Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế ở nhật bản, mỹ xu hướng và thách thức ở các quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.48 KB, 13 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA THUẾ - HẢI QUAN



HOẠCH ĐỊNH NGÂN SÁCH
ĐỀ TÀI

TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ Ở NHẬT BẢN, MỸ. XU HƯỚNG VÀ
THÁCH THỨC Ở CÁC QUỐC GIA
GVHD:

ĐỖ THỊ MAI HOÀNG HÀ

Hồ Chí Minh, Tháng 5/2022


1. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ NỢ CÔNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
CỦA CÁC HỌC GIẢ:
Nợ công ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng, nguyên nhân và một số giải pháp
1.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Nợ công của Việt Nam chiếm khoảng 65% GDP
Theo báo cáo của Bộ tài chính, nợ cơng của Việt Nam đạt 61% tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) tại thời điểm tháng 9/2016 và con số này tăng lên xấp xỉ 65%
vào thời điểm 2017-2018. Theo các chuyên gia, Chính phủ hàng năm phải chi
trả 14% tổng nợ Chinh phủ vay và nợ Chinh phủ bảo lãnh. Việt Nam đang
loay hoay trong vay vốn để phát triển và vì sử dụng vốn chưa hiệu quả nên trở
thành một trong số các nước có tỷ lê nợ cơng tăng nhanh nhất. Nhưng nếu
khơng tiếp tục vay thì cũng khơng có vốn để phục vụ phát triển và để trả nợ.


Theo dự đoán trong thời gian tới, Việt Nam cần huy động 39,5 tỷ đô la Mỹ để
đầu tư phát triển đến năm 2020
1.1.2. Nợ cơng tăng trưởng một cách nhanh chóng
Tốc độ tăng nợ công tăng của nợ công gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng của GDP.
Năm 2017, vay đảo nợ lên đến 95.000 tỷ đồng. Con số này cho thấy gánh
nặng nợ công đang tăng cao. Cứ 3 tháng 1 lần, Việt Nam trả nợ công gồm cả
gốc và lãi với số tiền khoảng 25 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ khoảng 1 tỷ đơ la Mỹ.
Nếu khơng giải quyết nhanh chóng và hiệu quả sẽ ảnh hưởng đến tài chính
quốc gia, ổn định vĩ mô. Năm 2016, nợ công đến hạn của Việt Nam là
280.000 tỷ đồng, nhưng chỉ trả được 150.000 tỷ đồng và phải vay thêm


130.000

tỷ

đồng,

xấp

xỉ

6

tỷ

đơ

la


Mỹ

để

đảo

nợ.

Theo thơng tin từ Bộ Tài chính, thu nhập trung bình của người lao động Việt
Nam là 2.200 USD/người/năm. Theo quy định, con số trên đã cho thấy Việt
Nam đã thốt khỏi nhóm các nước nghèo và là nước có thu nhập trung bình.
Vì vậy, các khoản vay với ưu đãi về lãi suất và thời hạn sẽ khơng cịn nữa mà
chúng ta phải vay các khoản với lãi suất cao hơn và thời hạn cũng ngắn hơn.
Điều này chỉ ra rằng, nếu Việt Nam vay thì cần đầu tư một cách hiệu quả
đồng vốn, tạo lãi thì mới giảm được áp lực từ nợ công.
Như đã biết về điều khoản vay vốn, “lãi mẹ đẻ lãi con” là chính sách áp dụng
tính lãi suất, nên mức độ lãi suất tăng lên nhanh chóng. Trên thực tế, Việt
Nam đã phải bán trái phiếu chính phủ trong nước với lãi suất cao, khoảng 8
đến 9%/năm, nhưng chỉ đủ trả lãi của nợ cũ và trả được một phần của vốn
vay. Chính vì vậy, nợ mới và nợ cũ tăng nhanh dẫn đến nợ công tăng nhanh.
1.1.3. Thực trạng hiện tại tác động tiêu cực và gây nhiều hệ luy cho
nền
kinh
tế

hội
Nợ công đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân trong đất nước về
mọi mặt: kinh tế, y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội… Giả sử nếu tồn tại là một
quốc gia không chịu ảnh hưởng của vay nợ trầm trọng, với GDP tăng trưởng
thì Việt Nam có lẽ phát triển hơn nhiều khi Nhà nước chú trọng cho đầu tư

chất lượng học tập, y tế, đời sống và phúc lợi xã hội...
Các hệ lụy đó là: Lạm phát tăng cao; Đồng tiền mất giá và hất nghiệp tăng
cao,
kinh
tế
kém
phát
triển
Khi gặp khó khăn, Nhà nước sẽ in thêm tiền để ổn định một phần chi tiêu.
Điều này kéo theo lượng tiền trong lưu thông tăng, đồng tiền mất giá. Tăng
thuế là việc sớm muộn do thu nhập của Nhà nước phụ thuộc phần lớn vào các
khoản thu từ thuế. Điều này tác động trực tiếp đến cuộc sống người dân, khi
tỷ lệ nợ cơng tăng, Chính phủ phát hành trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu Chính


