Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng quan điểm toàn diện. Thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Việt Nam trước và sau Đổi mới.Lý luận về địa tô của C.Mác. Phương pháp, phương pháp luận và vai trò của phương pháp lu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.4 KB, 30 trang )

…………..o0o…………..

NỘI DUNG TRIẾT-MÁC LÊNIN
(CĨ VÍ DỤ)
1. Quan điểm tồn diện của chủ nghĩa Mác – Lênin và
vận dụng quan điểm toàn diện
2. Thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất của Việt Nam trước và sau Đổi mới
3. Lý luận về địa tô của C.Mác? Khái niệm và bản
chất của địa tơ? Các hình thức địa tơ tư bản? Vận dụng lý
luận địa tô trong việc quản lý đất đai ở Việt Nam hiện nay?
4. Phương pháp, phương pháp luận và vai trò của
phương pháp luận Triết học Mác Lênin

1


1. Quan điểm toàn diện của chủ
nghĩa Mác – Lênin và vận dụng quan
điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện của Chủ nghĩa Mác-Lênin? Vận dụng quan điểm toàn
diện để đánh giá cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung?
Chúng ta đang sống trong một thời kì mà ở bất cứ nơi đâu trên đất nước
Việt Nam này cũng có thể tiến hành giao dịch thương mại. Cứ ngủ dậy gửi
một tin nhắn hay rửa mặt dưới nước máy là bạn đã tham gia một giao dịch
thương mại. Từ cái tăm, đến gói muối nơi nào cũng có người bán, kẻ mua,
cứ có cầu thì nguồn cung sẽ xuất hiện. Chỉ cần có tiền là hàng sẽ được
giao tới tận nơi nhanh nhất có thể. Sản phẩm làm ra có thể dùng hoặc đem
bán ở bất cứ nơi đâu được giá cao mà khơng bị bó buộc bởi bất kỳ một luật
lệ nào hết.
Cao hơn một chút ta thấy trên đất nước xuất hiện nhiều hơn các tập đồn,


cơng ty nước ngồi. Đấy là cịn chưa kể tới các cơng ty tư nhân chiếm đa
số, phân bố ở khắp nơi. Và chúng ta gọi nó một cách nơm na là cơ chế thị
trường mở cửa, thơng thống. Nhưng trong trí nhớ của những người đã
trải qua thời kì ấy, chắc không khi nào quên khái niệm cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, nói cách khác là cơ chế quan liêu bao cấp. Hình ảnh về nó ấn
tượng đến nỗi chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy chỉ bằng vài thao tác đơn
giản trên Internet.
Nghĩ đến quan liêu bao cấp có nhiều người nhìn nó bằng ánh mắt khơng
mấy thiện cảm, có khi cịn chê bai, chỉ trích… Nhưng thiết nghĩ sự vật hiện
tượng nào cũng nên được nhìn một cách toàn diện trước khi bị đưa ra
phán xét, như thế mới đánh giá đúng về nó. Và phải chăng là thật sự cần

2


thiết với việc áp dụng quan điểm toàn diện vào giải quyết vấn đề đang
được bàn tới ở đây: cơ chế kế hoạch hóa tập trung – mặt lợi hay cái hại?
PHẦN NỘI DUNG

1. Quan điểm toàn diện của Chủ nghĩa Mác-Lênin
Phép biện chứng duy vật là môn khoa học nghiên cứu những quy luật
chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống gồm 2
nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển), 6
cặp phạm trù cơ bản (cái riêng – cái chung, nguyên nhân – kết quả, tất
nhiên – ngẫu nhiên, nội dung – hình thức, bản chất – hiện tượng, khả năng
– hiện thực) và 3 quy luật phổ biến (quy luật lượng – chất, quy luật phủ
định của phủ định, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập).
Từ 2 nguyên lý cơ bản trên, ta xây dựng được 3 quan điểm: Quan điểm
toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử – cụ thể. Trong đó,

quan điểm tồn diện đóng một vai trị quan trọng bởi bất cứ sự vật hiện
tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật khác
và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú. Do đó, quan điểm tồn diện có ý
nghĩa hết sức thiết thực trong cuộc sống.
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng thế giới tồn tại như một thể thống
nhất. Các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tồn
tại tách biệt với nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa
lẫn nhau. Cơ sở của sự liên hệ đó chính là tính thống nhất của thế giới vật
chất.

3


Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách quan, là vốn có của sự vật,
hiện tượng. Đồng thời mối liên hệ cịn mang tính phổ biến bởi bất cứ sự vật
hiện tượng nào cũng đều nằm trong các mối liên hệ với những sự vật, hiện
tượng khác.
Quan điểm duy vật biện chứng khơng chỉ khẳng định tính khách quan, tính
phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các q trình mà nó
cịn nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại: có mối liên hệ bên trong và
mối liên hệ bên ngồi, có mối liên hệ chung bao qt tồn bộ thế giới và
mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực của thế giới, có mối liên hệ trực tiếp,
mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại được thể hiện thông
qua một hay một vài khâu trung gian, có mối liên hệ bản chất, mối liên hệ
tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên, có mối liên hệ giữa các sự vật khác nhau
và mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của sự vât. Trong các mối quan hệ
đó, nói chung, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ chủ
yếu… giữ vai trò quyết định, tùy thuộc vào quan hệ hiện thực xác định.
1.2. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác-Lênin

