A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xã hội, luôn tồn tại mối quan hệ giữa các chủ thể, người ta gọi đó là quan
hệ xã hội, các quan hệ này cần thiết phải có sự điều chỉnh nếu không các quan hệ
sẽ phát triển tự nhiên dẫn đến lệch lạc. Trong các loại quan hệ pháp luật đó phải kể
đến quan hệ pháp luật hành chính, đó là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật, là
kết quả của sự tác động của quy phạm pháp luật hành chính theo phương pháp
“quyền lực – phục tùng” tới các quan hệ quản lý hành chính nhà nước. Với điều
kiện chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính ( các cơ quan, tổ chức, cá
nhân) phải cónăng lực chủ thể phù hợp với quan hệ pháp luật hành chính mà họ
tham gia. Để làm rõ ý trên nhóm chúng em xin trình bày vấn đề: “ Phân tích khái
niệm năng lực chủ thể quan hệ pháp luật hành chính và chỉ rõ sự khác biệt giữa
năng lực chủ thể của cá nhân với năng lực của tổ chức ( hoặc với năng lực chủ thể
của cán bộ, công chức)”.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Phân tích khái niệm năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính
1. Các khái niệm
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính
Như bất kì quan hệ pháp luật nào, chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đó
phải có năng lực chủ thể, đồng thời năng lực chủ thể đó cũng phải đáp ứng được
những điều kiện của quan hệ pháp luật đó. Và chủ thể của quan hệ pháp luật hành
chính cũng không phải một ngoại lệ. Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật
hành chính, mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật.
Như vậy, điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân trở thành chủ thể của
quan hệ pháp luật hành chính phải là các cơ quan, tổ chưc, cá nhân có năng lực chủ
thể phù hợp với quan hệ pháp luật hành chính mà họ tham gia.
1
Năng lực chủ thể hành chính
Xét về mặt thuật ngữ, năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính có
thể được định nghĩa như sau: “ năng lực chủ thể là khả năng pháp lý của cơ quan,
tổ chức hoặc cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ
thể của quan hệ đó”.
2.Phân tích năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính
a. Các cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể cơ bản của luật hành chính
Năng lực chủ thể của cơ quan nhà nước phát sinh khi cơ quan nhà nước đó
được thành lập và chấm dứt khi cơ quan nhà nước đó bị giải tán. Năng lực này
được pháp luật hành chính quy định phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan đó trong quản lý hành chính nhà nước.
Cách đây 65 năm, vào ngày 23-11-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh
64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, là tổ chức tiền thân của ngành Thanh tra
Việt Nam. Ban Thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ: “xét và giải quyết những vụ tham
ô, bắt người trái phép, thu thập ý kiến của nhân dân, thực hiện giám sát các UBND
trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Từ đây hoạt
động thanh tra gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước, là công cụ thiết yếu của
quản lý nhà nước, là phương tiện để kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy chính
quyền, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng của công dân, hoạt
động thanh tra đã góp phần thiết lập, giữ gìn trật tự, kỹ cương trong quản lý nhà
nước và trong xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân với chính quyền cách mạng.
Từ đây, năng lực chủ thể của Ban Thanh Tra được phát sinh, có nghĩa là Ban này
có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, có khả năng tham gia vào quan hệ
pháp luật hành chính về xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức, cá nhân
vi phạm hành chính.
b. Cán bộ, công chức.
2
Để trở thành cán bộ, công chức thì cá nhân phải trải qua những vòng sơ khảo
kĩ lưỡng. Ví dụ: để trở thành cán bộ thì “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị
xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Điều đó chứng tỏ họ cũng phải có năng lực
pháp luật, đặc biệt là năng lực hành vi đầy đủ. Khi trở thành cán bộ, công chức làm
việc trong các cơ quan nhà nước, họ sử dụng quyền lực của nhà nước trong phạm
vi thẩm quyền của mình tác động tới đối tượng quản lý để thực hiện những chức
năng, nhiệm vụ được giao.
Năng lực chủ thể của cán bộ, công chức được pháp luật quy định phù hợp
với năng lực chủ thể của cơ quan và vị trí công tác của cán bộ công chức đó. Họ là
cán bộ, công chức khi họ thực hiện công việc của mình. Còn ngoài chức vụ quyền
hạn của mình thì cán bộ công chức không còn là cán bộ công chức nhà nước sử
dụng quyền lực nữa mà trở thành cá nhân bình thường.