phủ và khoản tiết kiệm trong dân giảm dần. Khi khoản nợ quá lớn, Chính phủ
buộc tăng thuế để trả nợ vay làm tổn thất xã hội. Điều này tạo thành 1 vịng
luẩn quẩn khơng thốt được.
1.2. Ngun nhân gây ra tình trạng nợ cơng tăng cao
- Thứ nhất: Đầu tư ồ ạt. Đường xá, cầu đường được xây dựng và
mở rộng, chi phí được lấy từ ngân sách nhà nước. Mà ngân sách này là đi vay
từ các tổ chức tín dụng trong nước và ngồi nước. Theo thống kê, xây dựng
đường xá mất khoảng 20 triệu USD/km. Trong khi theo tính tốn, đường xá
sau khi được xây dựng xong và đi vào sử dụng trong 2 năm đã phải tu sửa.
+ Tương tự, mới đây Việt Nam bỏ chi phí xây dựng tượng đài một cách
phung phí với chi phí lớn. Với những chi phí bất hợp lí như vậy, tỷ lệ nợ cơng
của
Việt
Nam
sẽ

ngày
càng
tăng
nhanh.
+ Ngồi ra, các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ
nên Nhà nước còn phải gánh thêm khoản nợ. Thực tế hiện nay, có 12 dự án
đầu tư khơng hiệu quả và cần xử lý của Bộ Công Thương. Bộ Tài chính báo
cáo có 72 dự án đầu tư khác của doanh nghiệp nhà nước khơng khả thi và có
nhiều khả năng thua lỗ. Điều này đã làm tăng thêm áp lực về gánh nặng nợ
cơng
cho
Chính
phủ.
+ Bên cạnh đó là các dự án phát sinh tăng vốn.
Ví dụ: Năm 2008, dự án đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông được triển
khai với tổng vốn đầu tư là 552 triệu USD. Nhưng đến năm 2016 thì tổng số
vốn điều chỉnh tăng lên 868 triệu USD (tăng lên hơn 1,5 lần so với mức vốn
ban đầu. Trong số đó có bao gồm vay của Trung Quốc 669 triệu USD trả lãi
cho khoản này mỗi ngày là 1,2 tỷ đồng/ngày. Và thực tế hiện nay dự án này
đầu tư không hiệu quả. Dự án tiếp theo là dự án đường sắt trên cao Ga Hà Nội
+ Nhổn, tổng vốn đầu tư dự kiến ban đầu là 783 triệu EUR và được
điều chỉnh lên 1176 triệu EUR, trong đó có nguồn vốn vay của Pháp là 653
triệu EUR. Hầu hết các dự án của Việt Nam đều chậm tiến độ, vốn chi bất hợp
lý, kém hiệu quả. Đầu tư vào quản lý hệ thống cơng cộng hết sức trì trệ, chậm
tiến độ so với các nước khác, các cơng trình thi cơng ở Việt Nam chậm tiến độ
đến 3 - 4 lần, đội giá. Đầu tư công của Việt Nam chủ yếu đầu tư và cơ sở hạ
tầng, tuy nhiên mọi việc gặp rất nhiều bất cập như đội vốn, năng lực nhà thầu
không đảm bảo dẫn đến chậm tiến độ. Nguồn vốn chủ yếu là đi vay nhưng lại
không được thực hiện một cách hiệu quả dẫn đến nợ công ngày càng tăng cao.
- Thứ hai: Có hiện tượng tham nhũng, thất thoát. Lãi phải trả cho

cho các khoản đi vay quá lớn, trong khi phần lớn số vốn vay lại không được
sử dụng hiệu quả do nhiều lý do như tham nhũng, thất thốt, chậm tiến độ...
Điều đó dẫn đến các khoản lãi ngày càng trầm trọng. Trong chi tiêu
Chính phủ, chi thường xuyên chiếm 71%, chi trả nợ chiếm 24,5%, còn lại
4,5%
tổng
ngân
sách
cho
đầu
tư.


Bên cạnh đó, chưa có sự minh bạch trong sử dụng vốn vay. Việt Nam
có rất nhiều dự án chậm tiến độ so với dự kiến. Càng kéo dài, trì trệ thì càng
lỗ, trong khi đó thì gánh nặng trả lãi của các khoản vay lại ngày càng tăng.
Đặt ra câu hỏi là liệu nguồn vốn đã thực sự được đầu tư đúng hướng và
các nhà lãnh đạo đã thực sự đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu khi mà có quá
nhiều dự án thua lỗ, chậm trễ, phải thay đổi nhiều nhà thầu mới có thể hồn
thành.
1.3.
Giải
pháp
Trước tình hình hiện nay, việc đi vay với lãi suất thị trường để chi tiêu
cơng khơng cịn là giải pháp tốt, khi mà chúng ta đã mất đi nhiều ưu đãi. Dự
báo phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam đến năm 2020 sẽ vẫn phải đi vay
bù đắp thiếu hụt về đầu tư. Một số biện pháp lưu ý:
- Thứ nhất, nợ công phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự
phát triển kinh tế là điều kiện cần để tăng thu cho ngân sách nhà nước và giảm
áp lực từ nợ công. Muốn vậy cần đổi mới mơ hình kinh tế, cải thiện bộ máy tổ

