Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Quan điểm về đảm bảo chất lượng của bên thứ ba đối với các báo cáo bền vững của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.63 KB, 10 trang )

QUAN ĐIỂM VỀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG CỦA BÊN THỨ BA
ĐỐI VỚI CÁC BÁO CÁO BỀN VỮNG CỦA DOANH NGHIỆP
ThS. Nguyễn Anh Thư, TS. Nguyễn Hồng Nga
Trường Đại học Thương mại
Tóm tắt: Nghiên cứu này khám phá sự phát triển của báo cáo bền vững ở Việt Nam và các
động lực đằng sau quyết định của công ty về việc giới thiệu hoặc không giới thiệu sự đảm
bảo của bên thứ ba đối với các báo cáo tự nguyện. Kết quả dựa trên các cuộc phỏng vấn với
24 công ty về mơi trường / tính bền vững / báo cáo hàng năm cũng như phỏng vấn với các
nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo. Từ năm 2015 đến năm 2018, số lượng các báo cáo tự nguyện
của công ty đã tăng lên và đến năm 2019, khoảng một phần ba các báo cáo phải chịu sự bảo
đảm của bên thứ ba. Nhìn chung, các cơng ty được đảm bảo có được lợi ích từ sự đảm bảo
của bên thứ ba, từ đó phát triển hệ thống báo cáo nội bộ hiệu quả và tăng độ tin cậy cho dữ
liệu công bố. Động lực của sự đảm bảo dựa trên phương pháp tiếp cận chủ động từ các công
ty hàng đầu, nhận thức về mặt lợi ích của cơng ty và áp lực gia tăng từ các bên liên quan.
Nghiên cứu này tập trung vào việc thiết lập các liên kết để tăng cường sự đảm bảo của bên
thứ ba và tăng độ tin cậy cho các báo cáo về tính bền vững của doanh nghiệp.
Từ khoá: Báo cáo bền vững, sự đảm bảo bên thứ ba, kiểm toán, tiêu chuẩn GRI
THIRD-PARTY QUALITY ASSURANCE PERSPECTIVE FOR CORPORATE
SUBTAINABILITY REPORTS
Abstract: This study explores the evolution of sustainability reporting in Vietnam and the
motivations behind the company's decision to introduce or not to introduce third-party
assurance for voluntary reports. Results are based on interviews with 24 companies on
environment/sustainability/annual reports as well as interviews with assurance service
providers. Between 2015 and 2018, the number of corporate voluntary reports increased,
and by 2019, about a third of reports were subject to third-party assurance. In general,
assured companies benefit from third-party assurance, thereby developing effective
internal reporting systems and increasing the reliability of published data. The assurance
dynamics are based on proactive approaches from leading companies, awareness of
corporate interests and increased pressure from stakeholders. This research focuses on
establishing links to enhance third-party assurance and increase the credibility of
corporate sustainability reports.


Keywords: Sustainability reporting, third-party assurance, auditing, GRI certification.

Giới thiệu
Việc công bố dữ liệu về hiệu quả hoạt động bền vững và môi trường đáng tin cậy
có thể được coi là yếu tố trung tâm trong trách nhiệm giải trình và quản trị của doanh
nghiệp. Bằng cách kiểm tra dữ liệu và các tuyên bố từ một đơn vị độc lập, sự đảm bảo của
569


bên thứ ba nhằm tăng thêm độ tin cậy cho báo cáo tự nguyện của công ty. Vào năm 2012,
13% trong số 250 công ty hàng đầu của Global Fortune 500 đã công bố các báo cáo về môi
trường / bền vững được đảm bảo của bên thứ ba. Trong số 100 công ty hàng đầu từ 19
quốc gia, chỉ có 6% cơng bố báo cáo bền vững / mơi trường được đảm bảo của bên thứ ba.
Theo cuộc khảo sát năm 2015 về 100 cơng ty có doanh thu cao nhất thế giới đã đưa trách
nhiệm giải trình vào báo cáo thường niên, có hơn 16 cơng ty đã cung cấp báo cáo bền vững
với sự đảm bảo từ bên ngồi.
Dưới góc nhìn của kiểm tốn viên độc lập - cịn được gọi là nhà cung cấp đảm bảo
ln có hiểu biết sâu sắc về khách hàng và mơi trường bên trong, bên ngồi DN, có các
biện pháp kiểm soát và chiến lược kinh doanh của họ. Bên cạnh đó, kiểm tốn viên phải có
được kiến thức về thơng tin bền vững liên quan từ các báo cáo bền vững hiện có hoặc
thơng qua trao đổi với nhóm kiểm tra đảm bảo tính bền vững. Dal Maso và cộng sự (2019)
cho thấy rằng các kiểm tốn viên ln đảm bảo tính hiệu quả về chi phí kiểm tốn, tức
khơng tính phí kiểm tốn cao hơn khi cung cấp kiểm tốn tài chính và đảm bảo tính bền
vững cho cùng một khách hàng. Hơn nữa, các công ty tham gia vào thực hành báo cáo bền
vững có nhiều khả năng nhận được phản hồi tích cực hơn từ các bên liên quan, phát triển
kỹ năng giải quyết các nhu cầu của xã hội và giảm bớt mối quan tâm về việc sử dụng thơng
tin cơ hội, do đó làm giảm rủi ro trong kinh doanh (LópezPuertas-Lamy và cộng sự, 2017).
Khi rủi ro kinh doanh thấp, mối quan tâm về thực hành quản lý thu nhập thấp, dẫn đến nỗ
lực kiểm tốn ít hơn và phí kiểm tốn thấp hơn. Do đó, các cơng ty thực hiện cơng bố báo
cáo bền vững chất lượng cao có khả năng thể hiện cam kết tổng thể về chất lượng và giảm

