MÔN: LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ:
NĂNG LỰC CHỦ THỂ CỦA CÁ NHÂN THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ................................................................................................. 3
I. Khái quát chung ..................................................................................... 3
1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 3
2. Cơ sở thực tiễn ....................................................................................... 3
II. Năng lực chủ thể của cá nhân ................................................................ 4
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân ................................................... 4
1.1. Khái niệm và đặc điểm ................................................................... 4
1.2. Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân ............................ 7
1.3. Thời điểm bắt đầu và chấm dứt của năng lực pháp luật dân sự của
cá nhân ................................................................................................... 9
2. Năng lực hành vi dân sự ......................................................................... 9
2.1. Khái niệm và đặc điểm ................................................................... 9
2.2. Quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân ... 11
2.2.1. Người thành niên .................................................................. 11
2.2.2 Người chưa thành niên .......................................................... 11
2.2.3 Mất năng lực hành vi dân sự (NLHVDS) ............................... 13
2.2.4 Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi ............ 15
2.2.5 Hạn chế năng lực hành vi dân sự ........................................... 16
III. Phân biệt năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự: .... 17
IV. Những điểm mới về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân theo Bộ
luật dân sự năm 2015 ................................................................................. 18
V. Mở rộng một số vấn đề liên quan: ....................................................... 20
1. Hạn chế, bất cập: .................................................................................. 20
2. Kiến nghị:............................................................................................. 21
C. KẾT LUẬN ............................................................................................... 23
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ đầy đủ
BLDS
Bộ luật dân sự
NLPLDS
Năng lực pháp luật dân sự
NLHVDS
Năng lực hành vi dân sự
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
A. MỞ ĐẦU
Bộ luật Dân sự là đạo luật rất quan trọng của mỗi quốc gia, có tác động
trong việc điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản của xã hội, mỗi cơng dân, các gia
đình, cơ quan, tổ chức. Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) được ban hành nhằm
tạo cơ chế pháp lý đầy đủ cho việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự
của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân sự, đảm
bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật dân sự.
Cá nhân là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội. Để tham gia vào quan
hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng, cá nhân phải có tư cách chủ thể
để tham gia vào các quan hệ dân sự. Khơng phải mọi cá nhân đều có thể tự mình
tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ,
hoàn thiện và độc lập khi cá nhân có đầy đủ năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể
của cá nhân trong quan hệ pháp luật dân sự được hội tụ bởi hai yếu tố đó là năng
lực pháp luật dân sự (NLPLDS) và năng lực hành vi dân sự (NLHVDS). Trong
đó, năng lực pháp luật dân sự là quyền xử sự của chủ thể do pháp luật ghi nhận
và cho phép thực hiện. Còn năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng tự
có của chủ thể trong việc thực hiện, kiểm soát và làm chủ hành vi. Mọi chủ thể
từ khi sinh ra đều có năng lực chủ thể giống nhau nên cần xem xét yếu tố năng
lực hành vi dân sự của cá nhân được hình thành khi có những điều kiện nhất
định và các mức độ khác nhau tương ứng với khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi của cá nhân đó để xác định tư cách chủ thể khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật dân sự
Do vậy, để làm rõ hơn về năng lực chủ thể của cá nhân và thực trạng áp
dụng các quy định pháp luật về năng lực chủ thể của cá nhân, tơi quyết định tìm
hiểu về “Năng lực chủ thể của cá nhân theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2015”. Việc nghiên cứu đề tài nhận thấy được một số hạn chế, bất cập, qua đó,
kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung BLDS có ý nghĩa quan trọng
trong giai đoạn hiện nay.
B. NỘI DUNG
I.
Khái quát chung
1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Vận dụng nội dung và cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta về một số vấn
đề năng lực chủ thể của cá nhân. Ngoài ra, các nguồn tư liệu khác như Hiến
pháp, Bộ luật dân sự 2015, văn bản quy phạm pháp luật,… đặc biệt là những tài
liệu, cơng trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan cũng được khai thác để đưa
ra được những đánh giá, phân tích có tính khách quan về đề tài.
Đề tài được dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của triết học Mác – Lê nin; đồng thời áp dụng các phương pháp cụ thể như:
phương pháp nghiên cứu, thống kê tài liệu; phương pháp hệ thống; phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể,...kết hợp nghiên cứu lý luận
với tổng kết thực tiễn.