chức hoạt động các cơ quan nhà nước, đầu tư có trọng điểm tránh đầu tư dàn
trải
thất
thoát.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả thấp hơn so với doanh
nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo theo nhiều ảnh
hưởng xấu đến nền kinh tế nhà nước thất thoát vốn. Cần giảm bớt sự phụ
thuộc của các doanh nghiệp nhà nước, để các doanh nghiệp hoạt động độc lập,
cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp nước
ngồi. Chỉ có vậy mới cải thiện sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà
nước.
- Thứ hai, nợ công ở Việt Nam phụ thuộc hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước. Các chuyên gia kinh tế cho rằng Chính phủ cần
tìm kiếm các giải pháp quản lý hiệu quả. Cần thay đổi cách tính nợ cơng để
thu nhận được chính xác nhất về số liệu về khoản nợ cơng của Chính phủ và
doanh
nghiệp
nhà
nước.
Huy động vốn trong nước thay vì vay vốn nước ngồi. Thực tế khoản
tiền nhàn rỗi trong nhân dân hoàn toàn phù hợp cho việc mua trái phiếu chính
phủ, nhất là trong hồn cảnh chúng ta phải vay với lãi suất khá cao.
Cần thực hiện kỷ luật tài khóa rõ ràng, nghiêm ngặt, tránh tình trạng
thâm hụt ngân sách, rà sốt lại những dự án đầu tư, phịng chống tham nhũng,
minh
bạch
về
tài
chính.
Phải có ưu tiên rõ ràng trong việc chi tiêu nợ công. Những ưu tiền cần

đặt ra là cơ sở hạ tầng công ích, dịch vụ phục vụ đời sống an sinh xã hội. Các
doanh nghiệp nhà nước cần chú trọng phát triển lợi ích, mở rộng đầu tư.
Xây dựng một cơ chế quản lý nợ cơng hiệu quả. Chế độ kiểm sốt rất
cần sự minh bạch và có trách nhiệm giải trình để có thể kiểm sốt tốt nợ cơng


của Việt Nam. Hiện tại, chất lượng đội ngũ kiểm tốn nhà nước của Việt Nam
cịn thấp, chưa đủ khả năng phân tích đánh giá bản chất của nợ cơng, phân
loại đánh giá những tác động của nó có thể xảy ra với nền kinh tế. Hơn nữa,
giám sát chi tiêu của Chính phủ cũng cần phải thể chế hóa và bắt buộc thi
hành để tránh tình trạng chi tiêu lãng phí, khơng đúng mục đích. Luật Ngân
sách nhà nước cũng cần rà soát lại nhằm nâng cao hiệu quả của chi tiêu cơng.
Nếu khơng có cơ chế quản lý nợ công hiệu quả chúng ta không thể
đánh giá thấu đáo tình hình tăng trưởng kinh tế, lượng dự trữ quốc gia là bao
nhiêu, cần làm gì để giảm áp lực của nợ công đối với nền kinh tế.
- Thứ ba, vừa vay để đầu tư, vừa vay để đảo nợ làm cho nợ cơng
tăng lên nhanh chóng. Cần chỉ định một “đầu mối” xử lý nợ công với quyền
hạn trong việc huy động, phân bổ, chịu trách nhiệm có thể xem là phù hợp
trong
thời
điểm
hiện
nay.
- Thứ tư, minh bạch trong quản lý. Để góp phần giảm nợ cơng
việc quản lý sử dụng vốn được sử dụng một cách nghiêm túc có hiệu quả
- Thứ năm, thu hút nguồn thu ngoại tệ. Thu hút nguồn thu ngoại
tệ bằng cách phát triển lĩnh vực xuất khẩu như nông sản, hải sản, da giày,
khoáng sản. Phát triển du lịch, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án
kinh tế. Thêm nữa là lực lượng lao động của nước ta đang rất dồi dào, đây là
điều kiện cho đất nước phát triển tất cả các ngành thế mạnh, cũng như là sức

hút
cho
việc
đầu

từ
các
nước.
- Thứ sáu, xử lý nghiêm minh cán bộ có dấu hiệu sai phạm trong
các dự án kinh tế gây thất thốt lớn cho nhà nước. Rà sốt lại tính hiệu quả
của các dự án đang trong quá trình thực hiện hoặc sắp được triển khai trong thời
gian tới.

2.

NỢ
2.1.