bớt lo ngại của kiểm toán viên về chủ nghĩa cơ hội của nhà quản lý. Bài báo chủ yếu tập
trung vào các câu hỏi nghiên cứu sau: Các xu hướng trong báo cáo môi trường / bền vững
và đảm bảo của bên thứ ba là gì? Động cơ chính để các cơng ty giới thiệu, hoặc không giới
thiệu, sự đảm bảo của bên thứ ba đối với các báo cáo môi trường / bền vững là gì? Các quy
trình đảm bảo của bên thứ ba được tổ chức như thế nào?
1. Cơ sở lý thuyết
1.1 Cam kết đảm bảo đối với báo cáo bền vững
Báo cáo bền vững được định nghĩa là “đo lường, cơng bố, giải trình và cam kết trách
nhiệm trước các bên liên quan bên trong và bên ngoài về kết quả hoạt động của tổ chức
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững” (GRI, 2016). Tuy nhiên, để đáng tin cậy và hữu ích
cho các bên liên quan, thông tin được công bố phải đáng tin cậy, được trình bày thích hợp và
tn theo các quy tắc đã xác định rõ ràng. Để đạt được mục tiêu này, GRI đề xuất tuân theo
hai bộ nguyên tắc: một bộ xác định nội dung của các báo cáo và bộ kia liên quan đến chất
lượng của chúng (GRI, 2016). Các quan điểm đạo đức của báo cáo bền vững cho thấy những
người chịu trách nhiệm sẽ thể hiện hành vi đạo đức của họ thông qua các hoạt động bền
vững (Amran và cộng sự, 2014; Yip và cộng sự, 2011). Báo cáo bền vững tạo ra sự minh
bạch của thông tin và có xu hướng giảm các hành vi cơ hội (Martínez-Ferrero và cộng sự,
2015). Các cơng ty định hướng trách nhiệm xã hội (CSR) về cơ bản cam kết nhiều hơn trong
việc tạo ra giá trị cho cổ đông và duy trì sự minh bạch tài chính, do đó ít có khả năng tham
gia vào các hoạt động quản lý thu nhập (Chih và cộng sự, 2008). Các công ty theo định

570


hướng CSR dành nỗ lực hạn chế việc quản lý thu nhập, do đó cung cấp cho các nhà đầu tư
thơng tin tài chính đáng tin cậy hơn (Bozzolan và cộng sự, 2015; Muttakin và cộng sự,
2015). Các nhà quản lý đang đối mặt với thách thức phải nâng cao uy tín và tăng chất lượng
báo cáo để đáp ứng mối quan tâm ngày càng tăng của các bên liên quan (Cohen và Simnett,
2014). Thông tin đáng tin cậy giúp hạn chế các động cơ thao túng thu nhập và khôi phục
niềm tin giữa các cổ đông và các bên liên quan (Katmon & Al Farooque, 2017).

Ngày nay, xu hướng công bố thông tin để giảm sự bất cân xứng thông tin giữa các
bên liên quan và giúp các nhà quản lý đưa ra quyết định (Frias-Aceituno, và cộng sự, 2014;
Martínez-Ferrero và cộng sự, 2015). Cổ đơng có thể có được các cơ chế kiểm soát để giám
sát hành vi của nhà quản lý thông qua ý kiến độc lập của kiểm tốn viên (Pucheta-Martínez
và cộng sự, 2019). Do đó, các nhà quản lý dành nguồn lực cho việc kiểm tốn để đảm bảo
rằng hệ thống cung cấp thơng tin tài chính và phi tài chính của cơng ty là đáng tin cậy
(Chen và cộng sự, 2016). Do đó, kiểm toán viên thực hiện đánh giá rủi ro giúp DN quản lý
mối quan hệ với các bên liên quan (LópezPuertas-Lamy và cộng sự, 2017).
Vấn đề cam kết hiệu quả hoạt động bền vững và mơi trường đáng tin cậy có thể được
coi là yếu tố trung tâm trong trách nhiệm, trách nhiệm giải trình và quản trị của doanh
nghiệp. Ngày càng có nhiều bên liên quan yêu cầu rằng các báo cáo bền vững thể hiện một
cách thực sự và cơng bằng những gì các cơng ty đã đạt được và những gì họ sẽ đạt được
trong tương lai. Trong nỗ lực giải quyết những thách thức như vậy, Liên đồn Kế tốn Quốc
tế (IFAC) coi sự đảm bảo của bên thứ ba để kiểm tra dữ liệu và các tuyên bố từ một đơn vị
độc lập, sự đảm bảo của bên thứ ba nhằm tăng thêm độ tin cậy cho báo cáo tự nguyện giống
như cách kiểm toán tài chính tăng thêm độ tin cậy cho báo cáo tài chính của cơng ty.
Bảng 1: So sánh các yếu tố của báo cáo bền vững và báo cáo tài chính
Nội dung

