông nghiệp, cộng đồng cư dân nông thơn và có thu nhập
chủ yếu từ những hoạt động lao động trên. Bởi vậy, TNNT thường có một số
đặc trưng sau:
Thứ nhất, TNNT có trình độ văn hố và chuyên môn thấp hơn so với
thanh niên thành thị. Tỷ lệ TNNT đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ tương đối thấp.
LĐNT nói chung mà đặc biệt là thanh niên nói riêng chủ yếu học nghề thơng
qua việc hướng dẫn của thế hệ trước hoặc tự truyền cho nhau nên lao động
theo truyền thống và thói quen là chính. Điều đó làm cho TNNT có tính bảo
thủ nhất định, tạo ra sự khó khăn cho việc thay đổi phương hướng sản xuất và
thực hiện phân công lao động, hạn chế sự phát triển kinh tế nơng thơn.
Thứ hai, TNNT có khả năng tiếp cận và tự tìm việc làm cho mình kém,
thiếu khả năng nắm bắt và xử lý thơng tin thị trường lao động, khả năng hạch
toán hạn chế.
Thứ ba, TNNT chiếm tỷ lệ cao trong thanh niên cả nước, là nguồn nhân
lực phát triển và thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Là lực lượng
quan trọng trong sản xuất nơng nghiệp, tích cực tham gia và phát huy tốt ý thức
chính trị, ý chí tự lực tự cường, khát vọng vươn lên thoát nghèo và làm giàu.

Việc làm và thu nhập của TNNT vẫn là vấn đề bức xúc. Tình trạng

11


không đủ việc làm, việc làm không ổn định, thu nhập thấp đã tác động rất lớn
đến đời sống của TNNT, ảnh hưởng đến cơng tác đồn kết tập hợp TNNT.
TNNT đang đứng trước những khó khăn và thách thức như: trình độ học vấn,
tay nghề, thiếu vốn, thơng tin, khả năng tìm việc làm. TNNT là nguồn nhân
lực quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH. Phần lớn TNNT hiện nay
trình độ học vấn cịn thấp, thiếu việc làm, ít có cơ hội được đào tạo nghề
nghiệp, đặc biệt là trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp thấp. Thực tế này
đặt ra nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Đồn và cả hệ thống chính trị trong
việc GQVL cho TNNT.
Thứ tư, TNNT là những người thuộc LLLĐ và tham gia hoạt động
trong hệ thống các ngành kinh tế nông thôn như trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong nông thôn.
1.1.2. Khái niệm về giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn
Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trong nhất của thế giới nói
chung và con người nói riêng. Hoạt động kiếm sống của con người được gọi
chung là việc làm. Việc làm trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ
nhu cầu của bản thân nên tiến hành các hoạt động nhất định. Họ có thể tham
gia cơng việc nào đó để được trả cơng hoặc tham gia vào các hoạt động mang
tính chất tự tạo việc làm như dùng các TLSX kinh doanh nhằm thu lợi nhuận
hoặc tự làm những công việc cho hộ gia đình mình.
Ngồi vấn đề cá nhân, việc làm còn là vấn đề của cộng đồng của xã
hội. Sở dĩ có sự phát sinh này là do: con người không sống đơn lẻ và hoạt
động lao động của mỗi cá nhân cũng không đơn lẻ mà nằm trong tổng thể các
hoạt động sản xuất của xã hội. Hơn nữa, việc làm và thu nhập không phảo là
vấn đề mà lúc nào mỗi cá nhân NLĐ cũng quyết định được. Sự phát triển quá

nhanh của dân số, mức độ tập trung TLSX ngày càng cao vào tay một số cá
nhân dẫn đến tình trạng xã hội ngày càng có nhiều người khơng có khả năng
tự tạo việc làm. Trong điều kiện đó, mỗi cá nhân phải huy động mọi khả năng

12


của bản thân để tự tìm việc làm cho mình, phải cạnh tranh để tìm việc làm.
Việc làm có thể được coi là sự tham gia của một cá thể vào tập hợp các
hoạt động có liên quan đến việc sản xuất ra một sản phẩm hay dịch vụ nào đó
mà người khác có của cải và mong muốn mua được nó. Việc làm được coi là
một trong những vấn đề sống cịn của tồn xã hội. Mọi hoạt động lao động tạo
ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.
Như vậy, việc làm thể hiện ở hai góc độ khác nhau: dưới góc độ KT-XH và
dưới góc độ pháp lý.
* Dưới góc độ KT-XH: Với mỗi quốc gia, việc làm là phản ánh quan
trọng về thực trạng phát triển KT-XH của quốc gia đó, nó ln là vấn đề được
xã hội quan tâm hàng đầu không chỉ ở riêng một quốc gia nào mà cịn là vấn
đề có tính tồn cầu, phản ánh sự phát triển của lao động xã hội. Hoạt động
kiếm sống là hoạt động quan trọng nhất của thế giới động vật nói chung và
con người nói riêng. Tuy nhiên, đối với con người, kiếm sống không phải là
hoạt động sinh vật đơn thuần giúp con người thích ứng với tự nhiên, với điều
kiện sống mà qua đó cịn cải tạo con người, biến con người từ sinh vật hoang
dã thành sinh vật xã hội, có ý thức, tham gia các quan hệ xã hội, hình thành xã
hội. Đối với ILO, thuật ngữ “việc làm” được đề cập trong nhiều văn kiện như
Tun ngơn Philadenphia năm 1944; “Chương trình việc làm thế giới” năm
1969; Tuyên bố tại Hội nghị việc làm thế giới năm 1976; Công ước số 22 năm
1964... nhưng trong các văn kiện này chưa nêu ra khái niệm “việc làm”. Đến
tận Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1993 của các nhà thống kê lao động, ILO
mới đưa ra quan niệm về người có việc làm và người thất nghiệp. Theo đó,

