Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Quan điểm của mác, ăngghen, lênin về thời kì quá độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.79 KB, 23 trang )

Quá trình hình thành, phát triển tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen,
V.I.Lênin về thời kỳ quá độ. Ý nghĩa trong nhận thức về thời kỳ quá độ ở
Việt Nam hiện nay
Tìm hiểu quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.lênin về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội không chỉ đáp ứng những yêu cầu về lý luận, mà hơn thế,
cịn thiết thực góp phần gợi mở những suy nghĩ, những giải pháp nhằm giải
quyết một cách hiệu quả những vấn đề quan trọng mà thực tiễn đổi mới đất nước
đang đặt ra.
Trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, C. Mác cho rằng “Giữa xã
hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá
độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền
chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản”1. Các nhà nghiên cứu về chủ nghĩa
Mác đều thống nhất cho rằng định nghĩa này đã thể hiện một cách cô đọng và
sâu sắc nhất quan điểm của các ông về thời kỳ quá độ. Thật vậy, định nghĩa đã
chỉ rõ, thời kỳ quá độ “là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã
hội kia” về mặt kinh tế, xã hội và “thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá
độ chính trị”. Rõ ràng, thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện và
triệt để ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, chung quanh định nghĩa
này cũng đã có các cách hiểu khác nhau. Một số người cho rằng như thế, có thể
hiểu là có hai thời kỳ quá độ: một là, thời kỳ quá độ giữa xã hội tư bản chủ nghĩa
và xã hội cộng sản chủ nghĩa; hai là, thời kỳ quá độ giữa xã hội tư bản chủ nghĩa
và xã hội xã hội chủ nghĩa. Một số người khác lại cho rằng, theo C. Mác chỉ có
thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa, khơng
có thời kỳ q độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Về
điểm này, ý kiến mà Ph. Ăngghen nêu ra trong “Thư gửi K. Xmit” là rất rõ ràng.
Ơng nói với K. Xmit rằng: Các giai đoạn q độ lên xã hội cộng sản chủ nghĩa
1

C. Mác Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 19, tr. 47



là đáng suy nghĩ, nhưng tôi khuyên ngài: không vội vã, khơng có những kết luận
vội vã, đó là vấn đề khó khăn nhất trong tất cả các vấn đề, vì các điều kiện biến
đổi khơng ngừng. Như thế, với Ph. Ăngghen, thời kỳ quá độ bao gồm nhiều giai
đoạn kế tiếp nhau, liên tục và biến đổi không ngừng. Xã hội xã hội chủ nghĩa,
theo các ông, chỉ là giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, do đó, nó được
xem là một giai đoạn của thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Ý kiến của Ph. Ăngghen mang ý nghĩa phương pháp luận
quan trọng, rằng không nên phân chia một cách máy móc, siêu hình thời kỳ quá
độ thành những giai đoạn khu biệt khác nhau bởi trên thực tế “các điều kiện biến
đổi không ngừng”. Như vậy, theo các ông, thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ
nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa là thời kỳ cải biến cách mạng một cách toàn
diện và triệt để về kinh tế xã hội; tương ứng với nó là thời kỳ q độ chính trị;
nhà nước của thời kỳ này là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp vơ
sản; và, thời kỳ quá độ bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, liên tục và biến
đổi không ngừng. Đặc điểm và nội dung của thời kỳ quá độ Đặc điểm bao trùm
của thời kỳ quá độ chính là xã hội quá độ bao gồm trong đó sự hiện diện những
dấu vết, những bộ phận của xã hội cũ tư bản chủ nghĩa ở mọi lĩnh vực đời sống
xã hội; đồng thời, là sự xuất hiện và hình thành những nhân tố của xã hội mới
cộng sản chủ nghĩa. Về kinh tế, mặc dù giai cấp tư sản đã bị lật đổ nhưng chế độ
tư hữu vẫn tồn tại và việc cải tạo, đi đến xóa bỏ chế độ tư hữu là một q trình
dần dần và lâu dài, có thể là rất lâu dài. Trong tác phẩm “Những nguyên lý của
chủ nghĩa cộng sản”, Ph. Ăngghen chỉ rõ, chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một
cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo ra được một khối lượng tư liệu sản xuất cần
thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu 2. Về phân
phối, trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, C. Mác chỉ rõ, quan hệ phân phối
trong thời kỳ quá độ còn chứa đầy mâu thuẫn, còn tồn tại nhiều bất bình đẳng.
Đó là do, những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa được xóa bỏ hồn tồn
ngay lập tức nên quy luật giá trị vẫn điều tiết lao động và chi phối phân phối sản
phẩm lao động xã hội. Về chính trị, trong các tác phẩm: “Bản thảo kinh tế triết

2

Sđd, tập 4, tr 469.


học năm 1844”, “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, “ Nội chiến ở Pháp”, “Tóm tắt
cuốn sách của Bacunin “Nhà nước và tình trạng vơ chính phủ””, “Phê phán
Cương lĩnh Gôta”... C. Mác nhất quán khẳng định, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên cộng sản chủ nghĩa là thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời
kỳ ấy là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Rõ ràng, với C. Mác,
về mặt lý thuyết, trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, giai cấp, chế độ tư hữu và nhà
nước sẽ khơng cịn cơ sở kinh tế xã hội tồn tại nên sẽ bị xóa bỏ, nhưng trong
thời kỳ quá độ tất cả các nhân tố đó vẫn tồn tại bởi những cơ sở tồn tại khách
quan của nó vẫn cịn. Như thế, để thực hiện thành công bước quá độ lên chủ
nghĩa cộng sản thì giai cấp vơ sản sau khi đánh đổ giai cấp tư sản và trở thành
lực lượng lãnh đạo xã hội phải triệt để thấm nhuần quan điểm “cách mạng
khơng ngừng” sử dụng nền chun chính cách mạng của giai cấp vô sản để
không chỉ thực hiện cải biến xã hội một cách tồn diện mà cịn phải chun
chính đối với những thế lực thù địch khơng ngừng trỗi dậy chống lại chính
quyền của giai cấp vơ sản để khôi phục lại chế độ tư bản chủ nghĩa. Nghĩa là,
trong suốt thời kỳ quá độ, giai cấp vô sản để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình
thì khơng có cách nào khác là phải tiếp tục trấn áp bằng bạo lực, vẫn phải thống
trị bằng chính quyền. Điều này có nghĩa, nếu bng lỏng quyền lực nhà nước thì
giai cấp vơ sản cách mạng sẽ mất vai trị lãnh đạo xã hội của mình và do đó, sẽ
không thể thực hiện được bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên cộng sản chủ
nghĩa. Chính trong định nghĩa trên, C. Mác đã chỉ rõ nội dung cơ bản của thời
kỳ quá độ là cải biến xã hội tư bản chủ nghĩa từng bước, trên cơ sở đó hình
thành xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp vơ
sản dùng chế độ dân chủ nhân dân của mình làm phương tiện để cải biến kinh tế,
xã hội. Trước hết là sử dụng các biện pháp kinh tế, xã hội để thúc đẩy sự phát

triển của lực lượng sản xuất và hình thành quan hệ sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa, củng cố vai trị lãnh đạo của giai cấp vơ sản. Về điểm này, Ph. Ăngghen
đã nêu ra 12 biện pháp kinh tế, xã hội quan trọng mà giai cấp vô sản phải thực
hiện trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý, các biện pháp này phải