Báo cáo bền vững

Báo cáo tài chính

Mục tiêu Các cổ đơng. Nhà phân tích
cung cấp (thị trường). Cổ đơng tiềm năng
thơng tin

Chính quyền, cổ đơng, nhà đầu tư,
hàng xóm, sinh viên, công chúng,
khách hàng, nhà cung cấp, nhân

viên,…

Nguyên tắc Các tổ chức báo cáo có nghĩa vụ
cung cấp tuân theo các ngun tắc kế tốn
thơng tin
được chấp nhận chung / các chuẩn
mực kế toán quốc tế đang phát
triển

Các tổ chức báo cáo được tự do lựa
chọn một trong các nguyên tắc đã
thiết lập hoặc thiết lập các nguyên
tắc báo cáo / kế toán của riêng họ

Ranh giới Quyền sở hữu hợp pháp và kiểm
kế toán
soát trực tiếp Chỉ tiêu Định lượng.
Một số chỉ số hiệu suất chính được
chấp nhận chung được áp dụng.

Xác nhận bởi các tổ chức báo cáo.
Nhiều chỉ tiêu định lượng và định
tính khác nhau được sử dụng. Các
chỉ số hiệu suất chính được chấp
nhận chung khơng được áp dụng.
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

1.2 Các bước đảm bảo của bên thứ ba

571



Đối với nhiều tổ chức, việc giới thiệu một hệ thống báo cáo nội bộ để thu thập và
phân tích dữ liệu về mơi trường và tính bền vững là một nhiệm vụ khó khăn. Theo đó, các
bước thực hiện diễn ra như sau: Bước 1, hệ thống báo cáo nội bộ cung cấp thông tin thực
hiện nhằm đảm bảo các vấn đề về mơi trường và tính bền vững của mình. Bước 2, tiến tới
việc phát hành một báo cáo bền vững bằng cách bổ sung các khía cạnh khác như hiệu quả
kinh tế và xã hội, bước này cần có thêm chi phí và nguồn lực. Bước 3, tìm kiếm sự đảm
bảo của bên thứ ba đối với báo cáo. Bước 4, với sự tham gia tích cực của các bên liên quan
trong quá trình đảm bảo với mục đích tăng giá trị của sự đảm bảo. Các câu hỏi điển hình
trước khi thực hiện Bước 4 là “liệu sự đảm bảo của bên thứ ba có dẫn đến tăng độ tin cậy
không?”, “Sự tin cậy tăng lên có chứng minh cho tất cả các nguồn lực cần thiết để quản lý
quy trình đảm bảo khơng?” Do đó, bài báo này nhằm mục đích điều tra các động cơ thúc
đẩy các công ty giới thiệu hoặc không giới thiệu, sự đảm bảo của bên thứ ba đối với các
báo cáo môi trường / bền vững.
1.3 Các bước điển hình của quy trình đảm bảo
Quy trình đảm bảo thường có thể được tổ chức thơng qua các bước: Nhà cung cấp
đảm bảo và tổ chức báo cáo thống nhất về phạm vi đảm bảo, tiêu chí đánh giá, số về lượt
truy cập trang web và các chi tiết thực tế khác (Bước 1). Trong khi tổ chức báo cáo bắt đầu
quá trình thu thập dữ liệu, nhà cung cấp đảm bảo xây dựng kiến thức về công ty và quy
trình thu thập dữ liệu của nó. Bước này thường bao gồm thăm địa điểm, phỏng vấn và đánh
giá hệ thống thu thập dữ liệu (Bước 2). Bước thứ ba được thực hiện ở cấp độ nhóm sau khi
hồn thành việc thu thập dữ liệu. Nhà cung cấp đảm bảo phân tích dữ liệu và các chỉnh sửa
cần thiết được thực hiện (Bước 3). Khi bản thảo của báo cáo đã sẵn sàng, nhà cung cấp
đảm bảo sẽ kiểm tra xem các kết quả thu được có chính xác hay không. Thông thường, nhà
cung cấp đảm bảo cũng kiểm tra sự trình bày cân đối của báo cáo (Bước 4). Sau khi báo
cáo được xuất bản, nhà cung cấp đảm bảo sắp xếp một cuộc họp với tổ chức báo cáo để
thảo luận về các cải tiến trong tương lai của chương trình báo cáo (Bước 5).
Hình 1: Quy trình m bo ca bờn th ba