CƠNG



NHẬT
BẢN

MỸ:

Mỹ:

Tình

hình
nợ
cơng
của
Mỹ
hiện
nay:
- Trong năm tài khóa 2018, tổng nợ cơng của nước Mỹ đã gia tăng đến
nưỡng kỷ lục mới :21.520 tỷ USD, và vẫn chưa có dấu hiệu ngừng lại hay giảm
tốc. Điều này cóc nghĩa là trong năm tài khóa 2018, khoản nợ của nước Mỹ tăng
thêm 1.200 tỉ USD, gấp 6,3 lần so với cùng kì năm ngối, và hiện nay tương
đương với 105.4% tổng GDP của nước này.khoản nợ công của Mỹ hồi năm
2017 là khoảng 20.250 tỉ USD. Trong đó gần 16,2 nghìn tỉ của khoản nợ này do
người sân nắm giữ dưới dạng tría phiếu Chính phủ, 5,8 nghìn tỉ cịn lại được
nắm giữ trong nội bộ chính phủ. Số nợ dồn lại cũng đang tăng lên vì những thay
đổi gần đây. Bội chi ngân sách trong năm 2018 đạt 779 tỉ USD.
 Chính trị của nhà nước dẫn tới nợ công :
- Khoản nợ khổng lồ này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, bao gồm các
khoản chi tiêu quá mức của Chính phủ liên bang, kinh tế chậm tăng trưởng, và


Chính phủ khơng thu đủ thuế. Chính phủ Mỹ chi khoảng 4000 tỉ mỗi năm
nhưng thâm hụt khoảng từ 600-700 tỉ. Những khoản thâm hụt thuế- tức thâm hụt
ngân
sách
này
cũng
được
tính
vào

nợ
cơng.
- Nợ công Mỹ tăng cao do hai yếu tố. Thứ nhất là luật cả cách thuế do
tổng thống Trump và Đảng cộng hịa thơng qua. Thứ hai là thỏa thuận ngân sách
lưỡng đảng được quốc hội Mỹ thông qua là gảm nguồn thu từ thuế trong khi làm
tăng
chi
tiêu
ngân
sách
của
Chính
phủ.

Ảnh
hưởng
ngược
lại
của
kinh
tế:
- Khối nợ khổng lồ của Mỹ ngày càng phình to. Khối nợ này sẽ càng lớn
nếu nhưng dự báo tăng trưởng kinh tế khả quan cảu ông trump không trở thành
hiện thực hoặc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung gây lạm phát tăng vọt và
thiệt hại lớn cho các cong ty Mỹ phụ thuộc vào xuất khẩu, thị trường địa ốc đột
ngột giảm tốc. Tiền lương tăng chậm. Tiền lương của người lao động tăng ngang
với tốc độ lạm phát.
2.2.



Nhật
bản:

Tình
hình
nợ
cơng
của
Nhật
Bản:
- Nợ Chính phủ của Nhật Bản cao kỷ lục, chủ yếu dưới hình thức trái
phiếu chính phủ. Tính tới thời điểm năm 2017 nợ Quốc gia là gần 1.068 nghỉn tỉ
Yên tương đương với 10 nghìn tỉ USD. Gần 90% trong đó là nợ dưới hình thức
trái phiếu Chính phủ. Tổng số nợ trái phiếu lên đến khoảng 8,8 nghìn tỉ USD.
 Chính trị của nhà nước dẫn tới nợ cơng:
- Nên kinh tế Nhật Bản phải đối mặt với dân số già hóa nhanh chóng và
tốc độ tăng trưởng gân như đóng băng do năng suất yếu nên Chính phủ đã tăng
lượng trái phiếu phát hành để bù đắp chi phí an sinh xã hội cho bộ phận dân số
già của Nhật Bản. Nợ bình quân đầu người của Nhật Bản vào khoảng 78.600
USD.

Ảnh
hưởng
ngược
trở
lại
kinh
tế:
- Dù nợ nhiều nhưng Nhật Bản không bị áp lực trả lãi cao của chủ nợ hay
bị áp lực trả lãi cao khi vay nợ quá nhiều. Vì các khoản nợ của Nhật Bản là nước

Nhật nợ người Nhật.
3. KINH NGHIỆM QUẢN LÍ NỢ CƠNG CỦA VIỆT NAM ( CÁC GIẢI
PHÁP ĐƯA RA PHẢI DỰA TRÊN CÁC VĂN BẢN PHÁP LÍ HIỆN
HÀNH CỦA VIỆT NAM – LUẬT QUẢN LÍ NỢ CƠNG SỬA ĐỔI ĐÃ