được thực hiện một cách từng bước, dần dần, không được nóng vội, khơng mang
tính phong trào và việc thực hiện tốt biện pháp này là tiền đề để thực hiện biện
pháp khác. Các biện pháp đó là: hạn chế quyền tư hữu; tịch thu tài sản của
những kẻ chạy trốn ra nước ngoài; tổ chức hệ thống ngân hàng mới của nhà
nước; tổ chức lao động mang tính tập thể cho giai cấp vô sản; nhà nước nắm các
phương tiện vận tải lớn; thực hiện giáo dục không mất tiền; xây dựng nhà ở xã
hội; thực hiện vệ sinh môi trường đô thị; thực hiện chế độ kế thừa tài sản bình
đẳng;... Trong thời kỳ quá độ, sau khi nắm được chính quyền, cùng với cải tạo
và thủ tiêu các quan hệ bóc lột của chế độ cũ, nhiệm vụ quan trọng của giai cấp
vô sản là từng bước thiết lập quan hệ sản xuất mới cộng sản chủ nghĩa. Đó là
thiết lập quan hệ sở hữu cơng cộng với nền sản xuất theo kế hoạch dưới sự điều
tiết của nhà nước chun chính vơ sản. Ph. Ăngghen khẳng định, trong thời kỳ
quá độ nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa chưa hoàn thiện, chúng ta phải áp dụng
nền sản xuất hợp tác xã coi như một giai đoạn trung gian trên quy mô lớn.
Nhưng công việc phải được tổ chức như thế nào để cho xã hội, tức trước hết là
nhà nước, vẫn duy trì được quyền sở hữu các tư liệu sản xuất và do đó, lợi ích
riêng của hợp tác xã không thể đứng trên lợi ích của toàn xã hội. Xem xét sự
phát triển của nhân loại như một tiến trình lịch sử tự nhiên bởi sự thay thế nhau
của các hình thái kinh tế xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ, mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguyên nhân cốt yếu dẫn đến các cuộc
cách mạng xã hội. Trong tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không
tưởng đến khoa học”, Ph. Ăngghen khẳng định, mục đích của cách mạng vơ sản
là nhằm giải phóng lực lượng sản xuất đã xã hội hóa cao khỏi sự giam cầm của
quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu, là giải thốt những tư

liệu sản xuất xã hội khỏi tính chất tư bản chủ nghĩa, từ đó thiết lập quan hệ sản
xuất mới cộng sản chủ nghĩa dựa trên chế độ cơng hữu. Chính điều này, tạo điều
kiện tốt nhất cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì lẽ đó, các ơng nhắc
nhở, giai cấp vơ sản khơng được thỏa mãn với trình độ phát triển hiện có của lực
lượng sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, với tồn bộ tư bản và cơng cụ sản


xuất mà mình đã tước đoạt được của giai cấp tư sản và phải trên cơ sở hiện có ấy
mà phát triển mạnh mẽ số lượng những lực lượng sản xuất. Trong “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản”, hai ông chỉ rõ: giai cấp vô sản sử dụng sự thống trị của
mình để từng bước đoạt lấy tồn bộ tư bản của giai cấp tư sản, để tập trung tồn
bộ cơng cụ sản xuất xã hội vào tay nhà nước của giai cấp vơ sản, qua đó có
những giải pháp thúc đẩy tăng thật nhanh số lượng lực lượng sản xuất xã hội.
Mặc dù vậy, các ông cũng chỉ rõ, việc cải tạo những quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, xác lập quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa phải có lộ trình và được thực
hiện một cách từng bước, dần dần và lâu dài. Với những đặc điểm và nội dung
nêu trên, cuộc cách mạng vô sản do giai cấp vơ sản thực hiện, sau khi giành
chính quyền trực tiếp lãnh đạo nhân dân lao động thực hiện bước quá độ từ xã
hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa thì vấn đề trọng yếu là quyền
lãnh đạo của giai cấp vô sản. Muốn củng cố chính quyền của mình trong thời kỳ
cải biến cách mạng toàn diện, phức tạp trước sự phản kháng và trỗi dậy quyết
liệt giành lại chính quyền của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản đồng thời với việc
xóa bỏ hồn tồn bộ máy chính quyền của giai cấp tư sản, phải khơng ngừng xây
dựng và hồn thiện chính quyền của mình thật sự trong sạch, vững mạnh. Về
điều này, trong Lời nói đầu viết cho lần xuất bản thứ ba bằng tiếng Đức tác
phẩm “Nội chiến ở Pháp”, Ph. Ăngghen chỉ rõ: Muốn không để mất một lần nữa
quyền thống trị mà mình vừa giành được, giai cấp vơ sản, một mặt, phải xóa bỏ
tồn bộ bộ máy áp bức cũ từ trước đến nay vẫn dùng để áp bức mình; mặt khác,
lại phải đề phịng những đại biểu, viên chức của chính mình bằng cách tun bố
tất cả những người này không trừ một ai, đều có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào.