(Ngun: Jeehye Park, Torbjoărn Brorson (2005))

572


2. Phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu
Dựa trên các cuộc phỏng vấn với 24 công ty về mơi trường / tính bền vững / báo
cáo hàng năm cũng như phỏng vấn với các nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo. Từ năm 2015
đến năm 2018, số lượng các báo cáo tự nguyện của công ty đã tăng lên và đến năm 2019,
khoảng một phần ba các báo cáo phải chịu sự bảo đảm của bên thứ ba. Kết quả của cuộc
điều tra được sắp xếp thành các phần sau: (1) ngun nhân các cơng ty tìm kiếm sự đảm
bảo của bên thứ ba; (2) phương pháp tiếp cận được các nhà cung cấp đảm bảo sử dụng; (3)
phạm vi đảm bảo; (4) chi phí và lợi ích đảm bảo của bên thứ ba.
2.1. Nguyên nhân các công ty tìm kiếm sự đảm bảo của bên thứ ba
Đến cuối năm 2019, 12 trong số các công ty được điều tra đã có ít nhất một năm
kinh nghiệm với sự đảm bảo của bên thứ ba. Hầu hết các cơng ty trả lời rằng họ tìm kiếm
sự đảm bảo để có được sự tín nhiệm tương đương với những gì họ đã đạt được. Một số
cơng ty được điều tra đã đưa ra sự đảm bảo để cải thiện hệ thống báo cáo nội bộ cũng như
hiệu suất thực tế. Với sự đảm bảo của bên thứ ba đã làm tăng độ tin cậy của báo cáo môi
trường / bền vững và đảm bảo rằng thông tin công bố là đầy đủ. Bên cạnh đó, một số cơng
ty cho rằng không nên sử dụng sự đảm bảo bởi bên thứ ba. Nguyên nhân chính là:
(1) “Phí cho nhà cung cấp đảm bảo quá cao”: Các công ty tương đối nhỏ có xu
hướng sử dụng lập luận này. Hai cơng ty khác ước tính rằng phí đảm bảo sẽ chiếm khoảng
một phần ba ngân sách báo cáo.
(2) “Không cần phải sử dụng sự đảm bảo của bên thứ ba để đảm bảo chất lượng
cho các báo cáo'': Các công ty khơng tìm kiếm sự đảm bảo của bên thứ ba cho rằng một số
biện pháp khác đã được thực hiện để đảm bảo chất lượng và tính đầy đủ của báo cáo như
việc tuân theo hướng dẫn của Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (GRI) hoặc tăng khả năng đáp
ứng của các bên liên quan.
2.2. Các phương pháp tiếp cận chung được các nhà cung cấp đảm bảo sử dụng

Để đánh giá tính đầy đủ của báo cáo, nhà cung cấp đảm bảo đã tiến hành xem xét
dựa trên các tiêu chí báo cáo trong các trường hợp được điều tra. Nếu tổ chức báo cáo
không áp dụng bất kỳ khuôn khổ báo cáo đã thiết lập nào, chẳng hạn như hướng dẫn GRI
(ba trong số các trường hợp), thì các nguyên tắc kế toán và / hoặc báo cáo của tổ chức đó
sẽ được áp dụng. Trong những trường hợp như vậy, nhà cung cấp đảm bảo đã xem xét tính
hợp lệ của các nguyên tắc cụ thể của cơng ty và áp dụng chúng làm tiêu chí đánh giá. Do
đó, bên đảm bảo đã đưa ra một kết luận khá ngắn gọn trong tuyên bố đảm bảo rằng báo cáo
được chuẩn bị theo các tiêu chí báo cáo nhất định. Nhà cung cấp đảm bảo đã tham khảo
nghiên cứu về quan điểm của các bên liên quan và đưa ra kết luận về tính đầy đủ của báo
cáo. Để đánh giá mức độ đầy đủ của báo cáo môi trường / bền vững không phải là một
nhiệm vụ dễ dàng.
2.3 Xác định phạm vi đảm bảo
Một số bước cần được thực hiện để tăng chất lượng và độ tin cậy của báo cáo môi
trường/bền vững. Nếu hệ thống báo cáo kém phát triển thì nhà cung cấp đảm bảo có thể tập
trung nhiều hơn vào những gì cần được đưa vào báo cáo thay vì xem xét tính chính xác của

