BỘ T ư P H Á P
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯ Ờ NG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ THANH BÌNH
,
1
/V
/
A
■>,
/
9
*
AV
1
THỤC HIỆN PHÁP LUẬT Ở CÁC TỈNH MIÊN NÚI
PHÍA BẮC NƯỚC TA HIEN NAY - THƯC TRANG VÀ
CÁC PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP
•
•
•
Chuyên ngành: Lý luân Nhà nuớc và pháp luạt
M a so: 50501
.
t h ư v i ẹ n
TRƯỞNG ĐAI HOCẨÙẢĩm NÔI
h -!/.*
PHÒNG GV
LUÂN VÃN THAC s ĩ LUÂT HOC
•
•
■
»
. r
•
ĩ?
•
V
w
1
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS HOẢNG VĂN HẢO
HA NỘI
-
20 0 2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng Irong luận văn có
nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nêu trong luận
văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LỀ THANH BÌNH
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
Chương 1
6
Lý luận về thực hiện pháp luật
1.1.
Quan đic’m của các nhà kinh điển Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ
6
Chí M inh và Đảng ta về pháp chế và Ihực hiện pháp luậí
1.2.
Khái niệm thực hiện pháp luật
13
1.3.
Vai Irò của thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bắc
19
nước ta hiện nay
Chương 2
25
Thực trạng thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bắc
2.1.
Tinh hình thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bấc
25
2 2,
Những yếu tố tác động lên quá trình ihực hiện pháp luật ở
36
các tỉnh m iền núi phía Bắc
2.3.
Đặc điểm thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Chương 3
53
60
Phưortg hướng và giải pháp tăng cưòng thực hiện pháp
luật ở các tình miền núi phía Bắc
3.1.
Tăng cường ihực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bấc
nước ta là mộl đòi hỏi lất yếu khách quan
60
3.2.
Phương hướng; tăng cường thực hiện pháp luật ở các tỉnh
63
miền núi phía Bắc nước la hiện nay
3.3.
M ột số ẹịải pháp cơ bản tăng cường thực hiện pháp luật ở các
84
tỉnh m iền núi phía Bấc
Kết luận
90
D anh m ục tài liệu tham khảo
92
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của để tài
Đại hội lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam đã ch. rõ đổ ihực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, cần phải xây dựng được một
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân [21, Ir. 131 ].
Đó là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp
chế. Trong đó, hiện hữu một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất,
phản ánh đúng các quy luật phát triển khách quan của xã hội, mọi chủ thế
pháp luật chấp hành nghiêm minh, chính xác Hiến pháp và pháp luật Ý thức
tôn trọng pháp luật phải ăn sâu vào tiềm thức của mỗi công dân. Sống và làm
việc theo Hicn pháp và pháp luật phải trở thành thói quen, lối sống của mỗi
người. Tất nhiên, để đạt được điều đó không phải chỉ cần đến sự nỗ lực của
mỗi cá nhân mà cần đến sự nỗ lực của toàn xã hội. Trước hết, nhà nước xã hội
chủ nghĩa phải lự đổi mới về tổ chức, hoạt động củ t mình. Dó là việc đổi mới
trong hoạt động xây dựng pháp luật, trong công tác tổ chức Ihực hiện pháp
i
luật sao cho cả khi làm luật cũng như khi đưa luật vào cuộc sống đều đúng
luật. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoạt động xây dựng pháp
luật và tổ chức thực hiện pháp luật là hai hoạt động có liên quan chặt chẽ với
nhau. H oạt động xây dựng pháp luật là tiền đề, là cơ sở vật chất của hoạt động
thực hiện pháp luật. Ngược lại, thực hiện pháp luật là áp dụng trên thực tế
những kết quả của hoạt động xây dựng pháp luậí. Đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, nhu cầu khách quan của xã hội được phản
ánh irước hết thông qua pháp luật. Với ý nghĩa đó, công tác xây dựng pháp
luật có vai trò to lớn trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Nhưng nếu chỉ có như vậy thì chưa đi
Cho dù chúng ta có một hệ thống các
văn bản pháp luậl tốt và đầy đủ đi chăng nữa thì pháp luật vẫn ở trạng thái
tĩnh", vẫn chỉ là cơ sở vật chất, có thể tác động đến các quan hệ xã hội,
2
nhưng ớ mức độ rất hạn chế. Sự tác động đó chỉ dừng lại ở việc tác dộng ihỏng
qua ý thức pháp ỉuật của công dân và cũng chỉ ớ một bộ phận khõng Mng kể.
Pháp luật chỉ thực sự phái huy tác aung khi nó được áp dụng vào cuộc sống,
được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
và công dân. Pháp luật phải trở thành phương thức quản lý xã hội, ià cơ sở cho
tổ chức đời sống xã hội. Do vậy, vấn đề không phải chỉ là ban hành ihật nhiều
văn bản pháp luật m à quan trọng hơn là phải thực hiện pháp luật, iàm cho
những yêu cầu, qui định của nó trở thành hiên thực. Thực hiện nghiêm
chỉnh, chính xác pháp luật ià m ột yêu cầu tất yếu khách quan của quản lý
nhà nước bằng pháp luật.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Hiện nay, chúng ta đang nến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở rộng hợp lác giao lưu quốc
tế. Quá trình đó thành hay bại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Một trong
những yếu tố quan trọng là giải quyết tốt vấn đề dân tộc, chính sach dân lộc.
Các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta [à địa bàn cư trú cúa hầu hết các dân tộc
thiểu Fố. Nghiên cứu vãn đề thưc hiện pháp luật của các dân tộc thiểu số à các
tỉnh miền núi phía Bắc mong muốn tìm ra được những nguyên nhàn nia tình
trạng không tôn trọng pháp iuật, thực hiện pháp luật không nghiêm ơ các 'inh
mièn núi phía Bắc nước ta. Từ đó đưa ra được những phương hướng, biện pháp
tăng cường pháp chế cũng như giúp cho việc xây dựng các chính sách dân tộc
phù hợp, đúng đắn. Đó chính là lý do tác giả chọn đề tài: "Thực h ịn pháp
luật ở các tính miền núi phía Bắc nước ta hiận nay - thực trạng và các
phương hướng y giải pháp ".