Từ việc nghiên cứu quan điểm biện chứng về mối liên hệ phổ biến của sự
vật hiện tượng, triết học Mác – Lênin rút ra quan điểm toàn diện trong nhận
thức. Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trên thế giới đều tồn tại trong mối
liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong
phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải có quan
điểm tồn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở
một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của
nó.
Quan điểm tồn diện địi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật,
hiện tượng, một mặt chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại
giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật,
hiện tượng đó. Mặt khác, chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ với

4


các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). Đề cập đến 2 nội dung này,
Lênin viết “muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của sự vật
đó”.
Đồng thời quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất,
mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên…để hiểu rõ bản chất của sự vật
và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất
trong hoạt động của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành
động, chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối
liên hệ ở những điều kiện nhất định.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự
vật, chúng ta vừa phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó, vừa phải
chú ý tới những mối liên hệ giữa sự vật ấy với các sự vật khác. Từ đó ta

phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để
tác động vào sự vật nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Hơn thế nữa, quan điểm tồn diện địi hỏi, để nhận thức được sự vật cần
phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất
định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn
những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương
đối, không đầy đủ trọn vẹn. Ý thức được điều này, chúng ta mới tránh được
việc tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật và tránh xem nó là những
chân lí bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát triển. Để nhận
thức được sự vật, cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, cần thiết phải
xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự
cứng nhắc.

5


Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện khơng chỉ ở chỗ nó
chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ vẫn có thể là phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những
thuộc tính, những quy định khác nhau của sự vật được thể hiện trong
những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm tồn diện chân thực đòi hỏi
chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến
chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự
vật hay hiện tượng đó.

2. Vận dụng quan điểm tồn diện để đánh giá cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Nguồn gốc của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Ngày 30/4/1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hoàn toàn thắng

lợi ,đất nước ta hoàn toàn thống nhất sau 21 năm kháng chiến trường kì.
Cả nước bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế -xã hội .Định
hướng của Đảng và Nhà nước: xây dựng nền kinh tế theo mơ hình kế
hoạch hóa tập trung mà hiện nay Đảng cộng sản Việt Nam gọi là mơ hình
“quan liêu bao cấp’’. Cơ chế này có nguồn gốc từ mơ hình phát triển kinh
tế xã hội và cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hóa tập trung của các nước xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô.
Cơ chế này có những ưu điểm thích hợp cho hồn cảnh hiện tại của đất
nước lúc đó , nhưng cũng có nhiều hạn chế kìm hãm sự phát triển kinh tế
của đất nước sau này . Vậy cơ chế đó như thế nào? Có ưu nhược điểm
gì? Sau đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu.
Ngày nay, khi nhắc đến cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung ta thường
chỉ nghĩ đến các mặt tiêu cực của nó.

6


Thứ nhất, khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo
chiều sâu dựa trên việc áp dụng các thành tựu của nền khoa học và công
nghệ hiện đại thì cơ chế này thủ tiêu sự cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa
học cơng nghệ. Điều đó làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng
trầm trọng
Thứ hai, nhà nước quản lí kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Tính
pháp lệnh thể hiện ở chỗ: nhà nước xây dựng các chỉ tiêu chủ quan, sau
đó đưa xuống cho các doanh nghiệp, thậm chí cả hợp tác xã thực hiện.
Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở quyết định của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Hệ thống chỉ tiêu
được thể hiện ở chỗ: nhà nước thực hiện chế độ bao cấp đối với mọi đơn
vị cấp dưới và doanh nghiệp nhà nước kể cả hợp tác xã ( Hình 3). Cơ quan

hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp, từ cấp vốn, sản xuất đến khâu phân phối sản phẩm nhưng
lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lí với các quyết định của
mình( Hình 4). Giữa cơ quan hành chính trực tiếp tham gia vào q trình
lên chỉ tiêu kế hoạch và các doanh nghiệp thực hiện chỉ tiêu thì lại khơng có
bất kì sự ràng buộc pháp lí nào với hành động của mình, tức là dù có làm
sai đi chăng nữa thì họ cũng khơng có vấn đề gì cả, vì vậy mà khơng có lí
do nào khiến họ thực hiện kế hoạch một cách tối ưu nhất. Vấn đề mà cả
hai bên quan tâm đó là chạy theo và chạy đua với chỉ tiêu được ấn từ trên
xuống. Ở giai đoạn này, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được coi
trọng đặc biệt. Từ đó hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế
khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, triệt tiêu động lực
kinh tế, lao động sáng tạo đối với người lao động, khơng kích thích tính
năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, bộ máy quản lí cồng kềnh, nhiều cấp trung gian . Bộ máy quản lí
này vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ kém năng lực, phong cách