Trong các tác phẩm của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen ln nhắc nhở những
người cộng sản, trong suốt thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội
cộng sản chủ nghĩa, khi đã nắm chính quyền họ cần phải biết sử dụng quyền lực
chính trị của mình một cách triệt để để cưỡng bức, tước đoạt toàn bộ tư bản,
công cụ sản xuất của giai cấp tư sản bóc lột và kiên quyết trấn áp sự phản kháng,
chống lại của giai cấp tư sản. Trong thời kỳ quá độ do sự tồn tại đặc thù của mâu


thuẫn giai cấp và điều kiện kinh tế xã hội nên giai cấp vô sản cần phải thực hiện
một nền chuyên chính triệt để, phải thực thi bạo lực chính trị kiên quyết chống
lại những thế lực thù địch, để cải tạo xã hội cũ và từng bước xây dựng xã hội
mới cộng sản chủ nghĩa. Nếu buông lỏng quyền lực chính trị, giai cấp vơ sản sẽ
nhanh chóng mất vị thế cầm quyền của mình.
Thơng qua những tác phẩm triết học được nghiên cứu sau khi cách mạng
tháng 10 thành công, đặc biệt là tác phẩm “Kinh tế và chính trị trong thời đại
chun chính vơ sản”, V.I. Lê-nin trình bày một cách ngắn và gọn những tư
tưởng về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội ở nước Nga
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh khi giai cấp vô sản Nga mới giành được chính quyền và
lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện thù trong giặc ngoài liên tục chống phá một cách quyết liệt. Mùa hè 1919:
Nước Nga rơi vào tình trạng thù trong - giặc ngồi. Mỹ, Anh, Pháp và các nước
thuộc khối đồng minh đã mở một cuộc tiến công quân sự chống nước Nga Xô
viết. Chúng âm mưu lôi kéo tất cả các nhà nước tư sản nhỏ lân cận vào một cuộc
chiến chống nước Nga Xô viết. Trong nước, bọn bạch vệ và các lực lượng phản
động, tay sai của chế độ Nga hoàng dựa vào sự ủng hộ của chủ nghĩa đế quốc đã
nổi dậy, âm mưu tiến hành nội chiến, lật đổ chính quyền Xơ viết, xố bỏ thành
quả cách mạng xã hội chủ nghĩa. ở miền Nam, quân đội Nga hoàng do Đênikin
(tên đầu sỏ bạch vệ) chỉ huy; ở vùng uran, Xibêri, Viễn đơng có sự nổi dậy của
đội qn Cơntsắc (đơ đốc hạm đội Nga hồng, một thủ lĩnh chủ yếu của bọn

phản cách mạng Nga); ở mặt trận Tây Bắc có các lực lượng qn đội Nga hồng
do Inđêních (tướng của quân đội Nga hoàng tổng chỉ huy quân đội Tây Bắc của
bọn bạch vệ). Bọn chúng dựa vào các lực lượng phản cách mạng như: bọn dân
chủ lập hiến, bọn Men-sê-vích, bọn dân tộc chủ nghĩa tư sản, dựa vào tất cả
những kẻ chống chính quyền Xơ viết. Chúng tấn công mãnh liệt vào các lực
lượng Hồng quân, vào các mục tiêu quan trọng của đất nước. Chúng tiến sâu vào


đất nước, chiếm được một phần lãnh thổ quan trọng, chia cắt đất nước, uy hiếp
trực tiếp Mátxcơva và Pêtrơgrát.
Tình hình kinh tế ở trong nước: nền kinh tế nước Nga giai đoạn đó hoang
tàn kiệt quệ. Tình trạng thiếu lương thực, thiếu nhiên liệu diễn ra triền miên trên
khắp đất nước. Đất nước bị chia cắt, giao thông rối loạn, dịch bệnh hoành hành
khắp trong nước. Đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn và hỗn loạn. Những năm
đầu tiên thời kỳ q độ, nhà nước chun chính vơ sản đầu tiên trong lịch sử bị
bao vây kinh tế, khơng có sự giúp đỡ của bên ngồi.
Đảng Cộng sản mới lãnh đạo chính quyền Xơ viết trong hai năm, ngồi
việc phải giải quyết vấn đề nội chiến thì việc đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng là một vấn đề đặt ra cho lịch sử nước Nga lúc bấy giờ. Trong hồn cảnh
lịch sử đó, Lênin đã lãnh đạo Đảng và nhà nước Xơ viết lãnh đạo sự nghiệp
phịng thủ đất nước, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chính quyền Xô viết, phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, Lê nin rất
quan tâm đến việc tổng kết kịp thời những kinh nghiệm đầu tiên của đất nước
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhân dịp kỷ niệm 2 năm chính quyền Xơ-viết ra đời, ngày 30/10/1919, V.I.
Lê-nin viết xong tác phẩm nói trên, tác phẩm này đã được đăng lần đầu tiên trên
báo “Sự thật” số 250 và tờ “Tin tức của Ban Chấp hành trung ương các Xơ-viết
tồn Nga” số 250 vào ngày 07/11/1919, được ký tên N. Lê-nin 3 với mục đích
của Người khi viết tác phẩm này là “nêu vấn đề và đưa ra những nét chính để
cho các đồng chí cộng sản ở các nước thảo luận”4

Lý luận về thời kỳ quá độ, tập trung vào một số nội dung chính: tính tất yếu,
đặc trưng, những mâu thuẫn và bản chất của thời kỳ quá độ; cơ sở kinh tế – xã hội,
giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ và những vấn đề về chun chính
vơ sản. Thực chất những nội dung này đều đề cập đến lý luận về thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến Bộ, M.1977, tr321.
Sđd. tr.321.

3
4


Thứ nhất, Lê nin đã luận giải tính tất yếu, đặc trưng, những mâu thuẫn và bản
chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Bằng quan điểm duy vật lịch sử, Lê nin đã trung thành với những tư
tưởng của Mác về thời kỳ quá độ và phát triển những tư tưởng ấy trong một giai
đoạn mới của cách mạng, làm cho những vấn đề lý luận về thời kỳ quá độ không
chỉ là quá độ về chính trị, mà trước hết và chủ yếu là quá độ về kinh tế. Lê nin
đã nghiên cứu tồn diện thời kỳ q độ với tính cách là một thời kỳ lịch sử mở
đầu hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa. Những tư tưởng này được trình bày cụ
thể trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”. Trong tác phẩm này, Lê nin
nghiên cứu thời kỳ quá độ trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên đất nước Xô viết.
Về tính tất yếu của thời kỳ quá độ, Lê nin viết: “Khơng thể nghi ngờ gì
được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ nhất
định”5, đây chính là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực.
Lê nin đã phê phán một cách sâu sắc các tư tưởng cơ hội, phản động, xét lại
trong quốc tế 2: phủ nhận thời kỳ quá độ, mà bản chất là phủ nhận những cơ sở
kinh tế và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ: “Tuy nhiên, tất cả những lập
luận về bước chuyển sang chủ nghĩa xã hội mà chúng ta nghe thấy ở cửa miệng

những đại biểu hiện đại của phái dân chủ tiểu tư sản (tất cả những đại biểu của Quốc
tế II, kể cả những người như Mácđônan, Giănglôngghê, Cauxky và Phriđrich átlơ
mặc dầu mang cái nhãn hiệu giả danh xã hội chủ nghĩa nhưng cũng vẫn cứ là những
đại biểu hiện đại của phái dân chủ tiểu tư sản), đều tỏ ra là đã hoàn tồn qn mất
chân lý hết sức hiển nhiên đó”6.
Lê nin luận giải nguyên nhân sâu sa của sự từ bỏ lý luận về thời kỳ quá độ
đó là do “bản chất vốn chán ghét đấu tranh giai cấp” của phái dân chủ tiểu tư sản,
họ mơ tưởng rằng có thể khơng cần phải đấu tranh giai cấp “cố gắng tìm cách xoa
dịu, dàn hoà, làm cho cuộc đấu tranh bớt gay gắt. Cho nên những người dân chủ
5
6