2o T inh hình nghiên cứu
ở nước ta hiện nay, vấn để thưc hiện pháp luât luòn luôn là vấn iề thời
SƯ no n g bỏnp. thu hút sir q u a n lâm của toàn xã hội.
Trước thưc trạng coi thường kỷ cương phép nước, bất chấp pháp luật
của một bộ phận dân cư, nhiéu tác giả đã đi sãu nghiên cứu về vãn đé aaỵ.
3
Chảng hạn như đê tài: "Tổ chức thực hiện pháp luật và tăng cường pháp chế
nong điều kiCn đòi mới ở nước ta hiện nay - những vấn đề lý luạn và ihực
uỗn" (Khoa Nhà nước - pháp luật, Học viện CTQG Hồ Chí Minh). Trong
phạm vi đề tài này các tác giả đã đề cập đến những vấn đề cư hản nhấl của lý
luận VC thực hiện pháp luật, quan điểm của các nhà kinh điến và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đ ảng cộng sản Việt Nam về vấn đề pháp chế. Nhưng đó mới chỉ là
những vấn đề lý luận mang tính khái quát. Trong luận án tiến sì luật học:
"Thực hiện pháp luật trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân để bảo
vệ trật tự an toàn xã hội ở nước ta hiện nay" (Đỗ Tiến Triển), tác giả đề cập
đến vấn đề thực hièn pháp luật trong hoạt động của công an nhân dân trên lĩnh
vực bảo vệ trật lự, an toàn xã hội. Đáng chú ý còn có dự án điều tra cơ bản
"Tình hình thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay" của Viện Nghiên cứu nhà
nước và pháp luật. Tuy nhiên, trong dự án này các tác giả mới chỉ dừng lại ở
viêc toầng kết nhân tírh tình hình íhưc hiện pháp lu |t ở nước ta thông qua các
phiếu điều tra xã hội học, chưa đi sâu phân tích để tìm ra những nguyên nhân
của thực trạng ấy. Ngoài ra, liên quan đến đề tài còn có một số bài viết của
các tác giả đăng trong các tạp chí "Nhà nước và pháp luật", "Người đại biểu
nhân dân". V í dụ bài "Áp dụng pháp luật - một số vấn đề cần quan tâm" (tạp
chí Nhà nước và pháp luật số 3 năm 1996) của Nguyễn Minh Đoan. Trong bài
viết này tác giả mới nêu ra những yêu cầu đối với hoạt động áp dụng pháp luật
- một hình thức của thực hiện pháp luật. Trong các bài: "Thực hiện luật hôn
nhân và gia đình ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số" (Tạp chí Người đại biểu
nhân dân số 111 năm 2000) và "Đưa pháp luật vào đời sống ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi" (tạp chí Người đại biểu nhân dân số 109 năm
2000) của M ã Đ iền Cư, tác giả mới chỉ cung cấp cho độc giả một số thông tin
về tình hình thực hiện pháp luật ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Như vậy,
đến nay vấn đề thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ Ihống, toàn diện từ góc độ lý
luận nhà nước và pháp luật.
4
3. M ục đích và nhiệm vụ của luận vãn
Mục đích của luận văn là tìm hiêu những phương hướng và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Irong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn là:
- Phân tích cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật và pháp ché xã hội chủ
nghĩa.
- Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật ở các 1 inh miền núi phía Bắc,
những thành tựu, thiếu sót và nguyên nhân của chúng.
- Nêu những phương hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bắc ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Vấn đề thực hiện pháp luật là một vấn đề có nội dung rộng lớn, thể
hiện Irên tất cả các mặt của đời sống xã hội, với nhiều đối tượng và phạm vi
nghiên cứu. Đối tượng chính của luận văn này là nghiên cứu việc thực hiện
pháp luật trên một số lĩnh vực như luật khiếu nại tố cáo, luật dân sự, luật hôn
nhân gia đình, luậi hình sự của đồng bào một số tỉnh miền núi phía Bắc trong
thời kì đổi mới ở nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, pháp chế.
Trong quá trình phân tích, luận văn có sử dụng những phương pháp cụ
thể như: phương pháp khảo sát, so sánh, kết hợp sử dụng phương pháp lôgích
và lịch sử, phân tích và tổng hợp.
6. Những đóng góp về khoa h'jc của luận văn:
- Luận văn hệ thống hoá những quan điểm lý luận cơ bản về thực hiện
pháp luật, làm sáng tỏ tư tư^ng của chủ nghĩa M ác-Lênin, Chủ lịch Hồ Chí
Minh về pháp chế.
- Qua phân tích thực trang thực hiện pháp luật ớ các tỉnh miền núi phía
Bắc, luân văn góp phần lý giải những nguvên nhân cúa thưc trạng ấy và từ đó rút
ra đặc điểm thực hiện pháp luạt ớ các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay.