Ví dụ: cảnh sát giao thông khi thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền
của mình, họ có quyền xử phạt hành chính cá nhân vi phạm trật tự an toàn giao
thông. Nhưng trong cuộc sống đời thường, họ có thể bị chủ thể khác xử phạt nếu
như họ vi phạm.
c. Năng lực chủ thể của tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, đơn vị vũ trang, đơn vị
hành chính sự nghiệp
Năng lực chủ thể của tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế , đơn vị vũ trang, đơn vị
hành chính – sự nghiệp… (gọi chung là tổ chức) phát sinh khi nhà nước quy định
quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó trong quản lý hàn chính nhà nước và chấm dứt
3
khi không còn những quy định đó hoặc tổ chức bị giải thể. Như vậy sự tồn tại của
các tổ chức này quyết định năng lực chủ thể của họ, khi các tổ chức này tồn tại thì
nó mới có năng lực chủ thể, khi bị giải thể thì đồng nghĩa với việc mất năng lực
chủ thể. Ví dụ như một trường đại học, là một đơn vị hành chính-sự nghiệp. khi
nhận thấy sự cần thiết phải cho ra đời đơn vi này, nhà nước ra quyết định thành
lập, từ đó năng lực chủ thể của nó phát sinh. Đến khi khôgn cần đến sự tồn tại của
ngôi trường đo thì nhà nước ra quyết định giải thể, từ đó nó mất năng lực chủ thể.
Do không có chức năng quản lý nhà nước nên các tổ chức nêu trên thường
tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính với tư cách chủ thể thường. cá biệt
trong một số trường hợp được nhà nước trao quyền quản lý hành chính nhà nước
đối với một số công việc cụ thể, các tổ chức này có thể tham gia vào quan hệ pháp
luật hành chính với tư cách là chủ thể đặc biệt.
II. .Sự khác biệt giữa năng lực chủ thể của cá nhân với năng lực chủ thể của tổ
chức ( hoặc cán bộ, công chức )
Vì các cá nhân và tổ chức khi tham gia các quan hệ pháp luật hành chính
với tư cách chủ thể khác nhau nên năng lực chủ thể của họ cũng có nhiều điểm
khác nhau. Để hiểu rõ hơn sự khác nhau giữa năng lực chủ thể của cá nhân với
năng lực của tổ chức chúng ta cần xem xét trên bốn khía cạnh sau:
- Thời điểm phát sinh và thời điểm chấm dứt
- Tư cách chủ thể
- Nội dung
- Yếu tố chi phối
Tiêu chí Năng lực chủ thể của cá nhân
Năng lực chủ thể của tổ chức
(hoặc cán bộ, công chức)
4
Thời điểm
phát sinh
- Năng lực chủ thể của cá nhân
có từ khi cá nhân đó sinh ra và
nó thay đổi trong quá trình
sống của cá nhân.Ngoài ra
năng lực này còn phải được sự
công nhân của nhà nước, chỉ
khi nào cá nhân đạt một điều
kiện nhất định thì năng lực đó
mới xuất hiện, đó là khi xuất
hiện năng lực hành vi hành
chính, như vậy năng lực pháp
luật hành chính xuất hiện
không cùng lúc với năng lực
hành vi hành chính.
- Năng lực chủ thể của tổ chức
phát sinh khi Nhà nước quy
định quyền và nghĩa vụ của tổ
chức đó trong quản lí hành
chính Nhà nước.Tổ chức
không cần nói đến năng lực
hành vi vì khi thành lập tổ
chức nhà nước đã thừa nhận
điều kiện và khả năng của nó
và chỉ khi có khả năng đó nó
mới được công nhận, nghĩa là
năng lực hành vi và pháp luật
hành chính của tổ chức phát
sinh cùng lúc.
Thời điểm
chấm dứt
- Thời điểm chấm dứt năng lực
chủ thể của cá nhân trong quan
hệ pháp luật hành chính là khi
cá nhân đó mất đi hoặc khi cá
nhân không còn đủ điều kiện
để có năng lực hành vi nữa, ví
dụ cá nhân đó mất năng lực
hành vi, bị tâm thần...
- Thời điểm chấm dứt năng lực
chủ thể của tổ chức trong quan
hệ pháp luật hành chính là khi
không còn những quy định của
Nhà nước về quyền và nghĩa
vụ của tổ chức đó trong quan
hệ pháp luật hành chính hoặc
khi tổ chức đó bị giải thể.
Tư cách
chủ thể
- Cá nhân luôn tham gia các
quan hệ pháp luật hành chính
với tư cách là chủ thể thường.
- Trong một số trường hợp đặc
biệt, các tổ chức có thể tham
gia các quan hệ pháp luật hành
5