573


các hoạt động đảm bảo. Phạm vi đảm bảo cũng có thể bị giới hạn trong phần mơi trường
của báo cáo trong một số trường hợp do hệ thống báo cáo quá sớm về các vấn đề xã hội và
kinh tế.
2.4. Chi phí và lợi ích của sự đảm bảo của bên thứ ba
Thơng tin liên quan đến chi phí và lợi ích của sự đảm bảo của bên thứ ba cho thấy
rằng chi phí trực tiếp có thể được xác định chắc chắn, nhưng lợi ích khó có thể đo lường
bằng điều kiện tài chính. Theo thơng tin được cung cấp bởi tám cơng ty, phí chuyển
nhượng chiếm khoảng 4,6% phí kiểm tốn cho các báo cáo tài chính được trình bày trong
báo cáo thường niên. Đối với một công ty, con số này chỉ bằng 0,06% so với phí kiểm tốn
tài chính. Đối với hầu hết các cơng ty, khơng thể ước tính tất cả các chi phí bên ngồi và
bên trong liên quan đến q trình đảm bảo. Khoảng 75% công ty nhận thấy rằng sự đảm

bảo khơng tạo ra bất kỳ lợi ích nào, khoảng 25% công ty đã thực hiện cung cấp tài liệu để
hỗ trợ cho nhà cung cấp đảm bảo và giúp họ thực hiện theo cách của mình thơng qua hệ
thống báo cáo nội bộ.
3. Thảo luận
3.1. Một số yếu tố dẫn đến quyết định giới thiệu sự đảm bảo của bên thứ ba
So điểm chuẩn với các công ty khác: Các cơng ty có xu hướng sử dụng báo cáo tự
nguyện để tìm kiếm một vị trí dẫn đầu. Những phương pháp tiên tiến này sẽ gây áp lực lên
các công ty khác. Một cơng ty hàng đầu có thể khơng nhất thiết phải là một công ty lớn.
Giải thưởng về báo cáo môi trường / bền vững: Giải thưởng về báo cáo mơi trường có
thể là động lực cho sự đảm bảo của bên thứ ba. Điều này có thể đã cản trở một số công ty cải
thiện báo cáo và trong một số trường hợp, cũng để tìm kiếm sự bảo đảm của bên thứ ba.
Phát triển hệ thống báo cáo nội bộ: Kết quả của các công ty VN được điều tra chỉ ra
rằng sự đảm bảo của bên thứ ba được coi là có lợi như một công cụ để phát triển hệ thống
báo cáo nội bộ và để tạo ra các báo cáo môi trường / bền vững nghiêm ngặt hơn. Mặt khác,
các cơng ty có và khơng có sự đảm bảo của bên thứ ba đều có những nỗ lực cao nhất trong
việc xác minh rằng quy trình đảm bảo thực sự dẫn đến tăng độ tin cậy. Mặc dù các thực
hành đảm bảo ở VN đang trở nên có cấu trúc hơn và nhất quán nhưng vẫn có một số vấn
đề cần được giải quyết để tăng độ tin cậy của các báo cáo tự nguyện. Các nhà thiết lập tiêu
chuẩn đảm bảo, cũng như các nhà cung cấp đảm bảo, nên chú ý nhiều hơn đến những gì
các bên liên quan sẽ đánh giá cao nhất, liên quan đến sự đảm bảo của bên thứ ba và cách
quy trình đảm bảo sẽ giải quyết những mối quan tâm đó. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phát triển tự nguyện, cần có nhiều phần thưởng hơn đối với thơng tin mơi
trường và bền vững đáng tin cậy trên thị trường. Ngoài ra, các hành động để thông báo cho
các công ty và các bên liên quan về lợi ích tiềm năng của sự đảm bảo của bên thứ ba là cần
thiết để phát triển hơn nữa trong tương lai.
3.2. Thực tiễn áp dụng Báo cáo bền vững
Tại Việt Nam, nhiều DN, tập đoàn đã tiên phong trong lập báo cáo bền vững ngay
từ khi chưa có quy định pháp lý yêu cầu bắt buộc lập báo cáo bền vững như Tập đồn Bảo
Việt (BVH), Cơng ty cổ phần Sữa Việt Nam (VNM), Công ty cổ phần Dược Hậu Giang
574