- Luận văn đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm thúc đẩy
quá trình thực hiện pháp luật ở các tinh m iền núi phía Bắc nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn:
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ chế chỉ
đao và điều hành công tác tổ chức thực hiện pháp luật.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, giúp các cơ quan
Đảng và Nhà nước đổi mới công tác xây dựng pháp luật, xây dựng các chính
sách dân tộc phù hợp. Ngoài ra, luận văn có thể được dùng làm tài liệu nghiên
cứu trong các viện nghiên cứu, trường đại học, cho các cán bộ hoạt động thực
tiễn ở các tỉnh miền núi.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luân vãn
gồm 3 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
■
■
■
■
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy phạm pháp luật dân chủ và
nhân đạo. Thực hiện chính xác, đầy đủ hệ thống quy phạm pháp luật ấy là đòi
hỏi tất yếu khách quan đối với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các tổ
chức chính trị xã hội và với mỗi công dân. Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa
và các tổ chức chính trị xã hội, thực hiện chính xác, đầy đủ pháp luật là thực
hiện trách nhiệm được nhân dân uỷ thác, giao phó, là cơ sở của nền dân chủ
và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đối với mỗi công dân, thực hicn
pháp luật vừa là nghTa vụ vừa là quyền lợi. Nó là quyền lợi bởi vì, ihực hién
đúng pháp luật có nghĩa là bảo đảm có tự do, tự do trong khuôn khổ pháp luát
Nó là nghĩa vụ bởi vì, thực hiện pháp luật là không làm ảnh hưởng đến quyén
tư do của người khác. Với ý nghĩa đó, thực hiện pháp luật là mối quan lâm
chung của mọi chủ thể pháp luật. Từ trước đến nay, nhà nước ta đã ban hành
nhiều van bản pháp luật trong rất nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội khác n h aj
Nhưng, nhiều văn bản và qui định pháp luật đã không phát huy được hiệu lưc
thi hành, không m ang lại hiệu quả mong muốn. Điều đó cho thấy chúm1 ta
phải quan tâm nghiên cứu nhiều hơn, tìm tòi những cơ chế và hình Ihức dể
nânm cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong thực tế.
1.1.
QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN MÁC-LÊNIN, CHỦ TỊCH
HÓ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VỀ PHÁP CHẾ VÀ THựC HIỆN PHÁP LUẬT.
Thực hiện pháp luật, với tư cách là một nội dung nghiên cứu của ý
luận về nhà nước và pháp luật, là một mặt quan trọng của pháp chế xã hội cl.ủ
nghĩa. Trong kho tàng lý luận cách mạng của mình, các nhà kinh điển M á>
Lênin thường coi pháp chế như là sự tuân thủ pháp luật của những người than
gia các quan hệ xã hội. C.Mác và Ph.Ảngghen là người đặt nền móng cho ph Ị
chế, theo các ông vấn đề cốt lõi của pháp chế là sự thực hiện nghiêm chỉnh
7
pháp luâl. Kết quả của việc tổ chức và thực hiện pháp luật là một trong nhữnii
liêu chuẩn để xác định lính chất của nên pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp chế
bao hàm Irong nó yêu cầu vê một hệ thống pháp luật hoàn thiện, là sự đòi hỏi
các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân phải thực hiện đúng, thực
hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong hoạt động của mình.
Lý luận về pháp chế xã hội chủ nghĩa là mộl bộ phận quan trọng trong
học thuyết của Lênin về cách mạng, nhà nước và pháp luật. Lênin là người đầu
I iên đưa ra các luận điểm cơ bản nhất về pháp chế như các nguyên tắc, hình
thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ông đã chỉ ra bản chất của pháp chế
là sự tuân thủ chính xác, nghiêm ngặt pháp luật. Với ý nghi t vô cùng quan
trọng trong toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội, không ngừng tăng cường
pháp chế là một yêu cầu tất yếu khách quan. Đề cao vai trò của pháp luật,
Lênin chỉ rõ: "Nếu không rơi vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau khi
lật đổ chủ nghĩa tư bản, người ta sẽ tức khắc biết làm việc cho xã hội mà
không cần phải có qui tắc pháp lý nào cả"[55, tr.6]. Có m ột hệ thống pháp luật
ít nhiều hoàn chỉnh là cơ sở, nhưng yếu tố trung tâm của pháp chế xã hội chủ
nghĩa là sự thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Lênin cho rằng dù pháp luật có
tốt, có hoàn chỉnh đến đâu thì mới dừng lại ở khả năng quản lý, khả năng điều
chỉnh. Muốn cải tạo xã hội cũ, đấu tranh với những thói hư tật xấu ở nước Nga
lúc bấy giờ thì phải biết hiện thực hoá, phải biết áp dụng vào cuộc sống những
khả năng đó:
Pháp luật Xô viết rất tốt, vì những pháp luật này đã đem lại cho
mọi người cái khả năng đấu tranh chống bệnh quan liêu và lề mề, cái
khả năng mà bất cứ một nước tư bản nào, công nhân và nông dân
cũng đều không có. Thế nhưng, có ai sử dụng khả năng đó không?
Hầu như không có m ột ai ! Không những nông dân, chính cả một số
rất lớn đảng viên cộng sản cũng không biết dùng pháp luật Xô viết
để đấu tranh chống bệnh lề mề và bệnh quan liêu hoặc ngay cả cái
hiện tượng thật sự điển hình của nước Nga là nạn hối lộ[58, tr.214].
8
Ngay sau khi giành được chính quycn ở nước Nga năm 1917, Lênin đã
khẳng định m ật trong những điều kiện để giữ chính quyền, củng cố chính
quyổn công nông là phải luân thủ luyẹt đối đối với pháp luật. Lênin đòi hỏi ử
các cơ quan nhà nước, đoàn thể xã hội, các công dân "chấp hành một cách
thiêng liêng pháp luật của nhà nước"[55, tr.7].
Tư tưởng về pháp chế cách mạng của Lênin được thể hiện rõ nét trong
bức thư gửi công nhân và nông dân về việc chiến thắng côntrắc năm 1919:
"Phải tuân theo từng li từng tí những luật lệ và mệnh lệnh của chính quyền Xô
viết và đôn đốc mọi người tuân theo" [57, tr. 178]. Pháp luật của nhà nước phải
được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh, chính xác. Nếu không như vậy, xã
hội Xô viết mất Ổn định, là đùều kiện thuận lợi để kẻ địch chống phá chính
quyền: "Hễ hơi làm tó i luật pháp, hơi làm mất trật tự Xô viết một chút, thế là đã
có một lỗ hổng cho bọn thù địch của người lao động lợi dụng ngay"[57, tr. 179].