2. Cơ sở thực tiễn
Để đáp ứng các nhu cầu trong đời sống, mỗi cá nhân phải không ngừng
tham gia các mối quan hệ xã hội, trong đó có các giao dịch dân sự. Nhằm đảm
bảo sự ổn định và trật tự trong quá trình thiết lập và thực hiện các giao dịch dân
sự, hướng tới việc thực hiện lợi ích cho các chủ thể tham gia, không phải tất cả
cá nhân nào cũng có quyền tham gia vào các giao dịch dân sự.Để tham gia vào
quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng, cá nhân phải có tư cách
chủ thể để tham gia vào các quan hệ dân sự. Đây là năng lực chủ thể được tạo
thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Trong đó, năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân có từ khi sinh ra và ai cũng có năng lực pháp luật như nhau.
Cịn năng lực hành vi dân sự của cá nhân được hình thành khi có những điều
kiện nhất định và có nhiều mức độ khác nhau tương ứng với khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của cá nhân đó.
II. Năng lực chủ thể của cá nhân
Trong phạm vi các chủ thể của quan hệ pháp luật thì cá nhân được coi là
chủ thể chủ yếu tham gia vào mọi quan hệ pháp luật dân sự và tham gia thường
xuyên,trừ các trường hợp được quy định tại Chương III Bộ luật dân sự năm
2015. Một cá nhân khi muốn tham gia vào cá quan hệ pháp luật dân sự phải thỏa
mãn các điều kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi liên quan đến quan
hệ pháp luật đó.
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
1.1. Khái niệm và đặc điểm
Khái niệm:
“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền
dân sự và có nghĩa vụ dân sự”(khoản 1 Điều 16 Bộ luật dân sự năm 2015)
Năng lực pháp luật dân sự là thành phần không thể thiếu của cá nhân với tư
cách chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, là một mặt của năng lực chủ
thể.Theo đó, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có
quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Khả năng đó chỉ có thể trở thành hiện thực
thơng qua năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Đặc điểm:
Một là, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do Nhà nước quy định cho
cá nhân trong các văn bản quy phạm pháp luật dân sự
Nguồn của pháp luật nói chung, nguồn của luật dân sự nói riêng là các văn
bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất
định theo quy định của pháp luật Việt Nam. Do đó, các văn bản pháp luật được
coi là nguồn của luật dân sự, là nguồn chủ yếu của luật dân sự, Bộ luật dân sự
2015 quy định phạm vi các quyền và nghĩa vụ dân sự của cá nhân, bao gồm các
quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân.
Hai là, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có tính giai cấp sâu sắc,
phụ thuộc vào chế độ chính trị, bản chất Nhà nước
Mặc dù được ghi nhận như là một bộ phận không thể thiếu được của cá
nhân, như là một thực thể trong các quan hệ xã hội, năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân khơng phải do tạo hóa ban cho như những nhà chính trị, triết học tư
sản thường suy diễn và kết luận, mà do nhà nước ghi nhận và quy định cho cơng
dân của nhà nước đó. Bởi vậy, năng lực pháp luật dân sự của công dân mang
bản chất giai cấp.
Ở những hình thái kinh tế – xã hội khác nhau, năng lực pháp luật dân sự
cũng được quy định khác nhau. Trong cùng một hình thái kinh tế – xã hội nhưng
ở những nước khác nhau thì năng lực pháp luật dân sự của cơng dân cũng khác
nhau, thậm chí khái niệm về quyền dân sự cũng khác nhau. Ví dụ:Pháp luật ở
một số quốc gia trên thế giới thừa nhận và cho phép kết hôn đồng giới nhưng
pháp luật Việt Nam lại không công nhận hơn nhân giữa những người cùng giới
tính.