Sđd. tr.309.
Sđd. tr.310.


này, hoặc là họ từ chối dứt khốt khơng thừa nhận cả một giai đoạn lịch sử quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, hoặc là họ cho rằng nhiệm vụ của họ là
nghĩ ra những kế hoạch điều hoà hai lực lượng chiến đấu, chứ không phải là lãnh
đạo cuộc đấu tranh của một trong hai lực lượng ấy”7.
Quá trình luận giải bản chất, cơ sở kinh tế, giai cấp, đấu tranh giai cấp, Lê
nin khẳng định “Tính tất yếu của một thời đại lịch sử mang những đặc điểm của
một thời kỳ quá độ tự nó cũng đã là hiển nhiên rồi”8.
Về đặc trưng của thời kỳ quá độ: Dựa trên tính tất yếu của thời kỳ quá
độ, Lê nin khẳng định đặc trưng bản chất của thời kỳ quá độ bao gồm hai kết
cấu kinh tế - xã hội: chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội “Thời kỳ đó khơng thể
khơng bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy”.
Về những mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ: Đó là mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Những đặc trưng và những mâu thuẫn cơ bản quy định bản chất của thời kỳ quá

độ: “Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh
giữa chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói
một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và
chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh những vẫn còn rất non yếu”9. Cơ sở kinh tế xã hội
của thời kỳ quá độ quy định bản chất của thời kỳ này là giải quyết vấn đề “ai thắng
ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, Lê nin đi từ cơ sở kinh tế của thời kỳ này để luận giải về bản
chất của thời kỳ quá độ và khẳng định thời kỳ quá độ bao gồm nhiều thành phần
kinh tế khác nhau.
Trước đây, trong tác phẩm: "Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu tư sản”, Lê
nin đã phân tích và chỉ ra cơ sở kinh tế của thời kỳ quá độ bao gồm cả những
Sđd. Tr.310.
Sđd. Tr.310.
9
Sđd. Tr.309.
7
8


mảnh của chủ nghĩa tư bản lẫn những mảnh của chủ nghĩa xã hội. Đến tác phẩm
này, một lần nữa Lê nin khẳng định: thời kỳ quá độ, bao gồm 2 kết cấu kinh tế
cơ bản: “Thời kỳ đó khơng thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng
của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy” 10, hai kết cấu kinh tế xã hội đó là chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa tư bản. Đây là một đặc điểm cơ bản và phổ biến của tất cả
các nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ cơ sở phân tích nền kinh tế nhiều thành
phần trong điều kiện nước Nga, ở tác phẩm" Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu
tư sản”, Lê nin chỉ ra ở nước Nga có 5 thành phần kinh tế: thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, thành phần kinh tế
tư bản tư nhân, thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, thành phần kinh tế
nông dân gia trưởng.

Trong tác phẩm này, Lê nin tiếp tục phân tích nền kinh tế của thời kỳ quá độ,
vạch rõ 3 thành phần kinh tế cơ bản, nhất thiết phải có đối với tất cả các nước:
“Những hình thức cơ bản của nền kinh tế xã hội là chủ nghĩa tư bản, tiểu sản
xuất hàng hố, chủ nghĩa cộng sản” 11. Từ sự phân tích các thành phần kinh tế cơ
bản, Lê nin khẳng định cuộc đấu tranh kinh tế trong thời kỳ quá độ chính là cuộc
đấu tranh của kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế phi xã hội chủ nghĩa: “Nền
kinh tế của Nga, ở thời đại chun chính vơ sản, chỉ là cuộc đấu tranh của những
bước đầu của lao động liên hợp theo nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa - trong
phạm vi một quốc gia rộng lớn - chống lại nền tiểu sản xuất hàng hoá và chống
lại chủ nghĩa tư bản đang cịn được duy trì cũng như đang được phục hồi trên cơ
sở nền tiểu sản xuất”12.
Thứ ba, Lê nin đã phân tích kết cấu xã hội - giai cấp của thời kỳ quá độ và
luận giải tính tất yếu, nhiệm vụ của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ.
Về kết cấu giai cấp: Những hình thức cơ bản của nền kinh tế quy định những
giai cấp của xã hội Nga. Tương ứng với các thành phần kinh tế là 3 lực lượng cơ bản:
giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản (nhất là nông dân), giai cấp vô sản. Các giai cấp
Sđd. Tr.309.
Sđd. Tr.310.
12
Sđd. Tr.311.
10
11


tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu lịch sử, nhưng quan hệ của các giai
cấp đã thay đổi, Lê nin viết: “Trong thời đại chuyên chính vô sản, các giai cấp
vẫn tồn tại, nhưng bộ mặt của mỗi một giai cấp đều thay đổi, quan hệ qua lại
giữa các giai cấp cũng biến đổi”13.
Giai cấp tư sản: “Giai cấp của bọn bóc lột, tức là giai cấp của bọn địa chủ
và tư bản đã không biến mất và không thể nào biến mất ngay lập tức dưới thời