7


cửa quyền, quan liêu, nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao
động. Hoạt động kinh tế kém hiệu quả. Trong thực tế, bộ máy nhà nước và
doanh nghiệp quốc doanh cịn xuất hiện tính tham ơ.
Thứ tư, các hoạt động giao dịch thương mại còn nhiều hạn chế: bán như
cho, mua như cướp (Hình 5). Giá bán thấp hơn nhiều so với số vốn bỏ ra
nên mới có chuyện nhiều người dân tìm cách giấu lúa và nhiều chuyện dở
khóc dở cười. Ai mua thứ gì cũng phải đến hợp tác xã mua bán hay cửa
hàng mậu dịch quốc doanh. Để mua được thì rất khó khăn vì không đủ để
cung cấp, mọi người phải xếp hàng chầu chực để được mua với đặc trưng
là chế độ tem phiếu: vật phẩm tiêu dùng được phân phối theo định mức

chứ không theo khả năng lao động. Tức là người làm ít và người làm nhiều
đều được phân phát vật phẩm như nhau. Vì thế chế độ này thủ tiêu động
lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao
động.
Thứ năm, trong thời kì này lạm phát bùng nổ. Tiền phát hành nhiều mà vẫn
không đủ, lương cơng nhân khơng có; vật tư hàng hóa khan hiếm. Giá bán
lương thực dù tăng mười lần vẫn khơng đủ để bù đắp chi phí. Sản xuất
nơng nghiệp sa sút, đầu tư trong công nghiệp giảm. Chỉ số giá bán lẻ của
thị trường xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Do đồng tiền
mất giá, người ta quay sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng vọt,
cịn nhanh hơn cả tăng giá hàng hóa. Tình trạng khan hiếm hàng hóa khiến
cuộc sống chật vật không những về số lượng mà cả về phẩm chất của
nhiều mặt hang
Tuy nhiên theo quan điểm toàn diện chỉ nhìn sự vật, hiện tượng ở một mặt,
một chiều thì khơng thể đánh giá chính xác sự vật, hiện tượng mà cần phải
đặt nó vào mối liên hệ cụ thể trong từng hoàn cảnh, điều kiện lịch sử tương
ứng. Cụ thể như cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khi nhìn phiến diện
ta chỉ có thể nhìn thấy mặt tiêu cực mà khơng thể nhìn thấy những ưu điểm
của nó.

8


Nhìn một cách tồn diện, ta thấy bên cạnh những hạn chế, yếu kém của
chế độ kinh tế tập trung thì trong hồn cảnh giai đoạn lịch sử những năm
70/XX chế độ kinh tế tập trung cũng có những ưu điểm đóng góp nhất định
cho đất nước:
Xét về mặt kinh tế: Trong những năm 70/XX, thời kì kinh tế tăng trưởng
theo chiều rộng, tức là dựa vào tăng đầu tư khai thác tài nguyên, sức lao
động giá rẻ và một số lợi ích khác, cơ chế kinh tế tập trung có tác dụng

nhất định. Nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế, phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả nước vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn
và điều kiện cụ thể, nhất là trong q trình cơng nghiệp hóa theo hướng ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng. Cơ chế này đã tạo nên sự thống nhất,
đồng bộ trong việc thực hiện các mục tiêu của cả nước .
Xét về mặt xã hội – chính trị:
Những năm 70/XX, thời kì đất nước cịn đang nằm dưới bom đạn chiến
tranh, hai miền Nam – Bắc còn bị chia cắt. Mục tiêu và nguyện vọng cùa cả
dân tộc là đánh đuổi Mĩ Ngụy, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước “
Non sông Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong hoàn cảnh đất
nước ấy, cơ chế quản lý kinh tế hóa tập trung đã đáp ứng được yêu cầu
của thời chiến: Tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân, toàn quân, hậu
phương – tiền tuyến chung lịng. Thực hiện kế hoạch hóa tập trung sẽ huy
động được tối đa sức lực của toàn nhân dân trong việc xây dựng và phát
triển kinh tế, giúp miền Bắc hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ hậu phương chi
viện cho miền Nam. Nhiệm vụ và mục tiêu là giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước là của tồn dân tộc chứ khơng riêng cá nhân ai.
Mặt khác, những người chiến sĩ khi ra chiến trường có thề yên tâm về gia
đình, cha mẹ, vợ con ở nhà bởi mọi thứ đã được nhà nước bao cấp.

9


Chiến thắng lịch sử năm 1975, đất nước dành thắng lợi hoàn toàn, thống
nhất trên toàn lãnh thố. Sự thắng lợi ấy cũng có phần nào vai trị của cơ
chế kinh tế tập trung
Sau khi đất nước thống nhất, nhiệm vụ trước mắt quan trọng nhất lúc bấy
giờ là khôi phục và phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh. Chế
độ kinh tế hóa tập trung đã huy động được tinh thần, sức mạnh đoàn kết
toàn dân. Nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh ở hai miền Nam –

Bắc, đưa đất nước sang giai đoạn phát triển.
Như vậy nếu nhìn một cách tồn diện, đánh giá đa góc cạnh thì chế độ kinh
tế tập trung cũng có nhiều ưu điểm nhất định trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam những năm 70/XX.
Điểm phân biệt giữa quan điểm toàn diện và chủ nghĩa Triết chung ở chỗ:
trong khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong tổng thể các mối liên hệ của
nó, quan điểm toàn diện nhận thức được đâu là mối liên hệ quan trọng, cơ
bản hơn để từ đó đưa ra nhận định đúng đắn mà không hề dàn trải hay
cứng nhắc. Áp dụng vào vấn đề đang bàn luận, ta dễ dàng nhận thấy mối
liên hệ cơ bản nhất với cơ chế quan liêu bao cấp ở đây chính là hồn cảnh
lịch sử của đất nước.
Liên hệ một chút tới đánh giá của quốc tế thì trong bài trả lời phỏng vấn
hãng tin nhà nước Rusia Today ( RT) vào ngày 15/2 vừa qua, Viện sĩ
Yevgeny Primakov 85 tuổi, người từng đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng Liên
Bang Nga đã không ngớt lời tơn vinh mơ hình kinh tế của Liên Bang Xơ
Viết trước đây. Nhưng đó chỉ là một thời đã qua với cả Liên Bang Xô Viết
và Việt Nam ta bởi cả hai đều đã tiến hành cải cách kinh tế ( ở Liên Xô là
năm 1965 và Việt Nam là 1986 ). Nói như thế khơng có nghĩa cơ chế bao
cấp không hiệu quả nên phải thay đổi mà vì nó khơng cịn phù hợp nữa.Ở
nước ta, thời kì đầu với hào khí dân tộc đang lên sau chiến thắng lẫy lừng
của cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như do được sống trong một chế