HIỆU
LỰC
)
- Bức tranh nợ công hiện nay với những rủi ro đặt ra, cùng với q trình hồn
thiện khn khổ pháp luật về quản lý nợ cơng, Việt Nam cần phải có các biện
pháp để hạn chế sự gia tăng tiếp theo của nợ cơng thơng qua việc tăng cường kỷ
luật tài khóa, giảm dần mức bội chi ngân sách nhà nước theo một lộ trình phù


hợp và cam kết đủ mạnh; đồng thời hình thành các cơ chế để đảm bảo việc quản
lý và sử dụng nguồn vốn vay được thực hiện theo một chiến lược thận trọng.
Trong đó, việc vay nợ cần phải được đặt trong mối tương quan chung với kế
hoạch và khả năng trả nợ, không thể mặc định cho tư duy “nợ cũ có thể được
thanh tốn bằng các khoản vay mới” do những khoản vay mới sẽ có lãi suất cao
hơn và khơng phải lúc nào cần cũng có thể huy động được. Cùng với đó, cần
tăng cường quản lý và kiểm sốt chặt chẽ việc vay nợ của chính quyền địa
phương và cấp bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay của doanh nghiệp, đảm
bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan cấp bảo lãnh với cơ quan có liên quan.
- Q trình hồn thiện thể chế về quản lý nợ công cần được thực hiện đồng
thời với việc phát huy năng lực của cơ quan quản lý nợ, đặc biệt là về khả năng
phân tích, dự báo và đánh giá các rủi ro liên quan đến danh mục nợ cơng.
- Q trình hồn thiện thể chế quản lý nợ công cũng cần hướng đến yêu cầu
coi trọng sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ thể có liên quan
trong tồn bộ chu trình quản lý nợ công. Trong quản lý nợ công, cần thực hiện
phân định rõ những vấn đề mang tính chính sách và những nội dung mang tính

kỹ thuật để hình thành các cơ chế quản lý, phối hợp phù hợp. Bên cạnh đó, cần
có cơ chế để kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các kế hoạch, chiến
lược, cũng như ý thức chấp hành các chính sách quản lý nợ công. Thực
hiệngiám sát việc tuân thủ các hạn mức, giới hạn về nợ đã đặt ra ở cả cấp trung
ương và địa phương. Đồng thời, phải thường xuyên truyền tải các thông điệp rõ
ràng về sự ổn định kinh tế vĩ mô trong nước cho các nhà đầu tư để tạo lập sự tin
tưởng của thị trường đối với các chính sách hiện hành. Kinh nghiệm của các
nước cho thấy, khi nhà đầu tư đánh mất niềm tin, khả năng tiếp cận với nguồn
vốn, nhất là nguồn vốn quốc tế, sẽ rất khó khăn và thường có chi phí cao hơn,
đồng thời làm cho công tác quản lý nợ công phải đối mặt với nhiều thách thức
hơn.
- Để đảm bảo chỉ số nợ cơng, nợ Chính phủ trong giới hạn cho phép, khơng
vượt q 65% GDP, nợ Chính phủ không vượt quá 50% GDP, nghĩa vụ trả nợ
trực tiếp của Chính phủ khơng vượt q 25% tổng thu NSNN hàng năm, từng
bước giảm dần quy mô nợ công khoảng 60% GDP vào năm 2030
+ Một là, đổi mới nợ công trước tiên phải gắn liền với tái cơ cấu NSNN
theo hướng lành mạnh hóa vàổn định. Đây là giải pháp mang tính quyết định
để NSNN nước ta thực sự lành mạnh hóa, mục tiêu xuyên suốt là phải kiên
quyết cắt giảm bội chi NSNN theo Nghị quyết Đại hội Đảng XII về kế hoạch
phát triển KT-XH 5 năm 2016-2020, đó là: giảm dần bội chi NSNN đến năm
2020 về dưới 4% GDP. Để đạt được yêu cầu trên, cần thực hiện trên cả 2 mặt:
 Cơ cấu lại thu NSNN theo hướng thu NSNN ổn định, bền
vững. Theo đó, chính sách thuế cần mở rộng đến mọi nguồn thu, phù hợp với


khả năng đóng góp của người nộp thuế, chú trọng thu nội địa, tăng tỷ trọng
thuế trực thu trên cơ sở phát triển sản xuất kinh doanh.
Tăng cường chống thất thu, nợ đọng thuế, xử lý cương quyết tình trạng trốn
thuế qua hình thức “chuyển giá” tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi. Kiên trì cải cách thủ tục hành chính thuế gắn với đẩy mạnh cơng tác