Trong cùng một nước, cùng một hình thái kinh tế – xã hội, vào những thời
điểm lịch sử khác nhau thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân cũng được quy
định khác nhau. Điều này phụ thuộc vào đường lối, chính sách của giai cấp
thống trị trong xã hội đó mà nội dung phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị
tồn tại trong xã hội vào thời điểm lịch sử đó. Ví dụ: Trước năm 1980, Nhà nước
cho phép cá nhân có quyền tư hữu về đất đai; sau năm 1980 và đến Hiến pháp
1992 quy định:đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước làm đại diện chủ sở
hữu, cá nhân có quyền dịch chuyển và sở hữu đất đai
Ba là, năng lực pháp luật của cá nhân là bình đẳng
Khoản 2 Điều 16 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Mọi cá nhân đều có năng
lực pháp luật dân sự như nhau”. Do vậy, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
không bị hạn chế bởi bất cứ lí do nào (độ tuổi, địa vị xã hội, giới tính, tơn giáo,
dân tộc,…). Mọi cá nhân đều có khả năng hưởng quyền như nhau và gánh chịu
nghĩa vụ như nhau.Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không đồng nghĩa với
quyền dân sự chủ quan của cá nhân mà chỉ là tiền đề để cho công dân có các
quyền dân sự cụ thể. Tuy nhiên, chủ thể khơng có khả năng hưởng quyền thì
cũng khơng thể có quyền dân sự cụ thể được. năng lực pháp luật dân sự chỉ là
khả năng hưởng quyền và nghĩa vụ. Những người khơng có năng lực hành vi
dân sự khơng phải thực hiện nghĩa vụ nhưng nghĩa vụ về mặt pháp lí vẫn là của
họ và người khác phải thực hiện các nghĩa vụ thay họ (cha, mẹ, người giám hộ).
Bốn là, năng lực pháp luật của cá nhân không thể bị hạn chế, trừ trường
hợp do pháp luật quy định
Tuy nhiên, Nhà nước không cho phép công dân tự hạn chế năng lực pháp
luật của chính họ và của cá nhân khác. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là
thuộc tính nhân thân của chủ thể và không thể dịch chuyển cho chủ thể khác.
Điều 18 BLDS 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không
bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Như vậy, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của pháp luật. Việc hạn chế năng lực pháp luật dân sự của các nhân chỉ
mang tính tạm thời, được áp dụng đối với một số chủ thể nhất định, trong một số
giai đoạn và ở một số địa bàn cụ thể:
Hạn chế năng lực pháp luật dân sự được áp dụng đối với một số chủ thể
nhất định: Một số chủ thể chịu sự hạn chế về năng lực pháp luật theo quy định
của Nhà nước
Hạn chế năng lực pháp luật dân sự được áp dụng với cá nhân trong một
số giai đoạn nhất định
Hạn chế năng lực pháp luật dân sự được áp dụng đối với cá nhân ở một
số địa bàn cụ thể: Phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội mà
pháp luật hạn chế năng lực pháp luật của cá nhân ở một số địa bàn nhất định
Về bản chất, đây không phải là tước bỏ NLPLDS mà chỉ là tạm đình chỉ
khả năng này – khả năng biến quyền khách quan thành quyền chủ quan của chủ
thể riêng biệt. Việc hạn chế này chỉ đối với một số quyền cụ thể mà không phải
là năng lực pháp luật dân sự nói chung. Việc hạn chế năng lực pháp luật dân sự
không đồng nghĩa với việc tước bỏ một quyền dân sự cụ thể. Chỉ có Nhà nước
mới có quyền hạn chế, tước bỏ những quyền đã trao cho các cá nhân đó.
1.2. Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
Điều 17 Bộ luật dân sự 2015 quy định nội dung năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân một cách vắn tắt, những quyền dân sự cụ thể của cá nhân được ghi
nhận trong tất cả các phần của Bộ luật dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự của cá
nhân gồm:
Thứ nhất, quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn
với tài sản.
Quyền nhân thân không gắn với tài sản của cá nhân được quy định từ
Điều 25 đến Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015. Quyền nhân thân không gắn với
tài sản là nhóm quyền nhân thân chỉ liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể,
khơng có giá trị tài sản và khơng thể chuyển giao cho chủ thể khác, có thể được
hiểu là quyền của mỗi cá nhân có họ tên, quyền khai sinh khi được sinh ra,
quyền khai tử khi chết đi, quyền được sống không ai được phép xâm phạm đến
tính mạng của người khác trừ trường hợp được pháp luật cho phép, quyền được
bảo đảm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,...
Quyền nhân thân gắn với tài sản là nhóm quyền nhân thân là tiền đề phát
sinh các quan hệ tài sản, những chủ thể của quyền nhân thân này khơng những
có quyền khơng gắn với tài sản mà cịn có các quyền liên quan đến tài sản. Đó là
quyền nhân thân trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ như:
Đứng tên tác giả trong các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật,… thì chủ thể
cịn được nhận tiền nhuận bút, tiền thưởng, tiền bí quyết kỹ thuật trong các hợp
đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật sở
hữu trí tuệ.