10


độ hoàn toàn mới, độc lập, tự do nên người dân tràn đầy hy vọng sẵn sàng
đóng góp cơng sức, tiền của của mình cho cơng cuộc xây dựng chế độ xã
hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế lúc bấy giờ, cơ chế kế hoạch hóa
tập trung là hoàn toàn phù hợp. Và thực tế đã chứng minh tính đúng đắn
của nó thơng qua sức mạnh tồn dân tộc mà nó tạo nên đã giúp nước nhà

đánh tan giặc Mỹ, nước non thu về một mối.
Tuy nhiên, mơ hình kinh tế xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung đã dần bộc lộ rõ ràng hơn những hạn chế hết sức to
lớn mà trước đấy nó được chiến tranh che lấp thì bây giờ đã gây ra hiệu
quả trầm trọng mà đất nước phải gánh chịu. Nền kinh tế thiếu năng động,
kém hiệu quả, đất nước rơi vào tình trạng lạc hậu, đời sống nhân dân ngày
càng trở nên khó khăn, các căng thẳng xã hội cũng vì thế mà gia tăng; dẫn
đến một hệ quả tất yếu là ta phải tiến hành cải cách kinh tế năm 1986 đưa
đất nước sang giai đoạn phát triển mới.
Thời thế đã thay đổi thì dứt khoát cơ chế cũng phải thay đổi sao cho phù
độ hợp nếu khơng muốn bị bỏ lại phía sau. Cũng giống như thế để có cái
nhìn tồn diện về cơ chế kế hoạch hóa tập trung, ta phải xác định được
hồn cảnh mà nó được áp dụng, đấy là căn cứ quan trọng nhất để ta đánh
giá về nó, tránh những đánh giá phiến diện, sai lầm của không ít người
hiện nay. Bản thần cơ chế nó khơng có lỗi, mà là được áp dụng sai thời
điểm và cuối cùng thì cũng phải chịu bị phủ định trong quá trình phát triển
của kinh tế đất nước bởi một cái mới hơn: cơ chế thị trường.
Nhìn một cách tồn diện và bao quát về chế độ quan liêu bao cấp thì nó
cũng có những mặt ưu điểm riêng. Tuy nhiên mặt ưu điểm lại vơ cùng hạn
chế thay vào đó là vô số những nhược điểm khiến nước ta phải mất nhiều
thời gian để thay đổi nếp nghĩ, tác phong từ chiến đấu sang xây dựng. Bên
cạnh đó, tư tưởng bao cấp, sự duy ý chí và chậm đổi mới tư duy đã đưa
dân ta đứng trước bao khó khăn vào cuối những năm tám mươi, đầu chín
mươi của thế kỷ trước. Hơn nữa trong nền kinh tế hội nhập hiện nay nó lại

11


trở nên vơ cùng lạc hậu và khơng cịn phù hợp nữa. Tất cả những hạn chế
trên không thể đổi lỗi cho cụ thể một cá nhân nào mà nó phải xét trên nhiều

yếu tố và các mặt khác nhau.
Thứ nhất là sự quản lý chưa đúng đắn, thiếu kinh nghiệm của đảng ta.
Đảng ta đã nghiêm túc kiểm điểm, công khai thừa nhận những sai lầm,
khuyết điểm trước nhân dân và cho rằng, nguyên nhân chính của những
sai lầm, khuyết điểm trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (19751985) của Đảng ta là do bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí, từ đó dẫn đến
sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý phân phối lưu thông, cải tạo
xã hội chủ nghĩa; sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
+ Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, xây dựng
các chỉ tiêu một cách chủ quan, áp đặt từ trên xuống dưới khiến cho các
doanh nghiệp chỉ quan tâm duy nhất đến việc hoàn thành chỉ tiêu, hạn chế
sáng tạo.
+ Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp. Làm hạn chế sự phát triển và đóng góp vào
nền kinh tế của các thành phần kinh tế khác.
+ Quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ
+ Bộ máy quản lý cồng kềnh nhiều cấp trung gian. Hệ thống thể chế chưa
đồng bộ, cịn chồng chéo, thiếu thống nhất, thủ tục hành chính còn rườm
rà, phức tạp, trật tự kỷ cương chưa nghiêm.
Hai là đội ngũ cán bộ cơng chức cịn nhiều yếu kém về phẩm chất, tinh
thần, trách nhiệm. Khơng ít cán bộ, cơng chức trong các cơ quan hành
chính nhà nước làm việc thiếu tích cực. Điều đó thể hiện ở chỗ: nhiều cán
bộ, công chức bảo thủ trong cách nghĩ, cách làm, thiếu sự năng động, sáng
tạo và đổi mới; cách làm việc quan liêu, hành chính hố, khơng thạo việc,
tác phong chậm chạp, rườm rà, thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm… dẫn đến