chun chính vơ sản. Bọn bóc lột đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt” 14.
Nguyên nhân làm cho giai cấp của bọn bóc lột, tức là địa chủ, tư bản khơng biến
mất “Chúng vẫn cịn có một cơ sở quốc tế, tức là bọn tư bản quốc tế, mà chúng
là một chi nhánh, chúng vẫn cịn có một phần tư liệu sản xuất, vẫn cịn có tiền,
vẫn cịn có những mối liên hệ hết sức rộng rãi”15.
Giai cấp vô sản từ địa vị nô lệ bước lên vũ đài chính trị nắm chính quyền
“Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản là một giai cấp bị áp bức, một giai cấp
bị tước đoạt mất một quyền sở hữu tư liệu sản xuất, là giai cấp duy nhất trực tiếp và
hoàn toàn đối lập với giai cấp tư sản và do đó, là giai cấp duy nhất có khả năng làm
cách mạng đến cùng. Sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản và giành được chính quyền, giai
cấp vơ sản đã trở thành giai cấp thống trị, nó nắm chính quyền nhà nước, nó sử dụng
những tư liệu sản xuất đã được xã hội hố, nó lãnh đạo các phần tử và các giai cấp dao
động, trung gian, nó trấn áp sức phản kháng ngày càng tăng của bọn bóc lột”16, “Giai
cấp vơ sản - khơng phải giai cấp vơ sản nói chung, khơng phải giai cấp abstracto, mà
là giai cấp vô sản ở thế kỷ XX sau chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. Sự phân liệt với bọn
lớp trên là không tránh khỏi”17.
Đối với giai cấp nơng dân, Lê nin đã phân tích sâu sắc sự tồn tại và phát
triển, sự phân hoá của giai cấp nông dân trong thời kỳ quá độ. “Nơng dân, cũng
như mọi giai cấp tiểu tư sản nói chung, vẫn giữ một địa vị đứng giữa, một địa vị
Sđd. Tr.318.
Sđd. Tr.319.
15
Sđd. Tr.319.
16
Sđd. Tr.319.
17
Sđd. Tr.517.
13
14



trung gian”18. Về tính hai mặt của nơng dân: “Một mặt họ là một số quần chúng
lao động khá đông đảo (vô cùng đông đảo trong nước Nga chậm tiến) đồn kết
với nhau vì lợi ích chung của những người lao động là giải thoát khỏi bọn địa
chủ và tư bản” 19; “Mặt khác, họ là những tiểu chủ riêng lẻ, tiểu tư hữu và tiểu
thương. Địa vị kinh tế như thế tất nhiên sẽ làm cho họ dao động, ngả nghiêng
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”20.
Từ cơ cấu xã hội - giai cấp, Lê nin đã luận giải tính tất yếu đấu tranh
giai cấp trong thời kỳ quá độ.
Lê nin viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp chưa chấm dứt dưới thời chun
chính vơ sản, nó chỉ diễn biến ra dưới những hình thức khác mà thơi” 21. Tính tất
yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân cụ
thể. Trước hết, do chủ nghĩa tư bản tăng cường chống phá về mọi mặt: “Chính vì
chúng đã thất bại nên sự phản kháng của chúng ngày càng tăng lên, gấp trăm, gấp
ngàn lần. ““Nghệ thuật” quản lý nhà nước, quân đội, kinh tế tạo cho chúng một
ưu thế sâu và rất lớn, khiến cho tác dụng của chúng vô cùng to lớn hơn” 22. “Sở dĩ
giai cấp tư sản toàn thế giới đã lồng lộn lên và điên cuồng chống chủ nghĩa Bơn
sê vích, tổ chức những cuộc xâm lược qn sự, những âm mưu ... để chống lại
những người Bôn sê vích, chính là vì chúng thừa hiểu rằng chúng ta nhất định sẽ
thắng lợi trong cải tạo nền kinh tế xã hội, trừ phi chúng ta sẽ bị lực lượng quân sự
đè bẹp. Song, chúng đã không đè bẹp được chung ta bởi phương pháp đó” 23. Cịn
đối với giai cấp vơ sản “nó trấn áp sức phản kháng ngày càng tăng của bọn bóc
lột”24, “Muốn xố bỏ giai cấp trước hết cần phải đánh đổ bọn địa chủ và bọn tư
bản. Phần nhiệm vụ đó, chúng ta đã hoàn thành rồi, nhưng đây mới chỉ là một

Sđd. Tr.319.
Sđd. Tr.319, 320.
20
Sđd. Tr.320.
21

Sđd. Tr.318.
22
Sđd. Tr.319.
23
Sđd. Tr.313.
24
Sđd. Tr.319.
18
19


phần, và hơn nữa cũng khơng phải là phần khó khăn nhất” 25. Vì vậy “Chủ nghĩa
xã hội chính là sự xoá bỏ giai cấp”.
Về nhiệm vụ của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, Lê nin
khẳng định giai cấp vô sản không chỉ dùng công cụ là chính quyền mà cịn phải
dùng ngay chính những tư liệu sản xuất để tiến hành cuộc đấu tranh chống giai
cấp tư sản, đồng thời giai cấp công nhân phải lãnh đạo các phần tử dao động,
trung gian để tiến hành đấu tranh giai cấp: “Sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản, giai
cấp vô sản đã trở thành giai cấp thống trị: nó nắm chính quyền nhà nước, nó sử
dụng những tư liệu sản xuất đã được xã hội hố, nó lãnh đạo các phần tử và các
giai cấp dao động, trung gian, nó trấn áp sự phản kháng ngày càng tăng của bọn
bóc lột. Tất cả những cái đó là nhiệm vụ đặc biệt của đấu tranh giai cấp, những
nhiệm vụ mà trước kia giai cấp vô sản không đề ra và không thể nào đề ra
được”26.
Do đó, cuộc đấu tranh giai cấp vơ sản chống giai cấp tư sản trở nên vơ cùng
ác liệt (nói đến cách mạng phải hiểu điều đó, nếu khơng hiểu... chỉ là ảo tưởng cải
lương). Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ với hình thức mới.
Một hình thức biểu hiện là đấu tranh chống bọn buôn lâụ, đầu cơ lương thực. Tác
động lãnh đạo giai cấp tiểu tư sản cũng là một hình thức đấu tranh đặc biệt.
Thứ tư, Lênin khẳng định đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính

vơ sản.
Trong tác phẩm “Bàn về chun chính vơ sản” được viết vào tháng 9,
tháng 10 năm 1919, Lê nin đã đề cập một số vấn đề liên quan đến chun chính
vơ sản. Lê nin khẳng định “Chun chính vơ sản là sự tiếp tục cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản dưới những hình thức mới. Đó là điểm then chốt, mà
người ta đã không hiểu được”, “Trong điều kiện chuyên chính vơ sản, những
hình thức đấu tranh của giai cấp vô sản không thể giống như trước được. Năm