Những tư tưởng có ý nghĩa lý luân về xây dựng nhà nước pháp quyền
và pháp chế được Người đề cập đến trong bức thư gửi Bộ Chính trị Ban chấp
hành Đảng cộng sản Bôn sê vích Nga "Bàn về chế độ song trùng trực thuộc và
pháp chế". Trong đó, Người khẳng định Viện kiểm sát là cơ quan nhà nước có
nhiệm vụ giám sát việc thực hiện thống nhất, nghiêm chỉnh, triệt để các đạo
luật của nhà nước Xô viết. Lênin viết: "Ưỷ viên công tố chịu trách nhiệm làm
sao cho bất cứ quyết định nào của bất cứ cơ quan hành chính địa phương nào
cũng không được đi ngược lại pháp luật"[56, tr.233]. Theo Lênin, cần phải có
sự nhận thức nhất trí về pháp chế trong toàn nước cộng hoà dù là ở địa phương
có những đặc điểm và những ảnh hưởng như thế nào đi chăng nữa [55, tr.381].
Pháp chế phải là pháp chế duy nhất, áp dụng thống nhất cho toàn liên
bang: "Pháp chế không thể là pháp chế của tỉnh Ca-lu-ga hoặc tỉnh Cadan
dược, mà phải là pháp chế duy nhất cho toàn nước Nga và cho cả toàn thể liên
bang các nước cộng hoà Xô viết nữa"[59, tr.232].
Bảo đảm được tính thống nhất của pháp chế là thực hiện trên thực tế
lính công bằng trong thực hiện pháp luật. Mọi chủ thể pháp luật ở bất cứ
9
LƯơng vị nao, địa phương nào cũng đcu có nqhĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh
pháp luật. Theo các nhà kinh điển Mác- Lênin, diéu quan trọng không phải chỉ
ở chổ những nhu cầu phát triển khách quan của xã hội, ý chí nguyện vọng của
nhân dân lao động được phản ánh đầy đủ trong pháp luật, mà quan trọng hơn
là những đòi hỏi, ý chí đó phải được tiếp tục thể hiện ở một giai đoạn khác hẳn
về chất: được hiện thực hoá. Hay nói khác đi, thực hiện pháp luật là sự tiếp tục
ý chí nhà nước của nhân dân lao động.
K ế thừa, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
nhà nước và pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trò quan
trọng của pháp luật, thực hiện pháp luật. Ngay từ khi đất nước ta, nhân dân ta
còn sống dưới ách cai trị của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã có tư tưởng về
xây dựng m ột Hiến pháp dân chủ của nhân dân. Người viết trong Việt Nam
yêu cầu ca: "Bảy xin hiến pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp
quyền". Người đòi hỏi mọi hoạt động của xã hội, của bộ máy nhà nước thực
dân lúc đó cũng phải tuân theo pháp luật - Hiến pháp, bảo đảm pháp chế.
Người yêu cầu thực dân Pháp phải bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay vào đó
ché độ cai trị bằng luật.
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, trong phiên họp
đầu tiên của chính phủ (3-9-1945) ĨIỒ Chủ tịch đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách,
trong đó có: tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp. Người thấy rõ tầm quan
trọng đặc biệt của hiến pháp, có Hiến pháp thì nhà nước hoạt động hợp hiến
và mới khẳng định được vị trí của đất nước ta trên trường quốc tế. Với việc chỉ
đạo xây dựng Hiến pháp 1946, Hồ Chủ tịch một lần nữa chứng tỏ với thế giới
rằng: V iệt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền riêng.
Để thực hiện chủ trương quản lý xã hội bằng pháp luật, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn chú trọng ban hành các luật và văn bản dưới luật. Khi mới
giành được độc lập chưa kịp ban hành các văn bản pháp luật mới, người đã ký
một sắc lệnh cho phép sử dụng một số văn bản pháp luật của chế độ cũ nếu
như các văn bản pháp luật đó không trái với hiến pháp 1946 và không trái với
10
lợi ích của nhân dân. Hồ Chủ tịch đã trực ticp làm Trưởng Ban soạn thảo hai
bản Hiên pháp 1946, Iliên pháp 1959, dã chỉ đạo xây dựng 16 dạo luật và đã
ký trên 1.300 sắc lệnh và văn bản dưới luật [12, lr.216]. Việc định ra pháp luật
là rất quan trọng, song vấn đề quan trọng hơn là pháp luật ấy phải dược xã hội
thực hiện nghiêm túc, đầy đủ. Vì thế, theo Người, khi chưa có luậl thì phải
khẩn trương ban hành luật, khi đã có luật thì phải tổ chức thi hành nghiêm
chỉnh, triệt để qui định của luật, m ột dân tộc có nhiều bộ luật tốt và thi hành
luật tốt, dân tộc ấy sẽ phát triển nhanh. Chủ tịch Hồ Chí M inh luôn đề cao vấn
đề thực hiện nghiêm chỉnh hiến pháp và pháp luật - m ột điều kiện quan Irọng
của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Người cũng nêu đặc trưng của pháp chế
nhà nước ta là vấn đề tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động, muốn có
lự do thì phải thực hiệp pháp luật, thực hiện pháp luật là m ang lại tự do cho
mình và cho mọi người khác. Người viết:
Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗ
người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng lự do của người khác.
Người nào sử dụng quyền tự do của m ình quá mức mà phạm đến tự
do của người khác là phạm pháp. K hông thể có tự do cho bọn việt
gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự do của nhân dân [35, tr.187].
Pháp luật phải được thực hiện một cách nghiêm minh, bất cứ một hành vi
vi phạm pháp luật nào cũng phải chịu trách nhiệm pháp lí: "Phải thẳng tay trừng
li ị kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở cương vị nào và làm nghề nghiệp gì" [37, ừ.425].
Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí M inh là tấm gương về tôn trọng, thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật. Bất cứ ở đâu, làm việc gì dù lớn hay nhỏ người đều
thực hiện đúng theo những qui định chung của pháp luật nhà nước. Trong cuộc
tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, nhân dân cả nước tin yêu và suy tôn Bác làm
chủ tịch vĩnh viễn, nhưng Bác đã viết thư trả lời:
Tôi rất cảm động được đồng bào quá yêu mà đề nghị tôi không
phải ra ứng cử, đồng bào các nơi khác cử tôi vào Quốc hội. Nhưng,
tôi là một công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ncn t.ôi khônp
11
thể vượt ra khỏi Ihc lệ của lổng luyển cử đã định. Tôi ra ứng cử ở Hà
Nội, nên cũng không thể ra ứng cử ở những nơi nào nữa [36, Ir. 156J.
Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Quán
triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn coi thực hiện pháp luật nghiêm
chỉnh, chính xác là một đòi hỏi tất yếu khách quan của quản lý xã hội bằng
pháp luật. Các cơ quan Đảng, nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và các
công dân phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật khi tham gia vào các quan hệ
xã hội.Tinh thần pháp chế ấy luôn được thể hiện trong các đường
lối, chủ
trương của Đảng, văn kiện Đại hội VI ghi nhận:
Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi cán bộ ở
bất cứ cương vị nào đều phải sống và làm việc theo pháp luật, gương
mẫu tôn trọng pháp luật, không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền
thế để làm trái pháp luật, mọi vi phạm đều phải xử lý [18, tr. 121].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, vấn đề thực hiện pháp luật,
tăng cường pháp chế đã được Đảng ta xác định là m ột trong những điều kiện
then chốt phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa: "Điều kiện quan trọng để
phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý
thức pháp luật của nhân dân"[19, tr.91]. Vấn đề này lại được nhấn mạnh trong
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: "Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp
luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức" [20, tr.129].
Hiện nay đất nước ta đang từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân. Đứng trước những cơ hội cũng như thách thức lớn
của thời đại, Đảng ta càng phải vững tay lái con thuyền Việt Nam xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội có thành công hay không còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng một yếu tố không thổ thiếu được là xã hội
12
ta phải được quản lý bằng pháp luật, pháp luật phải nghiêm minh, không cho
phép bất cứ ai khinh nhờn phép nước: "Nhà nước la là công cụ chủ yếu để ihực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân... Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức,
mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật"[21, lr.131].
Hiến pháp và pháp luật là phương tiện quản lý chủ yếu của nhà nước.
Các quan điểm, tư tu ỉmg của Đảng đều được cụ thể hoá trong Hiến pháp và hệ
thống pháp luật. Nghicn cứu bốn bản hiến pháp nước ta (1946, 1959, 1980,
1992) chúng ta nhận thấy vấn đề thực hiện nghiêm minh pháp luật đều được
ghi nhận ở những cấp độ khác nhau.
Trong các hiến pháp 1946, 1959, 1980 mới chỉ nói đến nghĩa vụ thực
hiện pháp luật của công dân: Hiến pháp 1946: "Mỗi công dân Việt Nam phải
bảo vệ tổ quốc, tôn trọng hiến pháp, tuân theo pháp luật" (điều 4); Hiến pháp
1959: "Công dân Việt Nam dân chủ cộng hoà có nhiệm vụ tuân theo hiến
pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và qui tắc sinh hoạt xã hội
khác" (điều 39); Hiến pháp 1980: "Công dân có nghĩa vụ tuân theo hiến pháp,
pháp luật, kỷ luật lao động, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
giữ gìn bí m ật nhà nước, tôn trọng những qui tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa" (điều 78). Nhưng đến Hiến pháp năm 1992, nghĩa vụ tôn trọng, thực
hiện Hiến pháp và pháp luật không chỉ là của mỗi công dân mà còn được cụ
thể hoá là nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức: "Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp và pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật" (điều 12).
Trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, chưa đề cập đến nghĩa vụ thực
hiện pháp luật của Đảng. Đến Hiến pháp 1980 đã khẳng định: "Các tổ chức
13
của Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp
(điều 4). Hiến pháp 1992:
"Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật"
(điêu 4). Như vậy, tinh ihẩn pháp quyền trong hoại động của Đảng và Nhà
nước ta đang ngày càng được thể hiện rõ nét, cho đến nay đã được luật hoá.
Đảng là cơ quan lãnh đạo nhà nước xây dựng hiến pháp và pháp luật, nhà nước
là chủ thể ban hành pháp luật nhưng hoạt động của Đảng, của nhà nước đều
phải tuân theo pháp luật. Một xã hội mà trong đó, nhà nước tôn trọng pháp
luậ! có nghĩa là nhà nước có trách nhiệm với nhân dân, ngược lại nhân dân tôn
trọng pháp luật cũng có nghĩa là có trách nhiệm với nhà nước. Đó cũng chính
là nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang phấn đấu xây dựng.
1.2. KHÁI NIỆM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật
"Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động)
của con người phù hợp với những qui định của pháp luật. Nói khác đi, tất cả
những hoạt động nào của con người, của các tổ chức mà phù hợp với qui định
củ pháp luật thì đều đươc coi là biểu hiên của viêc thực hiện thưc tế các quy
phạm pháp luật" [47, tr.457]. Như vậy, vấn đề trọng tâm của thực hiện pháp
luật là hành vi phù hợp với quy phạm pháp luật. Ban hành các quy phạm pháp
luật, nhà nước mong muốn sử dụng tối đa các quy phạm pháp luật ấy để điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, mức độ hiệu quả điều chỉnh của các quy
phạm pháp luật lại phụ thuộc vào hành vi của con người, phụ thuộc vào mức
độ phù hợp của hành vi đối với các quy phạm pháp luật. Dưới góc độ pháp lí
thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành vi đó không trái, không vượt
quá phạm vi các quy định của pháp luật. Hành vi hợp pháp có thể được thực
hiện trên cơ sở nhận thức sâu sắc của chủ thể là cần thiết phải xử sự như vậy.