(DHG), Tổng công ty cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan dầu khí (PVD), Cơng ty cổ phần
Nơng nghiệp Quốc tế Hồng Anh Gia Lai (HNG), Cơng ty TNHH Nhà máy Bia Việt Nam,
Công ty cổ phần Vicostone, Tổng công ty POSCO E&C…Theo đó, văn bản pháp lý đầu
tiên yêu cầu công bố thông tin về phát triển bền vững của các DN niêm yết là Thông tư số
155/2015/TT-BTC ngày 6/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơng bố thơng tin trên thị
trường chứng khốn. Thơng tư này quy định rõ: Báo cáo tác động đến môi trường và xã
hội của công ty, công ty đại chúng phải báo cáo các nội dung liên quan tới phát triển bền
vững bao gồm: quản lý nguồn nguyên liệu, tiêu thụ năng lượng, tiêu thụ nước, tuân thủ
pháp luật về bảo vệ môi trường, chính sách liên quan đến người lao động, báo cáo liên
quan đến trách nhiệm với cộng đồng địa phương, báo cáo liên quan đến thị trường vốn
xanh. Công ty có thể lập riêng báo cáo bền vững hoặc trình bày tích hợp trong Báo cáo
thường niên. Thơng tư số 155/2015/TT-BTC chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2016, do đó các cơng ty đại chúng phải cơng bố báo cáo bền vững của năm 2015.
Thông qua việc tổng kết tình hình cơng bố báo cáo bền vững năm 2015 của các DN
niêm yết thuộc rổ VN30 của HSX, tác giả cho rằng, các DN dẫn đầu trong việc cung cấp
báo cáo bền vững có chất lượng bao gồm: Tập đồn Bảo Việt, Cơng ty cổ phần FPT, Cơng
ty cổ phần Hồng Anh Gia Lai, Cơng ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), Tập đoàn
Vingroup… Đầu tháng 6/2015 đã có 15/30 DN cơng bố báo cáo bền vững trên website.
Trong đó, có 5 DN đã lập Báo cáo bền vững theo khung hướng dẫn của GRI. Tuy nhiên,
một số DN lập Báo cáo bền vững còn sơ sài. Số DN không lập Báo cáo bền vững hoặc
chưa công bố báo cáo bền vững trên website chiếm một nửa số DN thuộc rổ VN30 (15/30
DN). Trong đó có 1 DN đã có truyển thống lập và cơng bố báo cáo bền vững từ khi chưa
có qui định pháp lý nhưng trên website chưa có báo cáo bền vững năm 2015.
Đặc biệt, Tập đoàn Bảo Việt đã tiên phong trong việc thực hiện bảo đảm báo cáo
bền vững được kiểm toán độc lập bởi Công ty TNHH PricewaterhouseCoopers (PwC)
Việt Nam. Các chỉ tiêu được lựa chọn đảm bảo nằm trong các lĩnh vực trọng yếu Tập
đoàn Bảo Việt ưu tiên thực hiện trong năm 2015 đó là: Đóng góp gián tiếp về kinh tế
(G4-EC6); Trách nhiệm của nhà cung cấp (G4-EN32; G4-LA14); Nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực (G4-LA9); Đầu tư cho hoạt động cộng đồng (G4-SO1) và các kiểm soát
về tiêu thụ năng lượng (G4-EN3). Bên cạnh việc minh bạch hóa thơng tin tài chính, Tập
đồn Bảo Việt đã nỗ lực minh bạch hóa thơng tin phi tài chính nhằm cung cấp cho nhà
đầu tư và các bên liên quan góc nhìn tổng thể, bao qt mang tính chiến lược về tồn bộ
hoạt động của DN phù hợp với thơng lệ quốc tế. Bên cạnh đó, với vai trị là người tiên
phong, đi đầu trong thực hành báo cáo và thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam, Bảo
Việt đã nhiều lần đồng hành và đóng góp tích cực trong các hội thảo, chia sẻ kinh
nghiệm theo các chương trình của Ủy ban Chứng khốn Nhà nước, Sở Giao dịch Chứng
khốn TP. Hồ Chí Minh, Hội đồng DN vì sự phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD).
Bảo Việt cũng là một trong những DN đầu tiên được cấp chứng chỉ của Tổ chức Sáng
kiến GRI về thực hành Báo cáo bền vững. Trong khi đó, Cơng ty cổ phần Sữa Việt Nam
Vinamilk (VNM) đã lập báo cáo bền vững riêng biệt với Báo cáo Thường niên. Báo cáo
bền vững được lập theo Hướng dẫn lập Báo cáo bền vững GRI, Hướng dẫn số 4 về lĩnh
vực sản xuất thực phẩm đồng thời tham khảo Hướng dẫn lập Báo cáo bền vững do Ủy

575


ban Chứng khoán Nhà nước phối hợp với Tổ chức IFC phát hành. Dữ liệu và thơng tin
trình bày trong báo cáo bao gồm tình hình hoạt động và thành tựu đạt được trong năm
2015; định hướng phát triển bền vững trong các năm tới; cam kết của Vinamilk đối với
các bên liên quan, trong đó, cam kết trình bày thơng tin chính xác nhất và đáng tin cậy
nhất đối với các bên liên quan và với công chúng.
4. Kết luận
Trong hoạt động của mình, các DN ln tìm cách khai thác các nguồn lực để đạt
được mục tiêu lợi nhuận, do đó khó tránh khỏi làm tổn hại đến môi trường, cạn kiệt dần tài
nguyên, phá hủy tầng ozone… Thực tế cho thấy, các bên liên quan như nhà quản lý, cổ đông,
nhà đầu tư tiềm năng luôn muốn có thơng tin về nỗ lực của DN trong phát triển bền vững.
Báo cáo bền vững được coi là công cụ để đo lường, ghi nhận và công bố các mục tiêu, trách
nhiệm của DN hướng tới phát triển bền vững. Bởi bên cạnh những thơng tin về tài chính,