tun truyền về thuế nhằm góp phần chống tiêu cực, nâng cao ý thức trách
nhiệm của người nộp thuế, qua đó, huy động thuế đầy đủ và kịp thời hơn vào
NSNN.
 Cơ cấu lại chi NSNN theo hướng: Giảm và tiết kiệm chi
thường xuyên, bằng cách cương quyết tinh giảm biên chế trong bộ máy nhà
nước, mạnh dạn chuyển đổi từ chế độ biên chế sang hợp đồng đối với các đơn
vị sự nghiệp công, đầy mạnh dịch vụ sự nghiệp cơng, qua đó, thu hẹp phạm vi
và giảm bớt gánh nặng chi thường xun cho NSNN…
Bên cạnh đó, chính quyền các cấp phải tuân thủ nghiêm kỷ luật tài khóa theo
Luật NSNN năm 2015 đã quy định: nếu thu không đạt dự tốn thì phải giảm
chi tương ứng.
+ Hai là, tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và vững chắc, vì
đây chính là nguồn gốc, cơ sở tạo ra nguồn thu NSNN vững bền để trả nợ
công. Theo đó, cần ban hành các cơ chế, chính sách tạo mơi trường kinh
doanh thuận lợi thơng thống, khuyến khích các thành phần kinh tế, nhất là
kinh tế tư nhân mạnh dạn đầu tư phát triển.
Đảm bảo quy mô đầu tư xã hội đạt 32 - 34% GDP ở giai đoạn 2016-2020;
Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng
cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh, trong đó, vấn đề then chốt là phải
chuyển nền kinh tế từ làm hàng gia công, khai thác nguyên liệu thô là chủ yếu
sang tập trung chế biến sâu gắn với công nghệ hiện đại và công nghiệp 4.0
nhằm làm gia tăng giá trị sản phẩm; Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu với cơ cấu
mặt hàng, dịch vụ đa dạng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam
(đây là nguồn duy nhất tạo ra lượng ngoại tệ để trả nợ nước ngồi của Chính
phủ).
Phối hợp đồng bộ và hiệu quả chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các
chính sách khác để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền
kinh tế, qua đó, tạo cơ sở tăng trưởng kinh tế ở mức cao và ổn định.
+ Ba là, điều hành lãi suất, tỷ giá và lạm phát linh hoạt, qua đó giảm
thiểu rủi ro lãi suất, tỷ giá và rủi ro tín dụng của nợ công trong thời gian tới.

Điều hành lãi suất theo cơ chế thị trường, đảm bảo sàn và trần lãi suất hợp lý


để khuyến khích tiết kiệm, đầu tư. Ln đảm bảo quỹ dự trữ ngoại tệ đủ mạnh
(đạt khoảng 3 tháng kim ngạch nhập khẩu) để sẵn sàng ứng phó với những
biến động bất lợi về tỷ giá; Duy trì và kiểm soát mức độ lạm phát ở mức độ
hợp lý (khoảng 5%/năm) nhằm kích cầu, hạn chế rủi ro về tỷ giá do vay nợ
nước ngoài.
+ Bốn là, đổi mới căn bản tổ chức quản lý nợ công cả về hành lang
pháp lý, cơ chế quản lý và con người thực hiện. Cần hồn thiện các khn
khổ pháp lý về nợ công. Trước mắt, xem xét sửa đổi kịp thời Luật quản lý nợ
công năm 2009, tập trung vào những vấn đề trọng yếu sau:
 Quy định tập trung một đầu mối quản lý nợ công, gắn liền
trách nhiệm đi vay, sử dụng và trả nợ chặt chẽ với nhau, tuân thủ nguyên tắc
trước khi đi vay, phải xác định được phương án trả nợ vay có tính khả thi cao.
Trên cơ sở rút kinh nghiệm công tác quản lý nợ cơng ở các nước, kiến nghị
Bộ Tài chính sẽ là đầu mối thống nhất quản lý nợ công. Khi đó, sẽ nâng cao
được vai trị, trách nhiệm và có cơ sở truy cứu đến cùng việc quản lý nợ cơng.
 Có biện pháp chế tài đủ mạnh nhằm nâng cao tinh thần trách
nhiệm các cơ quan có liên quan trong kiểm tra phân bổ sử dụng vốn vay, đôn
đốc thu hồi nợ hoặc tìm nguồn thu trả nợ đúng hạn, thúc đẩy giải ngân vốn
vay kịp thời, hạn chế được tiêu cực tham nhũng trong quá trình xét duyệt,
phân bổ vốn vay, đảm bảo chất lượng, hiệu quả các cơng trình đầu tư cơng.
Mặt khác, một số bộ ngành, nhất là các địa phương nhận thức rõ trách nhiệm
vay và trả nợ đúng đắn, kể cả vay ODA, từ đó, sử dụng vốn vay một cách chắt
chiu, tiết kiệm, có khả năng thu hồi để trả nợ.
- Ban hành quy định, cơ chế kiểm sốt chặt chẽ nợ cơng trong giới hạn trần
cho phép, đảm bảo tốc độ gia tăng dư nợ công thấp hơn tốc độ tăng trưởng
kinh tế và tỷ lệ trượt giá. Bên cạnh đó, cần đề cao tính kỷ luật tài chính trong
quản lý nợ công, chú trọng đến trách nhiệm cá nhân người điều hành, có

thưởng, phạt phân minh rõ ràng nhằm đảm bảo hiệu quả nợ công.
- Chuyển đổi phương thức quản lý đầu tư theo NSNN hàng năm sang kế
hoạch tài chính trung hạn 5 năm nhằm phân bổ nguồn nợ vay theo các ưu tiên
chiến lược quốc gia.
- Từng bước nâng cao trình độ, năng lực quản lý nợ cơng cho đội ngũ cán bộ
chuyên trách nước ta hiện nay, chú trọng bồi dưỡng kỹ năng kiểm tra, phân
tích đánh giá các chương trình, dự án đầu tư cơng khơng chỉ về mặt hiệu quả
kinh tế mà còn trên các mặt xã hội, bảo vệ môi trường... để đưa ra các quyết
định đầu tư hợp lý, có khả năng dự báo, nhận diện đánh giá và biết cách giảm
thiểu, phân tán, xử lý các loại rủi ro liên quan đến nợ cơng. Bên cạnh đó, cần