Lúc đó hành vi của họ là hành vi tự giác. Chúng cũng có thể được thực hiện do
ảnh hưởng của những người xung quanh. Ngoài ra, hành vi hợp pháp còn có
thể được thực hiện do kết quả của việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế
nhà nước.
14
Thực hiện pháp luật là mộl quá trình hoại động có mục đích làm cho
những qui định của pháp luật được ihực hiện (những qui định phải làm, nhữn£
qui định được làm và những qui định bị ngăn cấm).
1.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật
Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp
lý ihừa nhận bốn hình thức thực hiện pháp luật: Tuân theo pháp luật, thi hành
pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật.
-Tuân theo (tuân thủ) pháp luật, là hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp
luật ngăn cấm. Các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những hành vi
mà luật hình sự, luật hành chính... ngăn cấm, tức là đã tuân theo pháp luật.
- Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật), là m ột hình thức thực hiện
pháp luật, trong đó các ch I thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng
hành động tích cực. Chẳng hạn, mọi công dân nam từ 18 đến 27 tuổi lên
đường nhập ngũ theo đúng thời gian qui định trong luật nghĩa vụ quân sự là đã
thi hành pháp luật.
- Sử dụng pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi
mà pháp luật cho phép). Những quy phạm pháp luật quy định các quyền và tự
do dân chủ của công dân được thực hiện ở hình thức này. Từ "sử dụng" đã nói
lên sự khác biệt của hình thức thực hiện pháp luật này với các hình thức trên.
Chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật
cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Chẳng
hạn, pháp luật qui định công dân có quyền khiếu nại và tố cáo. Để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, một công dân gửi đơn khiếu nại lên
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tức là anh ta đã sử dụng pháp luật.
- Áp dụng pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền, nhà chức trách, tổ chức cho
15
các chủ thổ pháp luật thực hiẹn những qui định của phap luật. Trong Irường
hợp này, các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà
nước. Trong trường hợp đặc biệt, theo qui định của pháp luật, cơ quan ló chức
xã hội cũng có thể thực hiện hoạt động này.
Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là
những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng
pháp luật là hình thức luôn luôn có sự tham gia của nhà nước.
Trong 4 hình thức thực hiện pháp luật thì áp dụng pháp luật là một
hình thức quan trọng, có tính đặc thù nên cần đi sâu nghiên cứu. Áp dụng
pháp luật vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là một giai đoạn đặc
thù của sự thực hiện pháp luật. Áp dụng pháp luật có tính đặc thù bởi vì nó
chứa đựng yếu tố bảo đảm cho những quy phạm pháp luật được thực hiện
trong đời sống thực tế. Yếu tố bảo đảm đó chính là sự can thiệp của nhà nước.
Trên thực tế, có những trường hợp nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì
nhiều quy phạm pháp luật sẽ không được Ihực hiện hoặc thực hiện không đúng.
Áp dụng pháp luật được thực hiện trong các trường hợp sau:
+ Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế do các chế tài pháp luật
qui định đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Một chủ thể
pháp luật thực hiện hành vi phạm tội thì không phải ngay sau đó trách nhiệm
hình sự tự động phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành hình phạt tương
ứng. Vì vậy, cần có hoạt động của các cơ quan nhà nước chức năng buộc
người đó phải chấp hành trách nhiệm hình sự.
+ Nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước, những quyền chủ thể và nghĩa
vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật không mặc nhiên phát sinh.
+ Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được.
+ Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải thdm
gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó, hoặc nhà
nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại mộl số sự việc, sự kiện thực tế.
16
Ap dụng pháp luật là hình thức ihực hiện pháp luật mang tính đặc thù,
vì no là hoạt động mang lính tổ chức - quyền lực nhà nước. Đó là hoạt động
chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Theo qui định của
ph«'íp luật, mỗi cơ quan nhà nước chỉ có thẩm quyền thực hiện một số hoạt
động áp dụng pháp luậl nhất định. Tính tổ chức - quyền lực nhà nước của hoạt
dộng áp dụng pháp luật còn thể hiện ở việc các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành áp dụng pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp đụng. Sự
áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể có liên
quan. Trong một số trường hợp cần thiết như chủ thể bị áp dụng pháp luật vi
phạm pháp luật hay có tranh chấp giữa các chủ thể bị áp dụng pháp luật thì
quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm thực hiện bởi sự cưỡng chế nhà nước.
Để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể bị áp dụng pháp
luật, pháp luật qui định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và
nghĩa vụ các bên trong quá trình áp dụng pháp luật. Đó là những qui định
được ghi nhận trong bộ luật tố tụng hình sự, luật tố tụng dân sự... Áp dụng
pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội
xác định. Bằng hoại dộng áp dụng pháp luậl, những quy phạm pháp luật nhấi
đnih được cá biệt hoá một cách cụ thể và chính xác.
Áp dụng pháp luật còn là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Khi áp dụngv
•
•
■ ■
■
pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ
việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn
bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong khi xây dựng luật, các nhà
làm luật luôn luôn cố gắng phản ánh đầy đủ các nhu cầu phát triến của thực
tiễn khách quan. Nhưng trên thực tế, pháp luật không thể dự liệu hết được các
tình huống của thực tiễn cuộc sống phức tạp và đầy biến động. Chính vì vậy,
có những tình huống pháp luật chưa qui định hoặc qui định chưa rõ. Trong
trường hợp đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải vận dụng một cách
sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự. Và để tránh việc áp dụng pháp
luật tương tự một cách tuỳ tiện hay máy móc, những người có trọng trách áp
17
dụiiií pháp luật phải có ý thức pháp luật cao, chuyên môn giỏi, kinh nghiệm
sông và lương tâm nghề nghiệp.