25
26

Sđd. Tr.315.
Sđd. Tr.319


nhiệm vụ mới (chủ yếu nhất) và respective 5 hình thức mới” 27: trấn áp sự kháng
cự của bọn bóc lột, nội chiến, “trung lập hoá” giai cấp tiểu tư sản. sử dụng giai
cấp tư sản, bồi dưỡng tinh thần kỷ luật mới.
Trong tác phẩm này, Lê nin tiếp tục đề cập đến một số nội dung của
chun chính vơ sản. Về nhiệm vụ của chun chính vơ sản, Lê nin khẳng định:
Muốn xoá bỏ giai cấp, trước hết cần phải đánh đổ bọn địa chủ và bọn tư bản.
Phần nhiệm vụ đó, chúng ta đã hồn thành rồi, nhưng đấy mới chỉ là một phần,
và hơn nữa cũng không phải là phần khó khăn nhất; tiếp theo phải xố bỏ sự
khác nhau giữa công nhân và nông dân. Những nhiệm vụ đó chỉ có thể hồn
thành thơng qua việc cải tạo toàn bộ kinh tế xã hội, chuyển từ nền kinh tế hàng
hoá nhỏ, cá nhân, riêng lẻ sang nền kinh tế tập thể rộng lớn.Vì vậy, cần phải thực
hiện chun chính vơ sản để làm tốt các chức năng chủ yếu. Tuy nhiên, cũng cần
khẳng định rằng: đánh đổ tư bản khơng có nghĩa là chúng ta phủ định sạch trơn chủ
nghĩa tư bản, mà cần phải kế thừa những thành tựu của xã hội đó, phải sử dụng
những chuyên gia tư sản: “Chuyên gia”. Không những phải trấn áp sự kháng cự

của họ, không những phải “trung lập hố” họ mà cịn phải thu nạp họ làm việc, bắt
họ phải phục vụ cho giai cấp vô sản”28.
Theo tư tưởng của Lê nin thì: khơng có sự chỉ đạo của các chuyên gia am
hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì chúng ta khơng thể
nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội, vì chủ nghĩa xã hội địi hỏi một bước tiến có ý
thức và có tính chất quần chúng để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng
suất của chủ nghĩa tư bản dựa trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã
đạt được. Đề cập đến cơ sở khách quan quy định tính lịch sử của chuyên chính
vơ sản cần phải xuất phát từ sự tồn tại các giai cấp: “Vì các giai cấp vẫn tồn tại
và sẽ tồn tại trong suốt thời đại chun chính vơ sản. Chun chính sẽ trở nên vơ
ích, khi các giai cấp khơng cịn nữa. Các giai cấp sẽ khơng biến mất, nếu khơng
có chun chính vơ sản”29.
Sđd. Tr.298.
Sđd. Tr.300.
29
Sđd. Tr.318.
27

28


Một đặc trưng khác của chun chính vơ sản: Chun chính vơ sản là sự
xóa bỏ nền dân chủ tư sản và thiết lập nền dân chủ vô sản. Lê nin vạch trần thực
chất của dân chủ tư sản: dân chủ chung chung, hình thức, dân chủ cho giai cấp
bóc lột; quan niệm có thể kinh qua con đường dân chủ nói chung để tiến tới chủ
nghĩa xã hội - đó là những quan niệm "trừu tượng về dân chủ", lừa bịp che dấu
bản chất giai cấp tư sản. Lê nin vạch trần bản chất giai cấp của dân chủ tư sản
về: bình đẳng, tự do chính trị, quan điểm theo đa số, bằng cách biểu quyết (thực
chất quyết định bằng tiền bạc, tư bản, tư hữu) - lừa bịp người lao động bằng cái
bình đẳng hình thức trong khi vẫn giữ ngun gơng, ách, chế độ tư hữu, đó

chính là thực chất dân chủ tư sản. Để phân biệt các nền dân chủ, cần phải trả lời
các câu hỏi: “tự do thoát khỏi sự áp bức của giai cấp nào? bình đẳng của giai cấp
nào với giai cấp nào? dân chủ trên cơ sở quyền tư hữu hay trên cơ sở cuộc đấu
tranh để thủ tiêu quyền tư hữu” 30. Do đó, giai cấp vơ sản muốn thực hiện dân
chủ vơ sản thì phải quyết định bằng đấu tranh giai cấp, phải xố bỏ tư bản, xố
bỏ bóc lột và những điều kiện thực tế của dân chủ tư sản chung chung, hình
thức.
Để thực hiện chun chính vơ sản và đảm bảo thắng lợi cho cuộc đấu
tranh giai cấp, cần phải liên minh công nông. Liên minh công nông là động lực
để thực hiện chun chính vơ sản. Trong cách mạng vô sản, cả hai giai cấp vô
sản và nơng dân đã được giải phóng khỏi quan hệ tư hữu, giải phóng khỏi ách áp
bức bóc lột. Đó là một bước tiến chưa từng có trong lịch sử . Chun chính vơ
sản đã đem lại lợi ích cho giai cấp nông dân. Họ được chia ruộng đất, được cải
thiện về đời sống vật chất, được tự do thật sự . Từ trước đến nay, họ đều có kẻ
thù chung với giai cấp vô sản (bọn tư bản, địa chủ, con bn, đầu cơ...) họ có
cùng nguyện vọng chống áp bức bóc lột. Liên minh cơng nơng là tất yếu, đây là
liên minh của hai giai cấp lao động có cùng lợi ích chung, có cùng kẻ thù chung.
Liên minh công nông là tiếp tục đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ.

30

Sđd. Tr.321.


Lê nin khẳng định người nông dân lao động “một người có đủ tư cách là đồng
chí của người cơng nhân xã hội chủ nghĩa, người bạn đồng minh chắc chắn nhất và
người anh em ruột thịt của công nhân xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh chống ách
tư bản”31, và “Hàng bao thế kỷ người nông dân lao động đã ni dưỡng cho mình chí
căm thù và lịng oán ghét đối với những kẻ áp bức bóc lột đó, và “sự ni dưỡng” do
đời sống thực tế đem lại ấy buộc nơng dân phải tìm cách liên minh với công nhân

chống lại bọn tư bản, bọn đầu cơ, bọn con buôn”32.
Tuy nhiên, trong thực hiện liên minh công nông, giai cấp công nhân cần
phải nhận thức đầy đủ tính chất hai mặt của giai cấp nơng dân. Cần phải chú ý
phân biệt các tầng lớp của giai cấp nông dân “Giai cấp vô sản phải phân biệt và
phân định rõ ranh giới giữa người nông dân lao động với người nông dân tư
hữu, giữa người nông dân lao động với người nông dân con buôn, giữa người
nông dân cần lao với người nông dân đầu cơ....” 33. Cần phải phân định sự hai
mặt của giai cấp nông dân, vì đối với giai cấp nơng dân, trong cuộc đấu tranh
giai cấp thì “trong số những người đó, có những kẻ nhảy từ bên này sang bên
kia, những kẻ dao động, đổi chiều chuyển hướng, lưỡng lự ...”34.
Trên đây là một số nội dung chủ yếu về thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế –
xã hội, giai cấp , đấu tranh giai cấp và về chun chính vơ sản trong tác phẩm
“Kinh tế chính trị trong thời đại chun chính vơ sản” của Lê nin. Tác phẩm đã
trang bị cho giai cấp vô sản, nhân dân thế giới nói chung, Đảng Bơn sê vích và
nhân dân Nga Xơ viết nói riêng phương pháp luận nhận thức tình hình thực tiễn
đấu tranh những năm đầu của thời kỳ quá độ, những vấn đề nóng hổi, cấp bách
cần giải quyết. Trên cơ sở đó để đề ra đường lối chính sách trong sự nghiệp bảo
vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phát triển lý luận chủ nghĩa Mác về thời kỳ
quá độ, giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, đồng thời đấu tranh
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Ngày nay, tác phẩm
Sđd. Tr.317.
Sđd. Tr.317.
33
Sđd. Tr.517.
34
Sđd. Tr.320.
31
32



vẫn giữ nguyên giá trị đối với các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là các vấn đề lý
luận và thực tiễn về tính tất yếu, đặc trưng, bản chất; về cơ cấu kinh tế - xã hội,
giai cấp; đấu tranh giai cấp và xây dựng nền chun chính vơ sản trong thời kỳ
quá độ...
3. Ý nghĩa đối với việc nhận thức chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Những nội dung được Lê nin trình bày trong tác phẩm “Kinh tế chính trị
trong thời đại chun chính vơ sản” là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nhận
thức hệ thống các quan điểm, đường lối của Đảng ta trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Lê nin khẳng định trong tỏc phm: ...có thể là đối với một bài báo nhỏ, thì
làm nh vậy cũng sẽ đạt đợc mục đích nho nhỏ là: nêu vấn đề và đa ra những
nét chính để cho các đồng chí cộng sản ở các nớc thảo luận35. Nhng bi bỏo
ú, mc dự dung lượng số trang viết ít, nhưng nội dung lại đặc biệt có giá trị đối với
Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo dân tộc tiến hành xây dựng thời kỳ quá độ.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đặc điểm to lớn, bao trùm nhất của nước ta khi
đi vào thời kỳ quá độ: “đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”36. Đặc điểm này nó chi phối đến các
đặc điểm khác. Đối với nước ta, hơn ai hết Hồ Chí Minh hiểu rõ những đặc điểm
của một đất nước nông nghiệp lạc hậu chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa, kỹ thuật lạc hậu, dân trí thấp, lại bị cực khổ do áp bức đô hộ của thực
dân, những thành kiến, hủ tục phong kiến nặng nề.
Được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh,
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu hết sức quan trọng trong thời kỳ quá độ.
Tuy nhiên, lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng trải qua nhiều bước
thắng trầm. Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta đã mắc
35
36


S®d. Tr.309
Hồ Chí Minh,tồn tập, NXB CTQG, tập10, tr13


phải một số sai lầm, chủ quan, nóng vội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, có
thời kỳ chúng ta đã quan niệm là tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội, chậm chuyển đổi nền kinh tế từ giai đoạn thời chiến sang giai đoạn
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những sai lầm chủ quan đó đã làm cho nước ta rơi
vào giai đoạn khủng hoảng toàn diện, trầm trọng trong những năm bảy mươi,
tám mươi của thế kỷ XX.
Nhận thức được những sai lầm đó, Đảng ta đã chủ trương đổi mới tư duy,
cơ sở của sự đổi mới tư duy ấy là nhận thức lại triết học Mác xít, trong đó có
những nội dung chúng ta quay lại với những kinh điển gốc và Tư tưởng Hồ Chí
Minh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ cần phải được nhận thức
bằng những quan điểm, hệ thống lý luận của Lê nin trong thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Liên xô. Và như vậy, những nội dung trong tác phẩm “Kinh tế
chính trị trong thời đại chun chính vơ sản” càng có ý nghĩa đặc biệt đối với
Đảng ta trong việc hoạch định đường lối chiến lược, sách lược của Đảng trong
lãnh đạo cách mạng ở thời kỳ quá độ.
Bắt đầu từ sự nghiệp đổi mới đất nước năm 1986, đến Đại hội IX và Đại
hội X, nhận thức của Đảng về thời kỳ quá độ ngày càng rõ dần và những vấn đề:
tính tất yếu, bản chất của thời kỳ quá độ, về cơ sở kinh tế - xã hội, giai cấp, về đấu
tranh giai cấp và chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ được thể hiện ngày
càng cụ thể hơn. Bằng cách khảo sát thông qua hệ thống văn kiện của Đảng,
chúng ta sẽ rút ra được những nội dung xoay quanh vến đề này.
Về tính tất yếu, đặc trưng của thời kỳ quá độ: Báo cáo chính trị Đại hội
Đảng tồn quốc lần thứ IX khẳng định: hiện nay chúng ta đang ở trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc đề cập như vậy
là sự đánh giá đúng thực trạng tình hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta,
đánh giá đúng trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta. Để thoát khỏi

nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, chúng ta phải tập trung sức phát triển lực
lượng sản xuất, phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, huy động
mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không


nên lấy mục tiêu xa để áp đặt, bắt thực tiễn phải khn theo khi chưa có điều
kiện.
Báo cáo chính trị Đại hội IX đã chỉ rõ “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta là sự phát triển quá độ chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế dộ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công
nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” 37.
Đồng thời phải từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chống tư tưởng duy lực lượng sản xuất, chủ
nghĩa kỹ trị.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp khó khăn, phức tạp,
có sự đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ nghĩa xã
hội và cái không phải là chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một số hình thức trung
gian, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất q độ.
Về mơ hình kinh tế tổng quát: Từ Đại hội VI đến Đại hội X của Đảng, lý
luận về mơ hình kinh tế tổng qt của Đảng ta đã khơng ngừng được bổ sung và
hồn thiện. Từ chủ trương cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế, khai thác
mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai
trò chỉ đạo (giai đoạn Đại hội VI), đến những năm qua, trong văn kiện Đại hội
IX: phát triển “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một sự
phát triển dài về lý luận. Sự phát triển đó đã chứng tỏ chúng ta ngày càng bám
sát hơn tư tưởng của Lê nin về nền kinh tế nhiều thành phần trong tác phẩm

“Kinh tế chính trị...”. ở Trung Quốc, cũng phải đến Đại hội Đảng lần thứ XIV
(1992) mới nêu vấn đề kinh tế thị trường xã hi ch ngha.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
NXB CTQG. Hà Néi. 2001. Tr.84.
37