Thứ hai, quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản
Cá nhân có quyền sỡ hữu đối với tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình
và pháp luật tơn trọng, bảo vệ quyền sở hữu tài sản đối với cá nhân. Pháp luật
quy định tài sản thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng và giá trị,
bao gồm thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh
hoạt, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác. Cá nhân chỉ bị hạn chế
quyền sở hữu đối với các tài sản mà pháp luật quy định không thuộc quyền sở
hữu tư nhân.
Cá nhân có quyền hưởng di sản thừa kế, để lại di sản thừa kế theo di chúc
hoặc theo quy định của pháp luật. Khi hưởng di sản thừa kế, cá nhân có nghĩa vụ
thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại tương ứng với phần di sản mà
mình được hưởng.
Thứ ba, quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan
hệ đó
Cá nhân có quyền tham gia vào các quan hệ dân sự thông qua các giao dịch
dân sự (hành vi pháp lí đơn phương hoặc hợp đồng). Ngoài ra, quyền dân sự,
nghĩa vụ dân sự của cá nhân cịn có thể phát sinh từ các căn cứ khác như: quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại, quyền tham gia hoặc không tham gia vào một quan
hệ nghĩa vụ nhất định, quyền từ chối không thực hiện một nghĩa vụ dân sự trong
những trường hợp pháp luật dân sự cho phép không thực hiện,…
1.3. Thời điểm bắt đầu và chấm dứt của năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân
Khoản 3 Điều 16 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thời điểm bắt đầu và kết
thúc năng lực pháp luật dân sự của cá nhân như sau:“Năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.”
Như vậy, tương ứng với thời điểm sinh ra và thời điểm chết đi của cá nhân
là thời điểm bắt đầu và thời điểm chấm dứt năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi cá nhân đó sinh ra và gắn
liền với người đó cho đến khi chết, khơng thay đổi với bất kỳ lý do gì, nó gắn
liền với sự tồn tại của cá nhân đó và cũng không tự mất đi, trừ trường hợp được
pháp luật quy định.Một trường hợp ngoại lệ được pháp luật quy định là: “Người
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản thừa kế chết” vẫn được hưởng di sản thừa kế của người chết
để lại. Như vậy, thai nhi đã được bảo lưu quyền thừa kế nếu còn sống sau khi
sinh ra.
2. Năng lực hành vi dân sự
2.1. Khái niệm và đặc điểm
Khái niệm
Điều 19 BLDS năm 2015 quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
như sau:“Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Như vậy, cùng với năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự là thuộc
tính của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập của cá nhân trong các quan
hệ dân sự. Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách quan
của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo
ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Do đó, nếu chỉ có mỗi năng
lực pháp luật dân sự thì cá nhân chỉ có khả năng mà khơng có thực hiện thành
hiện thực.
Đặc điểm
Một là, năng lực hành vi dân sự của cá nhân do Nhà nước quy định dựa
trên sự phát triển về độ tuổi cũng như khả năng nhận thức và làm chủ hành vi
của cá nhân. Ở mỗi quốc gia khác nhau pháp luật quy định về năng lực hành vi
dân sự của cá nhân là khác nhau. Ví dụ: Theo quy định của pháp luật Cuba độ
tuổi thành niên là 16 tuổi, còn pháp luật Việt Nam quy định là 18 tuổi. Ngoài ra,
sự phát triển về trí lực cũng được pháp luật chú trọng khi quy định về các mức
độ năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, năng lực hành hành vi dân sự của cá nhân là khơng bình đẳng, các
cá nhân khác nhau có năng lực hành vi dân sự khác nhau. Pháp luật dân sự phân
chia năng lực hành vi dân sự của cá nhân thành các mức độ khác nhau, căn cứ
vào nhiều yếu tố dựa trên sự phát triển tâm sinh lý, khả năng nhận thức và làm
chủ hành vi thể hiện qua độ tuổi. Việc phân chia các mức độ năng lực hành vi
dân sự của cá nhân cho thấy các cá nhân khác nhau sẽ có năng lực hành vi dân
sự khác nhau. Do đó, có thể khẳng định năng lực hành vi dân sự của cá nhân là
khơng bình đẳng.