chú trọng nâng cao tinh thần đạo đức, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ
cho đội ngũ này bằng nhiều giải pháp thích hợp.
+ Năm là, tiếp tục hồn thiện cơ chế phát triển thị trường chứng khoán
Việt Nam để các cơng cụ nợ Chính phủ được giao dịch mua bán thuận lợi, tạo
kênh vay vốn chủ yếu với chi phí thấp, nhất là vốn vay trung và dài hạn cho
đầu tư phát triển; Có cơ chế đẩy mạnh việc xã hội hóa các cơng trình mà các
thành phần kinh tế khác có thể tham gia (giáo dục, y tế, đường giao thông...)
nhằm giảm tải chi đầu tư từ nguồn NSNN, giảm áp lực tăng nợ công.
Cùng với việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công năm 2009, cần sửa đổi bổ sung
các luật có liên quan đến quản lý nợ công như: Luật Đầu tư công năm 2014,
Luật NSNN năm 2015... nhằm đảm bảo tính đồng bộ và phát huy hiệu lực cao
nhất.
Quản lý nợ công là một trong những vấn đề quan trọng nhất xét ở khía cạnh
tác động qua lại đến bội chi NSNN và tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay.
Nếu không khắc phục kịp thời những tồn tại, yếu kém về nợ công nói trên thì
nó sẽ trở thành lực cản, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Ngược lại, nếu Nhà nước mạnh dạn đổi mới cách thức quản lý nợ cơng với
những giải pháp hữu hiệu trên đây thì nợ cơng sẽ trở thành lực đẩy cần thiết

mang tính nền tảng để hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng nước ta hồn chỉnh
đồng thời sẽ có tác động tích cực đến việc lành mạnh hóa NSNN và đảm bảo
cấu trúc an ninh tài chính quốc gia, qua đó, tạo bệ phóng cho nền kinh tế nước ta
cất cánh vững chắc trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
4. XU HƯỚNG NỢ CÔNG TẠI CÁC QUỐC GIA NHẬT BẢN VÀ MỸ:
4.1.
Nhật
Bản
:
- Mỗi quốc gia có cơ cấu nợ và các tiêu chí nợ, cũng như các rủi ro nợ khác
nhau. Với Nhật Bản, dù nợ cơng có quy mơ lên tới hơn 245% GDP, nhưng sự
vượt ngưỡng này vẫn khơng làm khó nền kinh tế. Vậy, vì sao nợ cơng Nhật
Bản vẫn ở ngưỡng an tồn? Trong cấu trúc nợ cơngNhật Bản, Trái phiếu
chính phủ chiếm tỷ lệ cao nhất (khoảng 70%),nguồn nợ vay từ các định chế
tài chính khoảng 5%, hối phiếu cho nhu cầu tài chính ngắn hạn khoảng
10%. So với nền kinh tế hàng đầu thế giới là Mỹ vớiquy mô nợ công thấp hơn
Nhật Bản, nhưng lại đang phải loay hoay xử lý nguy cơ vỡ nợ kỹ thuật, trong
khi nợ công của Nhật Bản được đánh giá là cao nhất trong số các nước phát
triển, nhưng nợ công của Nhật Bản vẫn được đánh giá ở ngưỡng an tồn.
- Những nhân tố đóng góp vào mức an tồn nợ cơng Nhật Bản, đó là:
+ Thứ nhất, trái phiếu chính phủ (chiếm tỷ lệ chủ yếu trong cấu


trúc nợ cơng) ổn định và ít phụ thuộc vào giới đầu tư trái phiếu quốc tế. Từ
đầu thập niên 1990, khi ngân sách Chính phủ Nhật Bản bắt đầu thâm hụt,
Nhật Bản đã bù đắp cho khoản thâm hụt này bằng cách phát hành trái phiếu
để vay nợ, chủ yếu từ nguồn tiền tiết kiệm nội địa lên tới 17 nghìn tỷ USD.
+ Theo đánh giá của Cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc tế
Standard & Poor’s (S&P), triển vọng đối với trái phiếu chính phủ Nhật Bản
hiện ổn định và Nhật Bản “không quá gần” với khủng hoảng, ít nhất là trong

ngắn
hạn,
nhờ
3
yếu
tố

bản:
(1) Cán cân thanh toán quốc tế mạnh và dự trữ ngoại hối
hơn
1000
tỷ
USD;
(2) Tỷ lệ tiết kiệm cá nhân vẫn lớn hơn nợ công;
(3) Đa phần trái phiếu chính phủ Nhật Bản được các nhà
đầu

trong
nước nắm
giữ.
+ Do ít phụ thuộc vào giới đầu tư trái phiếu quốc tế, nên Chính
phủ Nhật Bản sẽ chỉ gặp thách thức trong vấn đề vay nợ khi các nhà đầu tư
trong nước khơng cịn mặn mà với trái phiếu Nhật Bản. Những thế mạnh này
đã giúp Nhật Bản giữ được thị trường trái phiếu bình ổn. Hơn nữa, tồn bộ
trái phiếu chính phủ Nhật Bản được định giá bằng đồng yên. Nhật Bản khơng

nợ
bằng
ngoại
tệ.