thơng tin về hoạt động của DN trên khía cạnh mơi trường, xã hội ngày càng được quan tâm.
Báo cáo bền vững là một công cụ mới, giúp DN tổ chức và cơng bố thơng tin về hoạt động
mang tính bền vững theo cách tương tự như báo cáo tài chính. Báo cáo bền vững có vai trị
quan trọng đối với các bên có liên quan và chính nội bộ DN. Thông qua việc báo cáo công
khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và nỗ lực của mình trong các hoạt động cụ thể nhằm
phát triển bền vững, DN củng cố lịng tin của các bên có liên quan, làm gia tăng uy tín,
thương hiệu của DN. Ngày nay, các bên liên quan ln quan tâm tới các hoạt động mang
tính bền vững mang lại lợi ích như thế nào cho hoạt động kinh doanh cốt lõi của DN. Đối với
nội bộ DN, q trình xác định các khía cạnh phát triển bền vững và lập báo cáo bền vững
giúp DN cân nhắc lợi ích của các bên có liên quan, nhận biết các rủi ro và cơ hội kinh doanh,
từ đó chuẩn bị cho xu thế phát triển mới, phân cấp trách nhiệm và cải tiến hệ thống quản lý
để nâng cao hiệu quả hoạt động. Khung báo cáo bền vững phổ biến nhất trên thế giới được
xây dựng bởi Sáng kiến GRI. Báo cáo bền vững theo Sáng kiến GRI được coi là hữu ích nhất
vì được sử dụng và công nhận một cách rộng rãi. Khung GRI đề cập đến các vấn đề cốt lõi
của phát triển bền vững bao gồm tác động tới kinh tế, xã hội và môi trường với hướng dẫn kỹ
thuật về cách thức đo lường và báo cáo các vấn đề này.
Hiện nay, việc công bố báo cáo bền vững đang trở thành thông lệ quốc tế. Báo cáo
bền vững không chỉ giúp các DN củng cố tăng cường mối hợp tác với các bên liên quan,
với nhà đầu tư và cộng đồng mà còn giúp các DN tăng cường quản lý rủi ro kinh doanh,
nâng cao khả năng thích nghi trong mơi trường thay đổi nhanh chóng và cạnh tranh hiệu
quả hơn. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cho thấy, đã có minh chứng xác thực về mối
tương quan giữa phát triển bền vững và hiệu quả hoạt động và mức lợi nhuận thu được của
DN. Việc thiếu thông tin về phát triển bền vững có thể làm mất cơ hội hợp tác kinh doanh,
thu hút nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư có trách nhiệm với phát triển bền vững. Báo
cáo bền vững là một điều kiện cần để các DN tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Theo các
chuyên gia kinh tế, báo cáo bền vững là một sản phẩm báo cáo phi tài chính hữu ích.
Nhưng phải thừa nhận một thực tế rằng, quá trình lập báo cáo bền vững còn quá mới mẻ,
tương đối lạ lẫm đối với nhiều DN Việt Nam. Để báo cáo bền vững trở thành phổ biến, có
chất lượng trước hết các DN cần nhận thức được vai trò quan trọng của quá trình phát triển
bền vững và báo cáo bền vững. Chỉ khi DN đảm bảo phát triển bền vững về môi trường, xã

576


hội thì mục tiêu lợi nhuận của DN mới ổn định và phát triển. Thực tế tại DN Việt Nam thời
gian qua cũng cho thấy, đa số các DN rất cần có hướng dẫn, tư vấn cụ thể hơn về nội dung
và cách lập báo cáo bền vững. Theo tác giả, hướng dẫn lập báo cáo bền vững cho các DN
Việt Nam nên dựa theo khung báo cáo bền vững của Sáng kiến GRI. Bên cạnh đó, báo cáo
bền vững của các DN có truyền thống quản trị tốt như Vinamilk, Tập đồn Bảo Việt cũng
là các ví dụ minh họa có giá trị cho các DN khác học hỏi. Việc cải thiện quá trình lập báo
cáo bền vững sẽ mang lại lợi ích khơng những cho các bên có liên quan mà cịn cho chính
DN, cho cả nền kinh tế, cộng đồng và mơi trường.
Do đó, để nâng cao đảm bảo chất lượng thông tin trên báo cáo bền vững được cung
cấp bởi bên thứ ba trong giai đoạn hiện nay, cần chú ý một số vấn đề sau: Trước hết, cần
tập trung vào chất lượng dữ liệu, quy trình và kiểm sốt để tạo ra một báo cáo có ý nghĩa
cho các bên liên quan. Đồng thời, lưu ý cập nhật về những quy định mới, xu hướng mới,
bối cảnh bền vững, tính rõ ràng của thơng tin và tính kịp thời của các báo cáo để đảm bảo
trao đổi hiệu quả với các bên liên quan. Bên cạnh đó, có thể cải thiện chất lượng báo cáo
thơng qua việc công bố rõ việc áp dụng các chuẩn mực báo cáo của GRI, cũng như việc
công bố phương pháp quản lý đối với các chủ đề trọng yếu được lựa chọn. Về phạm vi
đảm bảo, nhà cung cấp đảm bảo có thể tập trung nhiều hơn vào những gì cần được đưa vào
báo cáo thay vì xem xét tính chính xác của các hoạt động đảm bảo. Cuối cùng, để đánh giá
tính đầy đủ của báo cáo, nhà cung cấp đảm bảo cần tiến hành xem xét dựa trên các tiêu chí
báo cáo trong các trường hợp được điều tra. Theo đó, bên đảm bảo cần đưa ra một kết luận
khá ngắn gọn trong tuyên bố đảm bảo rằng báo cáo được chuẩn bị theo các tiêu chí báo cáo
nhất định.
Dựa trên khuôn khổ của Sáng kiến Báo cáo Tồn cầu (GRI), báo cáo bền vững đã
được cơng bố trong trách nhiệm giải trình của bên cung cấp đảm bảo. Có thể thấy, các nhà
cung cấp đảm bảo cần thực hiện đúng nguyên tắc kiểm toán, thể hiện tính chun nghiệp
cao trong chun mơn để cung cấp chất lượng thơng tin trên các báo cáo. Do đó, nhằm
nâng cao hiệu quả tính kiểm sốt về chất lượng của thơng tin trình bày trên báo cáo bền