Thứ ba, năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có khi cá nhân đạt đến một
độ tuổi nhất định và có thể bị mất hoặc bị hạn chế khi cá nhân còn sống. Bất cứ
lúc nào năng lực hành vi dân sự của cá nhân cũng có thể bị tuyên bố mất hoặc bị
tuyên bố hạn chế nếu có đủ căn cứ cho rằng cá nhân khơng thể nhận thức, làm
chủ hành vi của mình hoặc bị hạn chế khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của
mình.
Thứ tư, các mức độ năng lực hành vi dân sự ln có sự biến động và có thể
chuyển hóa cho nhau khi các điều kiện áp dụng cho mỗi mức độ có sự thay đổi.
Độ tuổi của cá nhân cũng như khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá
nhân ln trong tình trạng có sự thay đổi và do đó, các mức độ năng lực hành vi
dân sự cũng thay đổi theo.
2.2. Quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
2.2.1. Người thành niên
Theo Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“1.Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên.
2. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy
định tại các Điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này.”
Như vậy, cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, khơng bị khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Pháp luật chỉ quy
định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi tối đa của những người có năng
lực pháp luật dân sự đầy đủ. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được tự
mình thực hiện các giao dịch dân sự mà pháp luật cho phép chủ thể đó được
phép thực hiện. Những cá nhân này có đầy đủ tư cách chủ thể, toàn quyền tham
gia vào quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về
những hành vi do họ thực hiện.
2.2.2 Người chưa thành niên
Theo Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.
2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo
pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch
dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản,
động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải
được người đại diện theo pháp luật đồng ý.”
- Người chưa đủ sáu tuổi theo BLDS năm 2005 quy định là người khơng có
năng lực hành vi dân sự. Đến BLDS năm 2015 thì khơng cịn quy định về độ
tuổi khơng có năng lực hành vi dân sự nữa vì có thể người dưới sáu tuổi “chưa
có” chứ khơng phải là “khơng có” năng lực hành vi dân sự. Mọi giao dịch của
những người này đều do người đại diện xác lập và thực hiện. Họ chưa có năng
lực hành vi bởi chưa đủ ý chí cũng như lí trí để hiểu được hành vi và hậu quả
của những hành vi đó.
- Người có năng lực hành vi dân sự một phần (chưa đầy đủ) là những người
chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn
nhất định do pháp luật dân sự quy định. Như vậy, cá nhân từ đủ sáu tuổi đến
dưới mười tám tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một phần. Họ có
thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham
gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu hàng ngày phù hợp với
lứa tuổi. Đối với người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến dưới mười tuổi:
+ Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Tuy pháp luật
không quy định những giao dịch nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu thiết yếu
hàng ngày” và “phù hợp với lứa tuổi” nhưng có thể hiểu đó là những giao dịch
có giá trị nhỏ, phục vụ những nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống được
người đại diện của họ cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của
người đại diện (mua dụng cụ học tập, vui chơi giải trí…).Người đại diện của
những cá nhân ở lứa tuổi này có thể yêu cầu tuyên bố những giao dịch dân sự do
cá nhân đó thực hiện có giá trị lớn mà khơng có sự đồng ý của họ là vơ hiệu và
tồ án xem xét trong những trường hợp cụ thể để chấp nhận yêu cầu đó theo quy
định của pháp luật. Nếu những người đại diện khơng u cầu tồ án xem xét tính
hiệu lực của những giao dịch này thì những giao dịch đó mặc nhiên được coi là
có hiệu lực.
+ Những người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có thể tự
mình xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi tài sản riêng mà họ có và
khơng cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp các giao
dịch liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác
theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Việc
pháp luật quy định như vậy xuất phát từ bản thân cá nhân từ đủ mười lăm tuổi
trở lên đã có thể tham gia lao động nên họ có thu nhập. Trong trường hợp pháp
luật có quy định về sự đồng ý của người đại diện thì áp dụng tương tự như
trường hợp vị thành niên nói chung (như di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi
đến dưới mười tám tuổi, việc định đoạt tài sản là nhà ở và đất đai…).
2.2.3 Mất năng lực hành vi dân sự
Căn cứ điều 22 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:
“1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích
liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố
người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định
pháp y tâm thần.
Khi khơng cịn căn cứ tun bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người
đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”
Khái niệm “mất” thông thường được hiểu là đang tồn tại, đang có một hiện
tượng, một sự vật nhưng sau đó khơng cịn, khơng thấy hiện tượng, sự vật đó
nữa. NLHVDS của cá nhân cũng là thuộc tính nhân thân của cá nhân và đầy đủ
khi cá nhân đến tuổi thành niên.Thông thường, năng lực hành vi của cá nhân
chấm dứt cùng với sự chấm dứt của năng lực pháp luật của cá nhân đó (chết
hoặc tồ án tun bố là đã chết). Tuy nhiên, người thành niên có thể bị tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự khi có những điều kiện, với những trình tự, thủ tục
nhất định.
Trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền, tồ án có thể
tun bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan. Mọi giao dịch dân sự của những người này do người
đại diện của họ xác lập, thực hiện.
Trong trường hợp vì những nguyên nhân mà do đó, họ bị tuyên bố là mất
năng lực hành vi nhưng nay khơng cịn tồn tại nữa thì họ hoặc những người có
quyền, lợi ích liên quan có quyền u cầu tồ án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi. Tuy nhiên, giải quyết việc này theo chính u cầu của người
đó sẽ bị vướng mắc về tố tụng. Theo quy định khi họ mất năng lực hành vi dân
sự thì cũng sẽ mất năng lực hành vi tố tụng, họ không thể tự khởi kiện hoặc u
cầu tồ án mà phải thơng qua hành vi của người có năng lực hành vi tố tụng dân
sự, vì vậy, BLTTDS cần giải quyết vướng mắc này.
2.2.4 Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Điều 23 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:
“1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ
khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi
dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần,
Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người
giám hộ.
2. Khi khơng cịn căn cứ tun bố một người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền,
lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy
bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
Cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có các
đặc điểm sau
- Có các yếu tố về thể chất (sự khuyết thiếu về cơ thể như cá nhân bị câm,
mù, điếc hoặc bị tai nạn liệt người,…) hoặc các yếu tố về tinh thần (cú sốc tâm
lí,.) mà khơng đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức
mất năng lực hành vi dân sự vẫn cần có người giám hộ để đảm bảo quyền lợi
cho họ trong cuộc sống, cũng như đảm bảo lợi ích khi tham gia giao dịch dân sự;
- Có yêu cầu của người này, người có quyền và lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan gửi đến tịa án;
- Có kết luận giám định pháp y tâm thần;
- Tòa án ra quyết định tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức và
làm chủ hành vi, chỉ định người giám hộ, xác định quyền và nghĩa vụ của người
giám hộ.
Nếu sau đó khơng cịn các căn cứ nêu trên và có kết luận giám định pháp lí
tâm thần là họ có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi một cách bình
thường thì tịa án sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi.
2.2.5 Hạn chế năng lực hành vi dân sự
Căn cứ vào Điều 24 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:
“1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán
tài sản của gia đình thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này
là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người
bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
3. Khi khơng cịn căn cứ tun bố một người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự thì theo u cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích
liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.”
Năng lực hành vi của người thành niên bị hạn chế khác với năng lực hành
vi một phần của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18. Năng lực hành
vi của người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc nhiên được công nhận là năng
lực hành vi đầy đủ khi đạt độ tuổi nhất định còn việc hạn chế năng lực hành vi
phải thơng qua tồ án theo trình tự tố tụng dân sự và được áp dụng với những
người nghiện ma túy và các chất kích thích dẫn đến hậu quả phá tán tài sản của
gia đình.
Nghiện ma túy và các chất kích thích khác phải là nguyên nhân dẫn đến
phá tán tài sản của gia đình và căn cứ vào tình trạng thực tế và theo u cầu
của những người có quyền, lợi ích liên quan, tổ chức hữu quan, Tồ án có thể ra
quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
và phạm vi đại diện do toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản
của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Khi khơng cịn căn cứ tun bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên
quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, tồ án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên
bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
III. Phân biệt năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự:
Từ quy định của pháp luật trên, ta có thể phân biệt được Năng lực hành vi
dân sự của cá nhân và Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân như sau:
- Nếu như năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là yếu tố mang tính khách
quan, trừu tượng thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân lại là yếu tố mang tính
chủ quan, hiện thực.
- Tất cả chúng ta từ khi sinh ra cho đến khi chết đi đều có năng lực pháp
luật dân sự giống nhaudo pháp luật quy định và sẽ không bị mất đi hoặc hạn chế
ở trong trường hợp nào. Các cá nhân khác nhau có năng lực hành vi dân sự khác
nhau và chỉ có khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định và có thể bị mất hoặc
bị hạn chế khi cá nhân đó cịn sống.