Nội hàm của khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
thực chất vẫn là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhưng được diễn đạt gọn hơn, nói rõ được mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ. Đây là bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng ta. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là
nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập
trung, quan liêu bao cấp, nhưng đó cũng khơng phải là kinh tế thị trường tự do
theo cách nói của tư bản, tức là khơng phải kinh tế thị trường theo kiểu tư bản
chủ nghĩa, và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã
nói, chúng ta cịn đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cịn có sự đan
xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có vừa chưa có đầy đủ yếu tó xã hội
chủ nghĩa.
Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Dự thảo văn kiện Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định nước ta có 3 chế độ sở hữu: sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân; thể hiện dưới 4 hình thức cơ bản:
sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Tương ứng với
4 hình thức sở hữu cơ bản trên, nền kinh tế của nước ta có 4 thành phần kinh tế cơ
bản là: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp. Trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế tập thể có vị trí ngày càng lớn trong
nền kinh tế; kinh tế tư nhân có vai trị rất quan trọng, là một động lực cho sự tăng
trưởng nhanh và hiệu quả của nền kinh tế, góp phần tạo việc làm, xố đói giảm
nghèo. Kinh tế hỗn hợp mà đặc trưng là sở hữu cổ phần sẽ phát triển mạnh và ngày

càng trở thành phổ biến trong nền kinh tế.
Việc phân định các loại hình sở hữu và các thành phần kinh tế là rất cần
thiết để làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói chung,
cho việc phát triển từng thành phần kinh tế nói riêng, khẳng định như vậy không
phải là để phân biệt đối xử mà là để có chính sách đúng đắn, giải phóng mọi lực


lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển phù hợp với định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Về đấu tranh giai cấp và động lực để phát triển đất nước: Mặc dù, trong
những năm gần đây, chúng ta ít nói đến đấu tranh giai cấp, song xuyên suốt trong
các quan điểm, tư tưởng, đường lối, chiến lược, sách lược, phương hướng cơ bản
phát triển đất nước vẫn luôn bao hàm nội dung đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa
hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Đảng ta thừa nhận hiện nay
và cả trong thời kỳ quá độ của nước ta vẫn còn tồn tại một cách khách quan các
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Khơng thể xố nhồ ranh giới giữa các giai cấp,
không thể phủ nhận đấu tranh giai cấp, cũng khơng nên hiểu đấu tranh giai cấp là
điều hồ lợi ích giữa các giai cấp. Cùng với những biến đổi của kinh tế xã hội, cơ
cấu giai cấp, nội dung, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta cũng đã
thay đổi nhiều, nó khác thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, hay những năm đầu
chúng ta mới giành được chính quyền.
Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ
hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác đấu lâu dài trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp cơng
nhân thống nhất với lợi ích tồn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư
bản chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất
công, chống bóc lột, chống nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém
phát triển. Đại hội IX của Đảng chỉ rõ “Nội dung chủ yếu của đáu tranh giai cấp trong

giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển; thực hiện cơng bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và
khắc phục những tư tuởng, hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại âm mưu


và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng
nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”38
Về vấn đề xây dựng Nhà nước chuyên chính vơ sản, xây dựng nền
chun chính vơ sản được biểu hiện tập trung nhất trong việc xây dựng Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Với những tư tưởng chỉ đạo của các Nghị quyết
Đại hội và Nghị quyết Trung ương, trong 20 năm đổi mới vừa qua, tuy cịn có
những mặt yếu kém, nhưng nền chun chính vô sản, nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nước ta tiếp tục được xây dựng và không ngừng hoàn thiện.
Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy và ngày càng được
mở rộng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, bất cứ nhà nước nào
cũng là nền chuyên chính của giai cấp thống trị, cũng thực hiện các chức năng
của nhà nước. Nhà nước ta cũng vậy, mang bản chất giai cấp cơng nhân nhưng
đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân; nhà nước thực
hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Từng bước đi trong thời kỳ quá
độ, chúng ta không ngừng xây dựng và hồn thiện nền chun chính vơ sản, nhà
nước chun chính vơ sản để ngày càng phát huy hơn nữa vai trò của nhà nước
trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội...
Về vấn đề liên minh giai cấp, Báo cáo chính trị của Đảng khẳng định
“Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đồn kết tồn dân trên cơ sở liên
minh giữa cơng nhân và nơng dân với trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hồ
các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của
các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” 39. Hai mặt đó khơng mâu thuẫn nhau,
trái lại, thống nhất biện chứng với nhau, rất tinh tế. Đảng ta ln coi việc giương
cao ngọn cờ đại đồn kết toàn dân là truyền thống quý báu của dân tộc, là đường

lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tư tưởng này thấm sâu vào tất cả các văn kiện và cũng là chủ đề của Đại
hội IX, X ca ng.

38
39

Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd. Tr. 86.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd. Tr. 86.


Có thể khẳng định rằng, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng
thời kỳ quá độ ở nước ta tuy cịn có những yếu kém, khuyết điểm, nhưng chúng
ta đã đạt được nhiều thành tựu đặc biệt quan trọng, những thành tựu này gắn
liền với lý luận của Mác, Ăng ghen, Lê nin và những tư tưởng của Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ. Những thành tựu ấy là tài sản vô giá, như
đồng chí Giơdécadanêva, trưởng đồn đại biểu Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha tại
diễn đàn Đại hội IX của Đảng ta đã phát biểu: “Những thành tựu trong việc cụ
thể hố một con đường thích hợp q độ lên chủ nghĩa xã hội không chỉ là tài
sản vô giá của những người cộng sản Việt Nam, mà còn là nguồn cảm hứng và
tư tưởng đối với những người cộng sản và cách mạng trên toàn thế giới”40
Từ tất cả những điều trình bày ở trên, hồn tồn có cơ sở để khẳng định
rằng, những tư tưởng về thời kỳ quá độ Lê nin đề cập có ý nghĩa lịch sử to lớn
mà trong thời đại đầy những biến động như hiện nay, những nội dung lý luận về
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm này vẫn
mãi giữ được vị trí xứng đáng mà nó đã giành được trong lịch sử triết học nhân
loại đồng thời là cơ sở lý luận to lớn để Đảng cộng sản và phong trào cơng nhân
các nước xã hội chủ nghĩa cịn lại vận dụng tiến hành thành công công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ.


(1) C. Mác Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993,
t. 19, tr. 47
(2) Xem: C. Mác Ph. Ăngghen: Sđd, t. 4, tr. 469
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự tht, H Ni, 2011, tr.70

Ban T tởng - Văn hoá Trung ơng, Tài liệu tham khảo phục vụ Nghị quyết ĐHĐB toàn
quốc lần thứ IX của Đảng. NXB CTQG. Hà Néi. 2001. Tr 10,11.
40



×