người có việc làm được hiểu là những người làm một việc gì đó được trả tiền
cơng, lợi nhuận hoặc được thanh tốn bằng hiện vật hoặc những người tham
gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu
nhập gia đình khơng được nhận tiền cơng hoặc hiện vật; còn người thất

13


nghiệp là những người khơng có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm
hoặc đang chờ trở lại việc làm. Gần đây nhất, năm 2005, ILO đã đưa vào Từ
điển chuyên ngành khái niệm “việc làm”. Theo đó, “Việc làm là một công
việc được trả công. Việc làm cũng đề cập đến số người tự tạo việc làm và
tham gia làm việc để được trả công”. Đây là khái niệm ngắn gọn, chỉ chung
chung đến những công việc do cá nhân thực hiện cho chính bản thân hoặc cho
chủ thể khác để được trả cơng. Có thể cịn có nhiều khái niệm khác nữa về
việc làm. Nhưng dù ở góc độ nào, khái niệm đó đều thể hiện các tiêu chí định
danh việc làm là những hoạt động lao động, trong đó có việc NLĐ chi phí sức
lao động của mình với mục đích giành được lợi ích (thu nhập) nào đó, nhằm
thỏa mãn như cầu của bản thân, gia đình và xã hội. Hoạt động lao động được
coi là việc làm có thể được thể hiện dưới các hình thức khác nhau, đó là: làm
các cơng việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc hiện vật cho
cơng việc đó; làm các cơng việc để thu lợi nhuận cho bản thân; làm công việc
cho hộ gia đình mình nhưng khơng được trả thù lao dưới hình thức tiền cơng,
tiền lương cho cơng việc đó.
Như vậy, dù ở hình thức nào, được trả thù lao trực tiếp hay gián tiếp,
thù lao đó được thể hiện bằng tiền mặt hay lợi ích vật chất khác thì việc làm
cũng luôn thể hiện là các hoạt động tiềm tàng khả năng tạo ra lợi ích hay thu
nhập cho người bỏ sức lao động tiến hành hoạt động đó. Như vậy, xét về
phương diện KT-XH, có thể hiểu việc làm là các hoạt động lao động, tạo ra,
đem lại lợi ích, thu nhập và việc làm là dạng hoạt động của mỗi cá nhân

nhưng lại luôn gắn liền với xã hội và được xã hội cơng nhận.
* Dưới góc độ pháp lý: Quyền có việc làm được coi là quyền hiến định
của mọi công dân. Tuy nhiên, trước năm 1986, khái niệm việc làm chỉ bó hẹp
trong phạm vi những gì mà pháp luật cho phép. Trong giai đoạn đó, chỉ những
người trong biên chế Nhà nước hoặc là xã viên hợp tác xã mới được coi là có

14


việc làm nghiêm chỉnh. Quan niệm này xuất phát từ việc đề cao các hình thức
sở hữu được coi là thể hiện bản chất của chế độ XHCN là quốc doanh và tập
thể. Bên cạnh đó, luật pháp cũng khơng thừa nhận sức lao động là một loại
hàng hóa, khơng thừa nhận có sự tồn tại của các hiện tượng KT-XH như thất
nghiệp, thị trường lao động, quyền tự do kinh doanh của người dân. Nhà nước
là chủ sở hữu lớn nhất và cũng là chủ sử dụng lao động lớn nhất của nền kinh
tế, có trách nhiệm đảm bảo việc làm cho mọi NLĐ theo kế hoạch. Từ quan
niệm trên, các quy định pháp lý về vấn đề việc làm chủ yếu thể hiện các chế
độ như: tuyển dụng lao động, cho thôi việc đối với công nhân viên chức Nhà
nước. Nhà nước lo tất cả mọi vấn đề về việc làm cho LLLĐ trong biên chế từ
tiền lương, các chế độ bảo hiểm xã hội... cũng như các ưu đãi, phúc lợi xã hội
khác. Do vậy, khi đề cập đến việc làm ở khía cạnh pháp lý, người ta thường
cho rằng việc làm trước hết là quyền của NLĐ (Điều 58 Hiến pháp 1980
khẳng định: "Cơng dân có quyền có việc làm". Từ khi chuyển sang cơ chế thị
trường định hướng XHCN, cơ chế GQVL đã có những thay đổi căn bản. Điều
55, Hiến pháp 1992 khẳng định: "Lao động là quyền và nghĩa vụ của công
dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho
NLĐ". Điều 57, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định: "Nhà nước khuyến
khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho NLĐ. Nhà nước bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ, NSDLĐ và tạo điều kiện xây dựng quan
hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định").

Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và
hoàn cảnh nước ta, nhất là trong bối cảnh đổi mới, thực hiện nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng và văn minh. Bộ luật Lao động năm 2019 có quy định "Việc làm là
hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm; nhà nước,
NSDLĐ và xã hội có trách nhiệm tham gia GQVL, bảo đảm cho mọi người có

15


khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm" (Điều 9); khẳng định quyền làm
việc và tự do lựa chọn việc làm của NLĐ: "Được làm việc cho bất kỳ NSDLĐ
nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm; trực tiếp liên hệ với NSDLĐ
hoặc thơng qua tổ chức dịch vụ việc làm để tìm việc làm theo nguyện vọng, khả
năng, trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ của mình" (Điều 10).
Như vậy, xét về mặt lịch sử pháp lý, quan niệm về việc làm đã được ghi
nhận một cách rộng mở trong một văn bản pháp luật quan trọng của Nhà
nước. Trước đó, trong các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực lao động,
tuy có ít nhiều đề cập đến vấn đề việc làm nhưng chủ yếu là đề cập ở góc độ
các cơ chế, chính sách bảo đảm việc làm cho NLĐ, chứ chưa đưa ra một quan
niệm hay định nghĩa chính thức về việc làm.
Khoản 2, Điều 3, Luật Việc làm năm 2013 quy định: "Việc làm là hoạt
động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm".
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm việc làm như sau: Việc
làm là một dạng hoạt động lao động, mang lại thu nhập cho NLĐ và được xã
hội cũng như pháp luật thừa nhận.
Từ quan niệm trên cho thấy, việc làm được cấu thành bởi ba yếu tố:
Thứ nhất, Là hoạt động lao động, thể hiện sự tác động của sức lao động
của con người vào TLSX để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ.
Thứ hai, Liệc làm tạo ra thu nhập, điều này chỉ rõ tính chất hữu ích và

nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm. Những hoạt động của con
người dù có tiêu tốn sức lực mà khơng tạo ra thu nhập, tức khơng vì mục đích
kiếm sống thì khơng được thừa nhận là việc làm.
Thứ ba, Hoạt động đó khơng bị pháp luật cấm, điều này chỉ rõ tính chất
pháp lý của việc làm. Hoạt động có ích khơng giới hạn về phạm vi, ngành
nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt
Nam trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần. NLĐ hợp pháp ngày

16


nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tự do liên doanh
liên kết, tự do tìm kiếm việc làm, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ
của pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực
Nhà nước. Điều này cịn khẳng định tính chất pháp lý trong hoạt động của
NLĐ thuộc khu vực ngoài Nhà nước và các khu vực phi chính thức.
GQVL là việc tạo ra các cơ hội để NLĐ có việc làm và tăng được thu
nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Như vậy,
GQVL là nhằm khai khai thác triệt để tiềm năng của một con người, nhằm đạt
được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả. Chính vì vậy, GQVL phù hợp có
ý nghĩa hết sức quan trọng đối với NLĐ ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện
được quyền và nghĩa vụ của mình. Trong đó, có quyền cơ bản nhất là quyền
được làm việc nhằm nuôi sống bản thân và gia đình góp phần xây dựng q
hương đất nước. GQVL có thể được hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
Một là, Tạo ra số lượng và chất lượng TLSX. Số lượng và chất lượng
TLSX phụ thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học - kỹ thuật áp dụng trong
sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các TLSX đó.
Hai là, Tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao động
phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động
và sự di chuyển của lao động, chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển

của giáo dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Ba là, Thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu
quả cao, các giải pháp về quản lý thị trường, kỹ thuật… nhằm nâng cao hiệu
quả của việc làm. Chỉ khi nào trên thị trường NLĐ và NSDLĐ gặp gỡ và tiến
hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành.
GQVL là một q trình tạo ra mơi trường hình thành các chỗ làm và
sắp xếp NLĐ phù hợp với chỗ làm việc để có các chỗ làm việc chất lượng,
đảm bảo nhu cầu của cả NLĐ và NSDLĐ, đồng thời đáp ứng mục tiêu phát

17


×