Hình thức thể hiện chính thức của áp dụng pháp luật là văn bản áp
dụng pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luat có một số đặc điểm:
+ Văn bản áp dụng pháp luật là một yếu tố của sự kiện pháp lý phức
tạp, thiêu nó, nhiều quy phạm pháp luật cụ thể không thể được thực hiện.
+ Văn bản áp dụng pháp luật do những cơ quan có thẩm quyền ban
hành
và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
+ Văn bản áp dụng pháp luật có tính chất cá biệt. Nó được áp dụng
một lần đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể trong những trường hợp xác định.
+ Văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp. Có nghĩa là nó phải phù
hợp với luật và dựa trên những quy phạm pháp luật cụ thể.
+ Văn bản áp dụng pháp luật được thể hiện trong những hình thức
pháp lý xác định như; bản án, quyết định, lệnh...
Văn bản áp dụng pháp luật, trong đó xác định cụ thể ai có quyền chủ
thể, ai m ang nghĩa vụ pháp lý bằng con đường cá biệt hoá phần qui định của
quy phạm pháp luật được gọi là văn bản xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý
theo hướng tích cực.
Văn bản áp dụng mang tính bảo vệ pháp luật là văn bản chứa đựng
những biện pháp trừng phạt, cưỡng chế nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức
vi phạm pháp luật.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, bao
gồm các giai đoạn cụ thể:
+ Phân tích những tình tiết đã tạo ra cấu thành thực tế của vụ việc được
xem xét. Trong khi phân tích, các cơ quan có thẩm quyền phải nghiên cứu
khách quan, toàn diện và đầy đủ những tình tiết của vụ việc, tuân theo các thủ
tục nhất định.
THƯVI ẸN
TRƯỜNG ĐAI HOC U JA I í ù \ NÔI
PHÒNG GV
5 lơ ')
18
+ Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật dược Irù lính cho trường hợp đó
sao cho quy phạm đó phải đang có hiệu lực và không mâu ihuẫn với các đạo
luật và văn bản quy phạm pháp luật khác, làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của
quy phạm pháp luật được lựa chọn.
+ Giai đoạn quan trọng nhất của quá trình áp dụng pháp luật là ra vãn
bản áp dụng pháp luật. Để tránh những sai lầm trong việc ấn định những quyền
và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các chủ thể pháp luật hoặc những biện pháp
trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm, văn bản áp dụng pháp luật phải
được ban hành đúng thẩm quyền, đúng tên gọi, đúng trình tự và thủ tục, nội
dung rõ ràng theo đúng những qui định của pháp luật. Ngoài ra, văn bản áp
dụng pháp luật phải được ban hành dựa trên cơ sở của những quy phạm pháp
luật cụ thể, theo những đòi hỏi của thực tế đáng tin cậy, có khả năng thực hiện
được và mang lại lợi ích trên các mặt kinh tế, chính trị, tinh thần và xã hội.
+ Việc tổ chức thực hiện trên thực tế văn bản áp dụng pháp luật là giai
đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật. M ột yếu tố bảo đảm cho việc
thực hiện nghiêm chỉnh văn bản áp dụng pháp luật, đó là hoạt động kiểm tra,
giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Lý luận về nhà nước và pháp luật đã khái quát những nội dung cơ bản
về thực hiện pháp luật như sau:
- Về nội dung, thực hiện pháp luật là toàn bộ những hành vi ( ửa các
chủ thể pháp luật nhằm thực hiện những qui định của pháp luật. Thực hiện
pháp luật ở đây được hiểu như một loại hoạt động trong toàn bộ các hoạt động
về pháp luật như: xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, thông tin - tuyên
truyền pháp luật, giáo dục pháp luật... Ở một khía cạnh khác, thực hiện pháp
luật lại là tính chất, là yêu cầu đối với toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội.
- Về hình thức thực hiện pháp luật: việc thừa nhận bốn hình thức thực
hiện pháp luật là căn cứ vào loại hoạt động thực hiện pháp luật. Loại hoạt
động thuộc về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân, biểu hiện ở các
hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật. Loại
19
hoạt đọng maníĩ tính quyến lực nhà nước bicu hiện ở hình thức áp dụng pháp
luật. Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc hiệt, là hoạt
động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước. Nó vừa là một hình thức
thực hiện pháp luật, vừa là cách thức nhà nước tổ chức cho các chủ thể khác
thực hiện các hình thức khác của thực hiện pháp luật. Chẳng hạn, khi có tranh
chấp giữa các bên tham gia hợp đồng dân sự mà không tự giải quyết được thì
cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ can thiệp buộc các bên phải tuân theo
những qui định của bộ luật dân sự.
1.3.
VAI TRÒ CỦA THựC HIỆN PHÁP LUẬT ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI
PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY:
1.3.1. Vai trò của thực hiện pháp luật
Xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật đều là những hoạt động có
mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý các quá trình xã hội. Đó là
hai quá trình hoạt động có mối liên quan chặt chẽ với nhau.
Pháp luật có thể được xem là mô hình có tính lý thuyết, trừu tượng,
còn thưc hiên pháp luật là mô hình hoat động, cụ thể. Hai mô hình đó bổ sung
cho nhau. Pháp luật được coi là phương tiện, công cụ cần thiết cho hoạt động
thực tiễn pháp luật, là khuôn mẫu cho mọi hoạt động của các chủ thể pháp luật.