12


sự trì trệ về phương thức hoạt động trong các cơ quan hành chính. Vẫn
cịn tồn tại khơng ít hiện tượng áp đặt, quan liêu cửa quyền, tham nhũng,

hối lộ, tuỳ tiện, coi thường kỷ cương, kỷ luật công vụ.
Ba là, trong xu thế hội nhập và phát triển quốc tế như hiện nay, các nước
phát triển đang sử dụng những ưu thế của mình gây ảnh hưởng, tạo sức
ép, làm tổn hại nền độc lập dân tộc của những nước chậm phát triển, trong
đó có Việt Nam. Nếu như trước đây, chúng ta vì Độc lập mà buộc phải hy
sinh “No cơm, ấm áo”, thì nay “No cơm, ấm áo” đang trở thành “mồi nhử”
của những nước lớn, nhằm làm méo mó nội dung độc lập dân tộc của
nhiều nước nghèo và nhỏ. Trong bối cảnh tình hình này, khơng cho phép
chúng ta tách mình biệt lập với cộng đồng thế giới, mà phải chủ động tham
gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, chủ động khai thác những thuận
lợi từ bên ngoài, dựa vào những tập hợp lực lượng có lợi, hạn chế những
tác động tiêu cực. Q trình đó được kết hợp chặt chẽ với yêu cầu tăng
cường tiềm lực quốc phòng – an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Thông qua hội nhập quốc tế, khu vực các nước ASEAN để
tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ.
Những nguyên nhân trên đã cho ta thấy tại sao chế độ quan liêu bao cấp
lại tồn tại nhiều nhược điểm và khơng cịn phù hợp với nước ta trong thời
bình. Nước ta đang hướng tới đổi mới tiến hành chuyển dần từ nền kinh tế
tập trung ,quan liêu ,bao cấp sang thực hiện cơ chế thị trường. Có như vậy
nền kinh tế nước ta mới có thể được cải thiện và phát triển vững mạnh.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, tạo
dựng được các mối quan hệ với các nước đang phát triển, hơn nữa là các
nước phát triển để nước ta có thể chiếm lại ưu thế và sức ảnh hưởng trên
thị trường quốc tế.
PHẦN KẾT LUẬN

13



Áp dụng quan điểm toàn diện về cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam
đã cho ta cái nhìn sâu, rộng, đúng đắn về vấn đề này. Mặc dù cịn bộc lộ
rất nhiều hạn chế nhưng ta khơng thể phủ nhận vai trò và ưu điểm của cơ
chế này. Khi nhìn nhận nó cần xem xét trên mọi mặt, mọi mối quan hệ thì
mới xác định được đâu là những mặt nổi bật, những mối quan hệ quan
trọng nhất. Từ đó ta sẽ thấy được bản chất cơ chế kế hoạch hóa tập trung
khơng phải là tiêu cực mà chỉ là không được vận dụng sáng tạo, đúng đắn
vào tình hình đất nước cũng như bối cảnh lịch sử nước ta bấy giờ ,chính vì
vậy mới dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Nhận thức được điều đó
Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế mới và khắc phục những hạn
chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà vẫn đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa.
Từ vấn đề nêu trên ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò quan trọng của
quan điểm tồn diện khi nhìn nhận một vấn đề:
– Quan điểm này đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn đúng đắn, khách quan
về sự vật, hiện tượng để rút ra bản chất. Phải đặt nó giữa các yếu tố bộ
phận, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó và mối quan hệ giữa
sự vật đó với sự vật khác ,đồng thời luôn đặt trong mối quan hệ với nhu
cầu thực tiễn của con người.
– Vận dụng quan điểm tồn diện vào hoạt động thực tiễn địi hỏi chúng ta
phải có các biện pháp, phương tiện khác nhau để hiểu cho rộng nhưng
cũng cần xác định đâu là cái cơ bản, cái quan trọng để hiểu sâu sắc vấn đề
. Mà theo như Lê – nin là kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dân chủ” và
chính sách “có trọng điểm”.

14


2. Thực trạng của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất của Việt Nam

trước và sau Đổi mới
Thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Việt Nam
trước và sau Đổi mới. Bài tập học kỳ Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lê nin 8 điểm.
MỞ ĐẦU:
Như chúng ta đã biết, trước thời kì đổi mới năm 1986, nền kinh tế nước ta
lạc hậu và thấp kém so với nhiều nước khác trên thế giới và sau thời kì đổi
mới năm 1986, nền kinh tế đã có những khởi sắc nhất định. Nhằm đi tìm
câu trả lời cho vấn đề này nên trong danh mục các bài tập lớn của môn
“Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin”, em đã chọn đề bài
số 2: “Phân tích thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của
Việt Nam trước và sau đồi mới (1986), từ đó rút ra kết luận về sự vận dụng
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ pháp triển của lực lượng
sản xuất ở nước ta”.
NỘI DUNG:

15


I. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất
1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (sức khoẻ thể chất,
kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức lao động của họ) với tư liệu sản xuất mà
trước hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất
định.
Trong lực lượng sản xuất gồm ba yếu tố cơ bản: con người – người lao
động với thể lực, học vấn, kinh nghiệm, kỹ năng, trình độ lao động; tư liệu
lao động (gồm công cụ lao động và đối tượng lao động). Các yếu tố trong
lực lượng sản xuất khơng thể tách rời nhau, chúng có quan hệ hữu cơ với

nhau trong đó yếu tố con người – người lao động giữ vị trí hàng đầu, tư liệu
sản xuất đóng vai trị rất quan trọng.
Ngày nay khoa học – kỹ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp của xã hội. Điều này thể hiện ở chỗ, khoa học đã thẩm thấu vào tất cả
quy trình lao động, đóng vai trị quan trọng trong tổ chức, quản lý sản xuất,
trong chế tạo, cải tiến công cụ lao động, …
2. Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản giữa người với người trong
quá trình sản xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) thể hiện ở quan
hệ về mặt sở hữu đối với tư liệu sản xuất, ở quan hệ trong tổ chức quản lý
sản xuất và quan hệ về mặt phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Như vậy, quan hệ sản xuất gồm ba quan hệ:
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất.

16


Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, nó được hình thành trong q
trình phát triển lịch sử khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người. Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ
xã hội khác của con người.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
3.1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự hình thành và
Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của cơng cụ lao động,
ở trình độ kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động, trình độ ứng dụng
khoa học, kỹ thuật vào sản xuất,… ứng với trình độ của lực lượng sản xuất
là tính chất của nó. Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ
sản xuất. Điều này thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát
triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển
của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Từ sự biến đổi
của lực lượng sản xuất này mà quan hệ sản xuất phải biến đổi theo cho
phù hợp.

17


3. Lý luận về địa tô của C.Mác? Khái niệm và
bản chất của địa tơ? Các hình thức địa tơ tư bản?
Vận dụng lý luận địa tô trong việc quản lý đất đai ở
Việt Nam hiện nay?
Công tác quản lý sử dụng đất đai ngày càng được quan tâm chú trọng của
Đảng, nhà nước và các đối tượng sử dụng, đối tượng có nhu cầu sử
dụngđất đai. Việc quản lý và sử dụng đất đai đã có nhiều chuyển biến và
thay đổi theo hướng tích cực, từng bước phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế – xã hội thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Bên cạnh
đó chính sách quản lý và sử dụng đất vẫn còn một số tồn tại cần được giải
quyết. Mới chỉ nghe về đất thì ta tưởng chừng như đây là vấn đề của nơng
nghiệp nhưng thực tế hồn tồn khác đây là một trong những vấn đề quan
trọng trong dự án phát triển kinh tế sau này, thuê đất ở đâu để kinh doanh,
tiền thuê đất như thế nào, hay khi kinh doanh nơng nghiệp thì tiền th đất
là bao nhiêu, nghĩa vụ như thế nào? Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta phải
phân tích những lí luận về địa tơ của Mác, từ đó tìm hiểu xem nhà nước ta
đã vận dụng ra sao và đề ra những quy định, hạn mức gì? Chính vì vậy mà
em chọn đề tài: “Vận dụng lý luận địa tô của C.Mác trong việc quản lý đất
đai ở Việt Nam hiện nay”.

1. Lý luận về địa tô của C.Mác

1.1. Khái niệm và bản chất của địa tô
– Trong chủ nghĩa tư bản, người thực sự canh tác ruộng đất không phải là
chủ tư bản mà là những người lao động làm thuê. Nhà tư bản thuê đất của
địa chủ để kinh doanh, coi nông nghiệp là một lĩnh vực đầu tư kinh doanh.
Số tiền mà nhà tư bản trả cho người sở hữu ruộng đất theo hợp đồng để
được sử dụng đất trong một thời gian nhất định là địa tô tư bản chủ nghĩa.

18


– Địa tô tư bản chủ nghĩa thể hiện mối quan hệ giữa người công nhân làm
thuê, nhà tư bản chủ nghĩa và địa chủ. Khoản địa tơ có được do nhà tư bản
bóc lột người cơng nhân làm th để thuê lợi nhuận bình quân. Do vậy
muốn kéo dài thời gian sử dụng đất để thu lợi nhuân nhiều hơn. Tuy nhiên
chủ đất ln tìm cách khống chế nhà tư bản bằng cách tăng khoản địa tô
hoặc rút ngắn thời gian sử dụng đất.
=> Tóm lại, địa tơ tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau
khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh
ruộng đất
1.2. Các hình thức địa tơ tư bản
a. Địa tơ chênh lệch
Địa tô chênh lệch là phần địa tô thu được ở trên những ruộng đất có lợi thế
về điều kiện sản xuất (độ màu mỡ của đất đai tốt hơn, vị trí gần thị trường,
gần đường hơn, hoặc ruộng đất để đầu tư để thâm canh)
Địa tô chênh lệch = Giá cả sản xuất chung – Giá cả sản xuất cá biệt
Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch. Nguồn gốc của nó
là một phần giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp làm thuê tạo ra. Địa
tô chênh lệch gắn với chế độ độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối tư
bản chủ nghĩa.
Địa tô chênh lệch có hai loại địa tơ:

+ Địa tơ chênh lệch (I): là địa tô chênh lệch thu được trên những ruộng đất
có độ màu mỡ tự nhiên thuộc loại trung bình và tốt, có vị trí gần thị trường
hoặc gần đường giao thông.

19


+ Địa tô chênh lệch (II): là địa tô chênh lệch thu được do thâm canh mà có.
Thâm canh là việc đầu tư them tư bản vào một đơn vị diện tích ruộng đất
để nâng cao chất lượng canh tác của đất, nhằm tăng độ màu mỡ trên thửa
ruộng đó, nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích.
b. Địa tô tuyệt đối là
Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp đều phải nộp cho địa chủ, cho dù ruộng đất là tốt hay xấu. Đây là
loại địa tô thu trên mọi thứ đất. Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dơi
ra ngồi lợi nhuận bình qn, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư
bản trong nông nghiệp luôn thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong
cơng nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nơng phẩm và giá cả sản xuất
chung
Ngồi những loại địa tơ trên thì cịn có các loại địa tô khác như: địa tô về
cây đặc sản, địa tô về hầm mỏ, địa tô về các bãi cá, địa tô về đất rừng,
thiên nhiên,…

2. Vận dụng lý luận địa tô trong việc quản lý đất đai
ở Việt Nam hiện nay
Ngày nay, khi đất nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những
lý luận địa tơ đó được đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo
trong thực tiễn để xây dựng đất nước giàu mạnh trong thực tiễn để đất
nước trở nên giàu mạnh. Lý luận này đã trở thành cơ sở khoa học để xây
dựng các chính sách thuế đối với nơng nghiệp và các ngành khác có liên

quan nhằm kích thích phát triển nơng nghiệp và các ngành trong nền kinh
tế.
2.1. Vận dụng trong luật đất đai

20


Đất đai là một tài nguyên quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân
cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hố – xã hội, an ninh – quốc phịng.
Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống
nhất quản lý. Nhà nước giao đất, rừng cho các tổ chức kinh tế hay đơn vị
vũ trang để sử dụng. Để bổ sung cho nguồn ngân sách và thơng qua ngân
sách thực hiện một số chính sách phát triển nơng nghiệp, những người
th đất phải đóng thuế cho nhà nước. Thuế này khác xa với địa tơ tư bản
chủ nghĩa và địa tơ phong kiến vì nó tập trung vào ngân sách đem lại lợi ích
cho tồn dân, nó khơng mang bản chất bóc lột của địa tô phong kiến và địa
tô tư bản chủ nghĩa.
Ở mỗi chế độ, đất đai lại thuộc về thuộc về mỗi giai cấp khác nhau như: sở
hữu của thực dân Pháp, của địa chủ và quan lại quý tộc phong kiến,… Và
cuối cùng Mác cũng đã kết luận: “mỗi bước tiến của nông nghiệp tư bản
chủ nghĩa là một bước tiến khơng những trong nghệ thuật bóc lột người lao
động mà còn là bước tiến về mặt làm cho đất đai bị kiệt quệ mà sự bóc lột
đó được thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó có địa tơ.
Nhà nước đã ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng quyền và
nghĩa vụ của người dân theo những điều khoản như: điều 1, điều 4, điều 5,
điều 12, điều 22, điều 79 luật đất đai. Ngoài ra, trong pháp luật về đất đai
của nhà nước ta hiện nay cũng ban hành những quy định để người dân
phải trả tiền thuê đất (một hình thức của địa tô) khi sử dụng đất một cách tự
nguyện. Hiện nay, đất được cấp cho dân, dân có quyền sử dụng đất vào

mục đích của mình. Nếu đối với đất ở thì người dân chỉ phải nộp một khoản
tiền thuê đất rất nhỏ so với thu nhập của họ. Còn đối với đất để làm nơng
nghiệp thì người dân phải nộp thuế nhưng họ có thể tự do kinh doanh trên
đất của mình sao cho thu được lợi nhuận cao nhất. Chẳng hạn như có
vùng trồng lúa, có vùng lại trồng đay và có vùng lại trồng cà phê, điều,
bơng,….

21


2.2. Vận dụng trong thuế đất nông nghiệp
Thuế nông nghiệp ở đây khơng phải thể hiện sự bóc lột đối với nơng dân
mà đó là quyền và nghĩa vụ của mỗi cơng.
Để khuyến khích sử dụng đất nơng nghiệp có hiệu quả;
thực hiện cơng bằng, hợp lý sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất
nông nghiệp vào ngân sách Nhà nước; căn cứ vào điều 84 của Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Luật này quy
định thuế sử dụng đất nông nghiệp, cụ thể ở các điều 1 đến điều 10, điều
19, điều 21, điều 22, điều 23,…
Việc miễn giảm thuế cho những người dân có hồn cảnh đặc biệt là một
việc khác xa so với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự sáng
tạo của đảng ta trong việc vận dụng lý luận về địa tô khi đề ra chính sách
thuế nơng nghiệp, động viên thúc đẩy người dân sản xuất. Hiện nay, tổng
cục thuế đã ban hành quy trình miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp
số 137 TCT/ QD/ NV7 ngày 21/8/2001 cho các đối tượng chính sách xã hội
như: hộ gia đình có cơng với cách mạng, hộ gia đình liệt sĩ, thương binh,
bệnh binh, hộ gia đình có nhiều khó khăn,…(báo pháp luật số 159 ra ngày
29/8/2001)
Sự khác biệt lớn nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với
giai đoạn tư bản chủ nghĩa là đất đai là của dân. Nhà nước trực tiếp quản

lý và điều hành, nhà nước giao đất cho dân làm nông nghiệp, thu thuế
nhưng tạo mọi điều kiện cho người dân sản xuất. Mặt khác nhà nước còn
đưa ra một số quy định cho thấy thuế trong nông nghiệp bây giờ giảm đi rất
nhiều mà chủ yếu là tăng thuế trong việc thuê đất để hoạt động phi nông
nghiệp
+ Nếu chuyển quyền sử dụng đất đai mà được phép chuyển mục đích từ
đất nơng nghiệp sang phi nơng nghiệp thì thuế từ 20% – 40%, nếu đất