- Nếu như năng lực pháp luật là “khả năng” mà pháp luật cho phép cá nhân
có thể hưởng quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự thì năng lực hành vi dân sự
lại là sự “hiện thực” hoá khả năng này.
IV. Những điểm mới về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân theo Bộ
luật dân sự năm 2015
Qua nghiên cứu Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể thấy: Bộ luật đã có những
sửa đổi, bổ sung liên quan đến quy định Năng lực chủ thể chủ cá nhân như sau:
Thứ nhất, Bộ luật đã tách người thành niên và người chưa thành niên ra
thành hai quy định riêng biệt.
Trong BLDS năm 2005, người thành niên và người chưa thành niên được
quy định chung trong một điều luật (Điều 18). Nhưng đến BLDS năm 2015,
Điều 20 quy định về người thành niên, Điều 21 quy định về người chưa thành
niên. Như vậy, BLDS năm 2015 có sự minh định giữa người thành niên và
người chưa thành niên, trên cơ sở đó phân định rạch rịi hơn về năng lực chủ thể
của hai nhóm đối tượng này.
Thứ hai, Bộ luật đã có những bổ sung quan trọng đối với người thành niên.
Bên cạnh trường hợp hạn chế năng lực hành vi dân sự và mất năng lực
hành vi dân sự của người thành niên như BLDS năm 2005 đã quy định, BLDS
năm 2015 bổ sung thêm trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.
Đối với người thành niên mất NLHVDS, kết luận giám định mất NLHVDS
phải là kết luận giám định pháp y tâm thần. Vấn đề mất năng lực hành vi dân sự
đều được hai Bộ luật quy định tại Khoản 1 Điều 22.BLDS năm 2015 đã mở rộng
chủ thể có quyền u cầu Tịa án ra quyết định tuyên bố một người là người mất
năng lực hành vi dân sự bằng việc bổ sung thêm cụm từ “cơ quan, tổ chức hữu
quan”. Mặt khác, đã thay cụm từ “tổ chức giám định” thành “giám định pháp y
tâm thần”. Quy định về “giám định pháp y tâm thần” rõ hơn nhiều so với quy
định “tổ chức giám định” tại BLDS năm 2005. Đây có thể xem là một bước tiến
về kỹ thuật lập pháp của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005.
Thứ ba, trong Bộ luật, tất cả những người chưa thành niên được quy định
chung trong cùng một điều luật.
Trong BLDS năm 2005, những người chưa thành niên từ chưa đủ sáu tuổi
đến dưới mười tám tuổi được quy định tại ba điều luật: Điều 20 (Năng lực hành
vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi),
Điều 21 (Người khơng có năng lực hành vi dân sự) và một phần của Điều 18
(Người thành niên, người chưa thành niên). BLDS năm 2015 đã gộp quy định
tại ba điều này vào thành Điều 21 và bỏ khái niệm người khơng có năng lực
hành vi dân sự ở Điều 21 BLDS năm 2005. Theo đó, tất cả những người chưa đủ
18 tuổi đều được quy định tại Điều 21 của BLDS năm 2015. Như vậy, về kỹ
thuật lập pháp, BLDS năm 2015 thể hiện lại một cách tinh gọn hơn so với BLDS
năm 2005.
So sánh nội dung ở hai điều luật có thể thấy: Khoản 1 Điều 20 BLDS năm
2005 bao trùm toàn bộ đối tượng là người chưa thành niên từ đủ 6 đến chưa đủ
18 tuổi. Với những người này, khi tham gia giao dịch dân sự phải được người
đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác. Trong khi đó,
Khoản 3 Điều 21 BLDS năm 2015 đã chia nhỏ nhóm đối tượng người chưa
thành niên trong trường hợp này là người từ đủ sáu đến chưa đủ mười lăm tuổi
và quy định cụ thể rằng: họ chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phục vụ
nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Những giao dịch khác phải
được người đại diện theo pháp luật đồng ý.Như vậy, so với BLDS năm 2005,
BLDS năm 2015 đã hạ thấp hơn độ tuổi ở nhóm này nhằm phù hợp với sự phát
triển về thể chất và trí lực của họ.
Ở nhóm tuối từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, BLDS năm 2015 đã bỏ yêu
cầu “có tài sản riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ” đồng thời quy định cụ thể
những loại giao dịch dân sự nhất định với đối tượng tài sản nhất định mà người
từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi phải được người đại diện theo pháp
luật đồng ý. Bằng quy định đó, việc phân định những giao dịch dân sự mà nhóm
đối tượng này có thể tự mình xác lập, thực hiện được dễ dàng hơn, tránh được
những tranh chấp có thể phát sinh về sau.