vững tại các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, các nhà cung cấp đảm
bảo cần cần tập trung cho việc quản lý quy trình kiểm sốt, tăng cường hơn nữa tính độc
lập, chun mơn và giám sát của các kiểm toán viên để đưa ra các kiến nghị và cung cấp
đảm bảo cho báo cáo bền vững của DN trong giai đoạn hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amran, A., Lee, S. P., & Devi, S. S. (2014), The influence of governance structure and
strategic corporate social responsibility toward sustainability reporting quality,
Business Strategy and the Environment, 23(4), 217-235.
2. Bozzolan, S., Fabrizi, M., Mallin, C. A., & Michelon, G. (2015), Corporate social
responsibility and earnings quality: International evidence, The International Journal
of Accounting, 50(4), 361-396.
3. Chen, L., Srinidhi, B., Tsang, A., & Yu, W. (2016), Audited financial reporting and
voluntary disclosure of corporate social responsibility (CSR) reports, Journal of
Management Accounting Research, 28(2), 53-76.

577


4. Chih, H. L., Shen, C. H., & Kang, F. C. (2008), Corporate social responsibility,
investor protection, and earnings management: Some international evidence, Journal
of Business Ethics, 79(1-2), 179-198.
5. Cohen, J. R., & Simnett, R. (2014), CSR and assurance services: A research agenda,
Auditing: A Journal of Practice & Theory, 34(1), 59-74.
6. Dal Maso, L., Lobo, G. J., Mazzi, F., & Paugam, L. (2019), Implications of the joint
provision of CSR assurance and financial audit for auditors' assessment of going
concern risk, Contemporary Accounting Research, 1-76.
7. Frias-Aceituno, J. V., Rodríguez-Ariza, L., & Garcia-Sánchez, I. M. (2014),
Explanatory factors of integrated sustainability and financial reporting, Business
Strategy and the Environment, 23(1), 56-72.
8. GRI (Global Reporting Initiative) (2016), The External Assurance of Sustainability

Reporting, Amsterdam: GRI.
9. Jeehye Park, Torbjoărn Brorson (2005), Experiences of and views on third-party
assurance of corporate environmental and sustainability reports, Journal of Cleaner
Production, Vol 13, 1095- 1119.
10. Katmon, N., & Al Farooque, O. (2017), Exploring the impact of internal corporate
governance on the relation between disclosure quality and earnings management in the
UK listed companies, Journal of Business Ethics, 142(2), 345-367.
LópezPuertas-Lamy, M., Desender, K., & Epure, M. (2017), Corporate social
responsibility and the assessment by auditors of the risk of material misstatement,
Journal of Business Finance & Accounting, 44(9-10), 1276-1314.
11. Martínez-Ferrero, J., García-Sánchez, I. M., & Ruiz-Barbadillo, E. (2018), The quality
of sustainability assurance reports: The expertise and experience of assurance
providers as determinants, Business Strategy and the Environment, 27(8), 1181-1196.
12. Muttakin, M. B., Khan, A., & Azim, M. I. (2015), Corporate social responsibility
disclosures and earnings quality: Are they a reflection of managers' opportunistic
behavior?, Managerial Auditing Journal, 30(3), 277-298.
13. Pucheta-Martínez, M. C., Bel-Oms, I., & Rodrigues, L. L. (2019), The engagement of
auditors in the reporting of corporate social responsibility information, Corporate
Social Responsibility and Environmental Management, 26(1), 46-56.
14. Yip, E., Van Staden, C., & Cahan, S. (2011), Corporate social responsibility reporting
and earnings management: The role of political costs, Australasian Accounting,
Business and Finance Journal, 5(3), 17-34

578



×