22


nơng nghiệp chuyển sang xây dựng các cơng trình cơng nghiệp từ 40%
sang 60%
+ Đối với các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng đất vào mục
đích nơng nghiệp thì khơng phải trả tiền sử dụng đất cho nơng nghiệp, nếu
sử dụng vào mục đích khác thì phải trả tiền, thậm chí phải chuyển sang
hình thức thuê đất nếu là tổ chức sử dụng đất ở trong nước.
2.3. Vận dụng trong việc cho thuê đất
Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một cơng ty thì họ
phải th đất của nhà nước, họ phải trả cho nhà nước số tiền tương đương
với diện tích cũng như vị trí của nơi được thuê. Nhà nước đã quy định rất
rõ việc thuê đất để kinh doanh, trên cơ sở ấy, ta thấy rõ sự khác biệt và sự
vận dụng lý luận địa tô của Mác trong thời đại ngày nay. Đó chính là việc
nhà nước sử dụng những văn bản pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của
người thuê đất để người dân khi nộp tiền thuê đất đều tự nguyện đóng góp.
Trong việc th đất để kinh doanh thì người đã thuê đất của nhà nước sẽ
phát triển kinh doanh trên mảnh đất đó rồi lấy lợi nhuận mà mình làm ra để
trả cho nhà nước và số tiền đó sẽ vào ngân sách nhà nước. Hiện nay
khơng chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà
nước cịn cho nước ngồi th đất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước

ngoài ở Việt Nam và tăng nguồn thu cho ngân sách.
=> Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về luật đất đai, thuế nơng nghiệp cũng
như trong một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tơ
vẫn cịn tồn tại nhưng về bản chất thì hồn tồn khác so với địa tô phong
kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên trong việc sử dụng lý luận địa tô
của C.Mác trong việc quản lý đất đai vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Chẳng
hạn như nhà nước thu đất của nơng dân với giá rất rẻ sau đó quy hoạch
xây dựng nhà ở và cho thuê với giá rất cao. Đây là vấn đề cần được kiến
nghị lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền bù thoả đáng cho dân. Nếu

23


như trong xã hội phong kiến và tư bản chủ nghĩa, người sử dụng đất phải
nộp tô cho địa chủ thì ngày nay tơ hay cịn nói các khác là thuế đất, thuế
nhà, tiền thuê đất đều được nộp vào ngân sách nhà nước. Nguồn ngân
sách đó lại được dung vào những công việc nhằm xây dựng đấy nước.
Địa tô gắn liền với sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Địa
tô đã từng tồn tại trong các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa và cả trong thời kì đầu của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, lý luận địa tô
tư bản chất Mác không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng các chính
sách thuế đối với nơng nghiệp và các ngành khác có liên quan đến đất đai
có hiệu quả hơn. Như vậy ta một lần nữa ta khẳng định rằng lý luận về địa
tô của C.Mác đã được đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo
và hợp lý. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế
và nhà nước đang dần cải thiện để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh

4. Phương pháp, phương pháp luận và vai trò của
phương pháp luận Triết học Mác Lênin


24


Ngoài chức năng thế giới quan, phương pháp luận là một trong hai chức năng cơ
bản nhất của triết học, nó định hướng cho con người xác định, lựa chọn, sử dụng
phương pháp trong nhận thức và hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả. Tuy
nhiên, hiện nay, do chưa nghiên cứu sâu, có nhiều người vẫn hiểu chưa đúng và
chưa phân biệt giữa phương pháp luận với phương pháp luận triết học; ngồi ra,
họ cịn đồng nhất phương pháp với phương pháp luận, phương pháp luận với
phương pháp hệ, phương pháp luận với phương pháp luận triết học. Việc nhầm
lẫn này sẽ đánh giá khơng đúng vị trí, vai trò của triết học trong cuộc sống cũng
như hạ thấp chức năng của triết học.
Hiểu đúng về phương pháp luận nói chung và phương pháp luận triết học nói
riêng sẽ có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là đối với hoạt động dạy và học lý luận.
Trong giảng dạy lý luận, đặc biệt là triết học, giảng viên sẽ phải chú trọng nhiều
hơn đến phần ý nghĩa phương pháp luận; trong quá trình học tập, học viên sẽ
hiểu sâu phần này hơn; trong hoạt động thực tiễn, con người sẽ biết vận dụng
sáng tạo, triệt để hơn lý luận vào thực tế. Tất cả những điều này sẽ giúp con
người hiệu quả hơn trong hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội.
Với tầm quan trọng như trên, con người phải được trang bị lý luận về phương
pháp luận, đặc biệt là phương pháp luận triết học. Để hiểu đúng về phương pháp
luận, chúng ta phải hiểu về khái niệm phương pháp, phương pháp luận, phương
pháp hệ; các cấp độ của phương pháp và phương pháp luận; vai trò của phương
pháp luận triết học.
1. Phương pháp, phương pháp hệ, phương pháp luận
a. Phương pháp (methos): Có các cách hiểu về phương pháp như sau:
- Phương pháp là cách thức nghiên cứu, nhìn nhận các hiện tượng của tự
nhiên và đời sống xã hội, ví dụ: phương pháp biện chứng, phương pháp so
sánh thực nghiệm.

- Phương pháp là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động
nào đó, ví dụ: phương pháp học tập, làm việc có phương pháp.
25


×