Với BLDS năm 2015, các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân được thể hiện tinh gọn, hợp lý và dễ hiểu hơn đồng thời việc sửa đổi, bổ
sung những quy định như đã trình bày ở trên nhằm khắc phục được những hạn
chế, thiếu sót của BLDS năm 2005, tạo cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân khi tham gia vào các giao dịch dân sự
V.
Mở rộng một số vấn đề liên quan:
1. Hạn chế, bất cập:
Trong quá trình vận dụng, áp dụng điều luật cũng cịn có một số khó khăn,
vướng mắc về nhận thức, cụ thể:
Theo Khoản 1 Điều 23 quy định về Người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi như sau: “Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh
thần mà khơng đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức
mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở giám định pháp y
tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ
của người giámhộ”…
Như vậy, quy định trong trường hợp nào được hiểu là do tình trạng thể chất
hoặc tinh thần mà khơng đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa
đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì điều luật chưa quy định rõ ràng, dẫn
đến gây nhầm lẫn trong quá trình áp dụng. Theo Khoản 1 Điều 22 quy định rõ
về trường hợp Mất năng lực hành vi dân sự như sau: “Khi một người do bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức
hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành
vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”. Như vậy, để xác định
người mất năng lực hành vi dân sự thì người đó phải là người có dấu hiệu về
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà khơng nhận thức được hành vi của mình, cịn
đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là những người sử dụng ma túy
hoặc các chất kích thích khác dẫn đến khơng kiểm sốt được hành vi của mình.
Nhưng đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì xác
định rất khó vì người đó là người khơng nhận thức và làm chủ hành vi của mình
nhưng lại khơng thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự, quy định không
cụ thể như vậy rất khó có thể phân biệt những trường hợp nào là trường hợp mất
năng lực hành vi dân sự và người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành
vi, căn cứ để xác định đối với cả hai trường hợp trên là dựa vào kết luận giám
định pháp y về tâm thần.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng người đã thành niên ở trong tình trạng thể
chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng
chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự là những người liệt toàn thân nhưng
trí óc vẫn cịn nhận thức được, người khiếm thính, khiếm thị hoặc khơng có khả
năng nói được, tuy nhiên những người thuộc trường hợp trên họ không phải là
người mất NLHVDS, hạn chế NLHVDS và cũng không phải là người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
2. Kiến nghị:
khi tham gia các giao dịch dân sự phải thông qua người giám hộ, người đại
diện theo pháp luật. Còn đối với người khiếm thính, khiếm thị, khơng có khả
năng nói họ vẫn nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, họ thực hiện các
giao dịch dân sự qua ngôn ngữ, ký hiệu, chữ giành riêng cho người khuyết tật.
Điều 20 BLTTDS 2015 có quy định về việc người khuyết tật nghe, nói, nhìn khi
tham gia tố tụng dân sự, những người này vẫn tham gia tố tụng như những
đương sự bình thường thơng qua người có khả năng biết được ngôn ngữ, ký
hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật để dịch lại. Như vậy, người khuyết tật
về nghe, nói, nhìn vẫn có thể trực tiếp tham gia các giao dịch dân sự bình thường
mà khơng cần người giám hộ hay người đại diện theo pháp luật.
Như vậy, cần xác định rõ đối với các trường hợp nêu trên để khi thực hiện
giao dịch dân sự vì đối với người mất năng lực hành vi dân sự thì mọi giao dịch
phải thông qua người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo pháp luật chỉ
tiến hành giao dịch dân sự trong phạm vi được đại diện, họ nhân danh quyền và
lợi ích của người khác và thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện, cịn
đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì thơng qua người
giám hộ, đối với người giám hộ họ đồng thời là người đại diện trong các giao
dịch dân sự trừ một số trường hợp pháp luật có quy định khác.Ngồi ra, họ có
quyền sử dụng tài sản của người được giám hộ để chi dùng cho những nhu cầu
thiết yếu của người được giám hộ.
Nhằm việc áp dụng, thực thi pháp luật được chính xác, đồng thời quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự khi tham gia tố tụng không bị hạn chế, kiến
nghị các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, có quy định cụ thể trong các trường
hợp thế nào là người có tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng
nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự.