Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Vai trò của viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi (trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh quảng ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.15 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ ANH

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI VIỆC
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIỮ, TẠM GIAM
TRONG VỤ ÁN NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI (TRÊN CƠ SỞ THỰC
TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NINH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ ANH

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI VIỆC
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIỮ, TẠM GIAM
TRONG VỤ ÁN NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI (TRÊN CƠ SỞ THỰC
TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NINH)
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM MẠNH HÙNG


HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa được công
bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các số liệu và trích
dẫn trong luận văn bảo đảm tính chính xác và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỤC LỤC....................................................................................................................................5
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
TẠM GIỮ, TẠM GIAM TRONG VỤ ÁN NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI.................8
1.1. Nhận thức về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam
trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi........................................................................8

1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi......................................................................................8
*Khái niệm người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi...............................13
1.1.2. Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp
tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. .17
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003..................................26
Kết luận Chương 1...........................................................................................................................34
Chương 2.................................................................................................................................35
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ VAI TRỊ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI
VỚI VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIỮ, TẠM GIAM TRONG VỤ ÁN NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NINH..................................................35

2.2.1. Thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện
pháp tạm giữ người dưới 18 tuổi..............................................................52
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân......................................................59


3.1. Những yêu cầu của việc bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát đối với
việc áp dụng tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc là người dưới
18 tuổi.......................................................................................................64
3.1.1. Yêu cầu của cải cách tư pháp.........................................................64
3.2. Các giải pháp cụ thể..................................................................................................................66

3.2.1. Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.......66
3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Kiểm sát viên................76

3.2.3. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và giữa cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng với các cơ quan liên quan....................................................79
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho quần
chúng nhân dân, đặc biệt là người dưới 18 tuổi.......................................80
3.2.5. Tăng cường về cơ sở vật chất.........................................................81
KẾT LUẬN.................................................................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................86


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS năm 2015

Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

TAND

Tịa án nhân dân

VKS


Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Bảng thống kê số người dưới 18 tuổi bị áp dụng biện Error:
pháp tạm giữ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm Refer
2016 đến năm 2020
ence
sourc
e not
found

Bảng 2.2

Bảng thể hiện số bị can dưới 18 tuổi bị tạm giam từ Error:
năm 2016-2020
Refer

ence
sourc
e not
found

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 2.1 Số người dưới 18 tuổi bị tạm giữ có quyết định khởi tố Error:
bị can
Refer
ence
sourc
e not
found


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tại
Điều 37 ghi nhận “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội chăm sóc và
giáo dục”. Thể chế hóa điều đó: Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015 đã được ban hành. Đảng và Nhà nước ta đã và đang luôn dành
nhiều sự quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ em, tạo dựng một môi

trường xã hội trong sạch, lành mạnh. Tuy nhiên, trong phạm vi cả nước nói
chung cũng như trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng vẫn tồn tại một thực
trạng rất đáng lo ngại, là tình hình vi phạm pháp luật, đặc biệt là tình hình
phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện, với tính chất, mức độ nguy hiểm
ngày càng phức tạp, trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Việc quy
định và áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi
là sự đảm bảo cho quá trình phát hiện nhanh chóng, chính xác, xử lý nghiêm
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không cho người phạm tội tiếp tục thực
hiện tội phạm, trốn tránh pháp luật, cản trở đến quá trình điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong đó có biện pháp tạm giữ, tạm giam tác động đến quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Thực tế những năm qua, việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn cịn hạn chế
nhất định, dẫn đến oan sai, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa,
xâm phạm đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều cố gắng
thực hiện vai trị của mình trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung
và biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi nói riêng và đã đạt được nhiều kết quả, góp phần đảm bảo cho hoạt động
điều tra, truy tố được tuân thủ theo quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả

1


cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân, đặc biệt trong các vụ án có người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, hoạt động của Viện kiểm sát đối với việc áp
dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót: cán bộ, kiểm sát viên cịn chưa nhận
thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện

pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi ...
Điều này, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thể hiện vai trò của Viện kiểm sát
đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc
tội là người dưới 18 tuổi.
Hiện nay, chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập một cách tồn
diện, có hệ thống về vai trị của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp
tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. Do
vậy, đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu nghiêm túc đầy đủ cả về phương diện
lý luận và thực tiễn, làm cơ sở để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, đưa ra
những giải pháp phù hợp để công tác này ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm
giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi (trên cơ sở thực
tiễn tại tỉnh Quảng Ninh)” làm luận văn cao học chuyên ngành Luật tố tụng
hình sự là cần thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm
giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi là một trong những
hoạt động thể hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân. Đề tài này đã được
một số tác giả nghiên cứu và các cơng trình khoa học đó đã cơng bố, có thể kể
đến các cơng trình sau:

2


(i) Nhóm các tài liệu là giáo trình, sách tham khảo, sách chuyên khảo
gồm có:
* Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2016), Giáo trình luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
* Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình luật tố tụng hình

sự Việt Nam, Nxb Chính trị- Sự thật.
* Phạm Mạnh Hùng (Chủ biên) (2018), Bình luận khoa học bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, Nxb Lao động.
* Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên) (2015), Chế định các biện pháp ngăn
chặn theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Chính trị Quốc gia.
(ii) Nhóm tài liệu là luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luật tốt
nghiệp, đề tài khoa học các cấp:
* Luận án tiến sĩ Luật học, “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ,
tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp”, Nguyễn Văn Điệp, Đại học Luật Hà Nội, 2005.
* Luận án tiến sĩ Luật học, “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Trần Hưng
Bình, Học viện Khoa học xã hội, 2013.
* Luận văn thạc sĩ Luật học, “Vai trò của Viện kiểm sát trong áp dụng các
biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố (thực tiễn trên địa bàn
thành phố Hà Nội)”, Nguyễn Thị Kiều Diễm, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014.
* Luận văn thạc sĩ Luật học, “Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với
người chưa thành niên trong Tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực
tiễn địa bàn tỉnh Hà Nam)”, Bùi Long Hưng, Đại học quốc gia Hà Nội, 2015.
* Luận văn thạc sĩ Luật học, “Áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt,
tạm giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh”, Nguyễn Thị Ninh Bình, Học viện khoa học xã hội, 2017.

3


* Đề tài khoa học cấp Bộ: “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị
quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”, Viện khoa học kiểm sát - VKSND tối

cao, 2005.
Ngồi ra, cịn có một số bài viết của các tác giả đăng trên Tạp chí Tịa
án, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học…, có đề cập đến hoạt động của Viện
kiểm sát trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, trong đó có biện pháp
tạm giữ, tạm giam.
Nhìn chung, các cơng trình khoa học nói trên mặc dù có đề cập đến
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng
chưa có nhiều chuyên khảo về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng
biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi. Hơn nữa, hiện nay Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được ban hành đã có
nhiều quy định mới về vấn đề này nên vẫn cần nghiên cứu để tiếp tục thực
hiện vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm
giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và hoạt động thể hiện vai trò của Viện kiểm sát đối
với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong các vụ án hình sự mà
người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc
áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người
dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Đối với việc áp
dụng biện pháp tạm giữ, luận văn nghiên cứu hoạt động này cả trước khi khởi
tố vụ án, từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm.

4


+ Phạm vi về không gian: trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

+ Phạm vi về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát
đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc
tội là người dưới 18 tuổi của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh. Tìm ra những khó khăn, bất cập trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp bảo
đảm vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm
giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, cần triển khai thực hiện các nhiệm vụ
cơ bản sau đây:
+ Phân tích làm rõ lý luận về vai trị của Viện kiểm sát đối với việc
áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi.
+ Phân tích, nhận xét, đánh giá về thực trạng hoạt động thể hiện vai trò
của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ
án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ninh; những kết quả và hạn chế, thiếu sót cũng như nguyên nhân của
những hạn chế, thiếu sót đó.
+ Đề xuất những giải pháp bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát đối với
việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước về cơng tác đấu tranh phịng, chống tội

5



phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện; vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với nhóm đối tượng này.
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp phân tích- tổng hợp, thống kê, so sánh, nghiên cứu điển hình...
6. Điểm mới đóng góp của luận văn
Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ
án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
Luận văn cũng đánh giá, phân tích những hạn chế trong hoạt động
thể hiện vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ,
tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi ; qua đó, đề
xuất các giải pháp góp phần bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát đối với việc
áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi.
7. Ý nghĩa nghiên cứu
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu làm rõ vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp
dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi, phân tích làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về vấn đề này ở
nước ta hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo trong thực tiễn
áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi của các cơ quan có thẩm quyền, trong đó có Viện kiểm sát và có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với công tác nghiên cứu, giảng dạy và học
tập tại các cơ sở giáo dục và đào tạo chuyên ngành Luật.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 03 chương:

6


Chương 1: Một số vấn đề chung về vai trò của Viện kiểm sát đối với
việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trị
của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ
án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi và thực tiễn trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát đối với
việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI
VỚI VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIỮ, TẠM GIAM TRONG
VỤ ÁN NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Nhận thức về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng
biện pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi
1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc
tội là người dưới 18 tuổi
* Biện pháp tạm giữ

Tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự, do cơ quan có
thẩm quyền áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị
bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc
đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Tạm giữ có tác dụng ngăn chặn
việc tiếp tục thực hiện tội phạm, gây khó khăn cho hoạt động xác minh, điều
tra vụ việc, vụ án.
Tạm giữ trong tố tụng hình sự có sự khác biệt với tạm giữ theo thủ tục
hành chính. Đối tượng tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự là áp dụng đối với
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm
tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo
quyết định truy nã. Còn đối tượng tạm giữ theo thủ tục hành chính là những
người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Mục đích tạm giữ theo
thủ tục tố tụng hình sự là để xác định căn cứ khởi tố bị can đối với người bị
bắt hoặc giao người bị truy nã cho cơ quan đã ra lệnh truy nã. Cịn mục đích
tạm giữ người theo thủ tục hành chính là ngăn chặn, đình chỉ ngay những
hành vi vi phạm hoặc để thu thập xác minh những tình tiết quan trọng làm căn
cứ để quyết định xử lý vi phạm hành chính. Tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình

8


sự và tạm giữ người theo thủ tục hành chính đều phải có quyết định tạm giữ
của người có thẩm quyền, nhưng sau khi ra quyết định tạm giữ theo thủ tục tố
tụng hình sự thì người có thẩm quyền phải gửi quyết định tạm giữ cho Viện
kiểm sát (VKS) cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền trong thời hạn 12 giờ, kể
từ khi ra quyết định tạm giữ. VKS có quyền xem xét và nếu xét thấy việc tạm
giữ là khơng có căn cứ thì VKS hủy bỏ quyết định tạm giữ; khi đó người ra
quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Còn đối với
quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính thì khơng phải gửi cho VKS
cùng cấp. Người bị tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự bị giam giữ ở nhà tạm

giữ hoặc buồng giam giữ của trại tạm giam. Còn người bị tạm giữ theo thủ tục
hành chính khơng bị giữ ở nhà tạm giữ hoặc buồng tạm giữ của trại tạm giam.
Thời gian tạm giữ người theo thủ tục hành chính khơng được q 12 giờ,
trong trường hợp cần thiết, thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng khơng
q 24 giờ kể từ thời điểm giữ người vi phạm; đối với người vi phạm quy chế
biên giới hoặc vi phạm hành chính ở vùng rừng núi xa xơi, hẻo lánh, hải đảo
thì thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 48 giờ, kể từ
thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm; đối với người bị tạm giữ trên tàu bay,
tàu biển thì phải chuyển ngay cho cơ quan có thẩm quyền khi tàu bay đến sân
bay, tàu biển cập cảng. Thời hạn tạm giữ trong tố tụng hình sự là 03 ngày kể
từ thời điểm bắt đầu tạm giữ, trường hợp cần thiết có thể gia hạn thêm 02 lần,
mỗi lần 03 ngày, nhưng phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. Tạm giữ trong tố
tụng hình sự và tạm giữ theo thủ tục hành chính có tính chất phòng ngừa
những hành vi vi phạm và đảm bảo cho việc xác minh, xử lý người vi phạm.
Như vậy, Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với với người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội
quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo
quyết định truy nã, với nội dung là cách ly họ với xã hội trong một thời

9


gian nhất định nhằm ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, hoặc gây cản
trở việc xác minh, điều tra về các tình tiết liên quan đến việc xác định tội
phạm và người phạm tội.
* Biện pháp tạm giam
Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất đối với người
phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Tính nghiêm khắc thể hiện ở
việc bị can, bị cáo vừa bị hạn chế về quyền tự do thân thể, tự do đi lại, tự do
cư trú, ... vừa có thời hạn dài hơn các biện pháp ngăn chặn khác. Đối với các

biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do đi lại, tự do cư trú khác, thường có
thời hạn ngắn, ví dụ: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, thời gian giữ tối
đa là 24 giờ kể từ thời điểm giữ; đối với biện pháp ngăn chặn tạm giữ, thời
hạn tối đa là 09 ngày kể từ ngày giữ. Đối với tạm giam, thời hạn tạm giam có
thể kéo dài nhiều tháng, có thể bằng thời hạn điều tra vụ án. Đối với những
biện pháp ngăn chặn có thời gian dài khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền để đảm bảo, ... bị can, bị cáo không bị hạn chế quyền tự do thân
thể, tự do đi lại như biện pháp tạm giam. Do vậy, khi xem xét áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam, các cơ quan có thẩm quyền phải tuân thủ chặt chẽ
các quy định của pháp luật và tính cần thiết áp dụng hay không.
Chỉ người đã bị khởi tố hình sự mới có thể bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam. Điều này có nghĩa là khơng thể tạm giam đối với người chưa
bị khởi tố hình sự. Tại Điều 119 BLTTHS quy định:
1. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt
nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm
trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt
tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong
các trường hợp:

10


….
3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm
trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ
tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang ni con dưới
36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư
trú và lý lịch rõ ràng thì khơng tạm giam mà áp dụng biện pháp

ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
….;
d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ
xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an
ninh quốc gia [35].
Tuy nhiên, không phải tất cả những người bị khởi tố hình sự đều bị tạm
giam, mặc dù người đó có đầy đủ điều kiện để áp dụng, nhưng xét thấy khơng
cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền có thể không áp dụng biện pháp tạm giam
hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Tạm giam là một biện pháp ngăn
chặn nghiêm khắc, có tính hiệu quả cao trong việc giải quyết vụ án hình sự,
đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Theo Từ điển luật học năm 2006 thì khái niệm tạm giam được định
nghĩa như sau:
Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền tự do thân thể của công dân. Đây là biện pháp ngăn
chặn, cách ly bị can, bị cáo trong thời gian nhất định nhằm ngăn
chặn các hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở điều tra, truy tố, xét
xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội mới của bị can, bị cáo, đảm bảo
cho việc điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi [7,tr.324].
Theo giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học

11


Kiểm sát Hà Nội, tạm giam là:
Biện pháp ngăn chặn do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
áp dụng, hạn chế tự do thân thể trong một thời hạn nhất định đối
với bị can, bị cáo khi có căn cứ do Bộ luật tố tụng hình sự quy
định nhằm ngăn chặn việc bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm

bảo thi hành án [42, tr. 221].
Cũng có những quan điểm khác về tạm giam như sau:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong tố tụng
hình sự do những người có thẩm quyền thuộc cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm cách ly họ
ra khỏi đời sống xã hội trong một khoảng thời gian nhất định để ngăn
chặn tội phạm hoặc ngăn ngừa người thực hiện hành vi phạm tội
trốn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án [1,tr.10].
Theo quan điểm của tác giả, tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm
khắc nhất trong tố tụng hình sự, có thể áp dụng với bị can, bị cáo về tội rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm mà Bộ luật hình sự quy
định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng họ có thể trốn; gây
cản trở cho việc giải quyết vụ án hình sự, thi hành án hình sự hoặc có thể
tiếp tục phạm tội.
Các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giữ, tạm giam nói
riêng được thường được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc có dấu
hiệu tội phạm và giải quyết vụ án hình sự. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, các
biện pháp ngăn chặn được áp dụng nhằm đảm bảo việc các cơ quan tiến hành
tố tụng xác định sự thật vụ án, phát hiện, xử lý kịp thời tội phạm, ngăn chặn
và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, các biện pháp ngăn chặn đều hạn chế
một phần nào đó quyền của người bị buộc tội, vì vậy, địi hỏi quy định pháp
luật phải chặt chẽ trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, trong đó có biện

12


pháp tạm giữ, tạm giam; đồng thời phải có cơ chế kiểm tra, giám sát trong quá
trình thực hiện.
*Khái niệm người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên xuất hiện thuật ngữ “người bị buộc

tội”: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật [33, Điều 31]. Để cụ thể hóa quy định về người bị buộc tội trong Hiến
pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 đã có nhiều quy định cụ thể liên quan
trực tiếp đến người bị buộc tội, trong đó có việc giải thích thuật ngữ “người bị
buộc tội”. Theo đó, người bị buộc tội bao gồm: người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo (điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015).
Người bị bắt là những người thuộc trường hợp: bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã,
bắt bị can, bị cáo để tạm giam và bắt người bị yêu cầu dẫn độ (Điều 109
BLTTHS năm 2015).
Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt
trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người
phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ (Điều 59
BLTTHS năm 2015).
Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ
của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này (Điều 60 BLTTHS năm 2015).
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này (Điều 61
BLTTHS năm 2015).
Tác giả cho rằng, phạm vi những người được xác định là người bị buộc
tội như vậy là chưa đầy đủ; theo đó, cần bổ sung thêm cả người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp cũng là người bị buộc tội [19, tr.110]. Bởi lẽ:

13


Thứ nhất, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm

2015, thì việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp được thực hiện khi thuộc
một trong các trường hợp sau:
- Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
- Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi
xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện
tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
- Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc
hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần
ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ [35].
Như vậy, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người bị nghi phạm
tội bởi có đủ căn cứ xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, đã thực hiện hành vi có dấu
hiệu tội phạm hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội được BLHS quy định.
Thứ hai, Điều 58 BLTTHS năm 2015 có quy định quyền và nghĩa vụ
pháp lý của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và người bị bắt là như
nhau. Trong đó, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có quyền “Trình bày
lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính
mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”; quyền “Tự bào chữa, nhờ người bào
chữa”. Những người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo) đều có các quyền này. Qua nghiên cứu các quy định khác của BLTTHS
năm 2015, ngoài người bị buộc tội thì chỉ có người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp mới có những quyền này. Hơn nữa, theo khoản 1 Điều 72 BLTTHS
năm 2015: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa
hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”. Rõ

14



ràng, nếu người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp khơng phải là người bị buộc
tội thì quy định về quyền “Tự bào chữa, nhờ người bào chữa” mâu thuẫn với
quy định về người bào chữa nêu trên [54]. Quy định này là cần thiết và có ý
nghĩa đối với việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân của người bị
giữ trong tố tụng hình sự.
Do đó, tác giả cho rằng, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cũng
là người bị buộc tội. Như vậy, theo quan điểm tác giả: Người bị buộc tội gồm
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo.
Pháp luật nước ta cơ bản có sự thống nhất về thuật ngữ “người chưa
thành niên”. Các văn bản pháp luật đều quy định tuổi của người chưa thành
niên là dưới 18 tuổi và trong từng lĩnh vực cụ thể đều có những chế định pháp
luật hoặc các quy định riêng cho người chưa thành niên [8].
Với mục đích, u cầu nhằm hồn thiện cơ chế tố tụng để bảo vệ tốt
nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên; khắc phục những
bất cập hạn chế trong thực tiễn xử lý các vụ án có người chưa thành niên
tham gia tố tụng; bảo đảm sự tương thích với Cơng ước quốc tế về Quyền trẻ
em, đồng bộ với Luật bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em; pháp điển hóa
Thơng tư liên tịch số 01 ngày 12/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định
của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên, bảo
đảm tính cụ thể hóa của Bộ luật và tăng cường vai trò giáo dục, phịng ngừa
của gia đình, nhà trường và xã hội. BLTTHS năm 2015 đã sử dụng thuật ngữ
pháp lý “người dưới 18 tuổi” để thay thế cho thuật ngữ “người chưa thành
niên” nhằm xác định rõ độ tuổi, cần được chăm sóc, giáo dục và bảo vệ đặc
biệt. Như vậy, việc sửa đổi tên gọi này phù hợp hơn trong thời điểm hiện
nay, tránh có những cách hiểu khác nhau và khơng thống nhất trong q
trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng như xử lý các đối tượng này

15



trong tương lai.
Điều 90 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015)
quy định: “Người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần
thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này” [38].
Không phải bất kỳ người dưới 18 tuổi nào khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội cũng đều bị xem là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình
sự. Bên cạnh việc giới hạn về độ tuổi, BLHS nước ta cịn căn cứ vào loại tội
và hình thức lỗi để xác định trách nhiệm hình sự đối với một người khi thực
hiện hành vi phạm tội. Việc quy định vấn đề người dưới 18 tuổi phạm tội
trong luật hình sự trước hết mang ý nghĩa xác định ranh giới giữa tội phạm
với không phải là tội phạm. Điều 12 BLHS năm 2015 quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150,
151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265,
266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này [38].
Trên cơ sở các quy định, có thể đưa ra khái niệm về người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi như sau: Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi là người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Qua việc phân tích các lý luận trên về người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi và khái niệm các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, tác giả rút ra
khái niệm về áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam đối với người
dưới 18 tuổi như sau:
Biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi là những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự do cơ quan,


16


người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình
có thể áp dụng đối với người bị buộc tội bao gồm (người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) có độ tuổi từ đủ
14 tuổi đến dưới 18 tuổi khi có căn cứ do Bộ luật này quy định, nhằm kịp thời
ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật
hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
1.1.2. Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát đối với việc áp dụng biện
pháp tạm giữ, tạm giam trong vụ án người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2013, vai trò là “Tác dụng, chức năng
trong sự hoạt động, phát triển của cái gì đó” [45,tr. 974].
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) có vai trị quan trọng trong hoạt
động tố tụng hình sự. VKSND thực hiện vai trị thơng qua chức năng của
mình. Theo quy định tại Điều 117 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân: Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan có chức năng thực hiện quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp.
Hai chức năng này gắn bó chặt chẽ với nhau và xuyên suốt tồn bộ q
trình của Tố tụng hình sự. Kết quả của hoạt động kiểm sát là cơ sở cho hoạt
động thực hành quyền cơng tố có hiệu quả và ngược lại kết quả của thực hành
quyền công tố cũng là tiền đề cho hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHS nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp
thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội [41].
Viện kiểm sát nhân dân không chỉ thực hành quyền công tố trong giai

đoạn truy tố, mà cịn thực hành quyền cơng tố ngay từ giai đoạn giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm đến khi xét xử vụ án và kiểm sát việc giải quyết của Cơ

17


×