Ngược lại, qua hoạt động thực tiễn của các chủ thể pháp luật sẽ đặt ra những yêu
cầu khách quan cho việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật. Với ý nghĩa đó, thực
hiện pháp luật có vai trò kiểm chứng cho tính đúng đắn, phù hợp tbưc tiễn của
pháp luật. Pháp luật có được coi là hoàn chỉnh hay không phụ thuộc vào mức
độ phản ánh đúng đắn nhu cầu phát triển khách quan của thực tiễn xã hội.
Điều đó chỉ có thể được chứng minh qua hoạt động thực hiện pháp luật.
Mục đích của pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước
ban hành các quy phạm pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng
các quan hệ xã hội ấy phát triển theo những hướng nhất định, với những mục
đích nhất định. Thế nhưng, hệ thống các quy phạm pháp luật ít khi có tác động
20
trực tiếp đôn những quan hệ cụ thổ, cùng lắm cũng mới chỉ tác dộng vào ý
thức của công dân. Pháp luật chỉ có thể có lác dụng đi ĨU chỉnh các quan hệ xã
hội khi nó được áp dụng vào cuộc sống. Pháp luật như vậy là pháp luật Irong
cuộc sông, trong hành động, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Vai trò điều chính các quan hệ xã
hội là vai trò cơ bản, quan trọng nhất của quá trình thực hiện pháp luật.
Vai trò của quá trình thực hiện pháp luật còn thể hiện ở việc phát hiện
và khắc phục hiện tượng "xung đột quy phạm". Xung đột quy phạm là khi hai
hay nhiều quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một quan hệ xã hội, nhưng nội
đung trái nhau hoặc mâu thuẫn với nhau. Trường hợp này hay xảy ra trong
thời kỳ văn bản pháp luật mới được ban hành, trong khi các văn bản khác chưa
kịp thời được điều chỉnh, bổ sung, thay đổi cho phù hợp với nó. v ề nguyên
tắc, khi có xung đột quy phạm, thì cần áp dụng quy phạm có giá trị pháp lý
cao hơn. Trong trường hợp các quy phạm xung đột lại do cùng một cơ quan
ban hành thì áp dụng quy phạm ban hành sau. Nếu xung đột quy phạm chung
với quy phạm chuyên ngành thì áp dụng quy phạm chuyên ngành. Tuy nhiên,
trong tất cả các trường hợp xung đột ấy, việc thực hiện pháp luật không có
nghĩa là bãi bỏ hay đình chỉ quy phạm không được thực hiện. Việc làm đó
thuộc thẩm quyền của các cơ quan theo luật định.
Trong khi xây dựng pháp luật, các nhà làm luật luôn cố gắng dự liệu
được tất cả các tình huống của phát triển thực tiễn khách quan. Nhưng điều đó
chỉ là mong muốn mà thôi. Pháp luật chỉ là một hệ thống các quy phạm pháp
luật điều chỉnh được các quan hệ xã hội mang tính khái quát điển hình. Trong
khi đó, trong quá trình thực hiện pháp luật có thể có những quan hệ cụ thể
hơn, nhiều hơn về số lượng các bên tham gia quan hệ xã hội. Khả năng phát
hiện và khắc phục "khoảng trống" trong pháp luật cũng thuộc về quá trình
thực hiện pháp luật. "Khoảng trống" pháp luật là những sự kiện, quan hệ xã
hội cụ thể trong thực tế liên quan đến lợi ích của các chủ thể pháp luật cần
21
phải được phap luật đieu chỉnh song chưa có quy phạm pháp luật nào điền
chỉnh. Hay nói khác đi, lúc đó rơi vào tình Irạng thiếu quy phạm pháp luật.
Nhu cầu đời sống xã hội đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải giải quyéi ngay để
bảo đảm lợi ích của các chủ thể pháp luật. M uốn ban hành quy phạm pháp
luật mới đòi hỏi phải có nhiều thời gian. Hơn nữa, rất nhiều sự kiện, hiện
tượng chỉ xảy ra đột xuất nhất thời nên cũng chưa hẳn đã cẩn đến các quy
phạm pháp luật mới. Trong quá trình thực hiện pháp luật, các cơ quan áp dụng
pháp luật khắc phục "khoảng trống" pháp luật bằng hai cách: áp dụng tương tự
quy phạm pháp luật và tương tự pháp luật.
- Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là giải quyết một vụ việc thực
tế cụ thể chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp trên cơ sở quy phạm
pháp luật điều chỉnh m ột trường hợp khác có nội dung gần giống như vậy.
- Áp dụng tương tự pháp luật là giải quyết m ột vụ việc thực tế cụ thể
chưa có quy phạm pháp luật điều chi'ih trực tiếp trên cơ sở những qui tắc và
nguyên tắc chung của pháp luật.
Như vậy, qua quá trình thực hiện pháp luật với sự phong phú đa dạng
về chủ thể cũng như điều kiện thực hiện, những "khoảng trống" pháp luật được
phát hiện và khắc phục. Việc khắc phục "khoảng trống" trong pháp luật chỉ
được thực hiện Irong những trường hợp cụ thể, nhất thời. Tuy nhiên, điều đó
cũng nói lên vai trò to lớn của quá trình thực hiện pháp luật. Một mặt, với việc
phát hiện và khắc phục "khoảng trống" pháp luật đó, quá trình Ihực hiện pháp
luật đã đáp ứng được nhu cầu tức thời của thực tiễn, góp phần bảo vệ lợi ích
cho các chủ thể pháp luật. Đ iều đó cũng gián tiếp góp phần vào việc duy trì
hoạt động thường xuyên, ổn định, hiệu quả của các cơ quan nhà nước, cũng
như bảo đảm trật tự ổn định xã hội. M ặt khác, qua quá trình phát hiện và khắc
phục đó, việc áp dụng pháp luật tương tự cho phép tích luỹ kinh nghiệm và đề
xuất yêu cầu hoàn thiện pháp luật. Đó chính là m ột trong những vai trò quan
irọng của thực hiện pháp luật đối với quá trình xây dựng pháp luật.