+ Do đó, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (B0J) trở thành người
bảo lãnh hiệu quả cho tất cả các khoản nợ của chính phủ Nhật Bản. Trong
trường hợp xảy ra bán tháo trên thị trường trái phiếu chính phủ Nhật Bản, B0J
có thể can thiệp và mua toàn bộ số trái phiếu bằng cách in thêm tiền. Khả
năng tiền tệ hóa số nợ của B0J là khơng hạn chế. Hạn chế duy nhất đó là mức
độ
lạm
phát

Nhật
Bản
muốn
duy
trì.
+ Tuy nhiên, khi mà Nhật Bản vẫn trong tình trạng giảm phát thì
khả năng bảo vệ thị trường trái phiếu của B0J là có thể phần lớn nợ cơng của
Nhật Bản (khoảng 90%) nằm trong tay các nhà đầu tư trong nước, nên Nhật
Bản vẫn chưa phải trải qua những gì như ở Hy Lạp (năm 2010) và tránh được
tác động bất lợi từ những biến động thất thường của thị trường tài chính thế
giới. Bởi vậy, việc Cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc tế Standard & Poor’s
(S&P) cắt giảm điểm tín nhiệm nợ cơng của Nhật Bản sẽ khơng có nhiều tác
động xấu tới tình hình tài khóa của nước này, trừ khi Nhật Bản phải huy động
vốn từ thị trường quốc tế. Khi đó, Nhật Bản buộc phải trả mức lãi suất cao
hơn để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngồi và lãi suất vay nợ chính phủ cao sẽ
kéo
theo
mức
lãi
suất
cao


các
công
ty
và người tiêu dùng Nhật Bản phải trả. Lúc đó, điểm tín nhiệm nợ cơng sẽ có
tác động mạnh hơn tới Nhật Bản, thay vì hầu như khơng có ảnh hưởng gì


trong thời điểm hiện tại. Hơn nữa, Nhật Bản cũng là “chủ nợ” của nhiều nước.
Theo số liệu cuối năm 2008 của Quỹ Tiền tệ quốc tế, tổng tài sản ở nước
ngoài của Nhật Bản trị giá khoảng 5.700 tỷ USD, cao hơn nhiều so với mức
nợ
nước
ngồi

3.200
tỷ
USD.
4.2.
Mỹ:
- Nợ cơng của Mỹ đã lần đầu tiên trong lịch sử vượt ngưỡng 22.000 tỷ
USD, tương đương Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của 3 nền kinh tế lớn là
Trung Quốc, Nhật Bản và Đức cộng lại.Trong báo cáo công bố ngày 12/2, Bộ
Tài chính Mỹ cho biết tổng nợ cơng của nước này hiện ở mức 22.010 tỷ USD,
tăng đáng kể so với mức 19.950 tỷ USD vào thời điểm Tổng thống Donald
Trump nhậm chức ngày 20/1/2017.Nợ công của Mỹ đã gia tăng kể từ khi
Tổng thống Trump thực thi chính sách cắt giảm thuế trị giá 1.500 tỷ USD vào
tháng 12/2017 và Quốc hội Mỹ hồi năm ngối thơng qua dự luật tăng chi tiêu
cho quân sự cũng như các chương trình phúc lợi xã hội.Nợ cơng của Mỹ được
tính là cộng dồn tổng thâm hụt ngân sách hằng năm. Tháng trước, Văn phòng

Ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO) cho biết thâm hụt ngân sách của nước này
trong năm 2019 có thể sẽ lên mức 897 tỷ USD, tăng 15,1% so với mức 779 tỷ
USD trong năm ngoái.Cơ quan trên cảnh báo thâm hụt ngân sách sẽ tiếp tục
tăng trong những năm tới, vượt ngưỡng 1.000 tỷ USD mỗi năm bắt đầu từ
năm 2022 và sẽ không giảm dưới mức này cho tới năm 2029.Thâm hụt ngân
sách gia tăng chủ yếu do Chính phủ Mỹ tăng chi tiêu cho chương trình chăm
sóc sức khỏe và an sinh xã hội.Cuối năm ngối, CBO cũng cảnh báo quy mơ
nợ cơng của Mỹ có thể chạm mức 100% GDP vào cuối thập kỷ tới và tăng lên
152% GDP vào năm 2048, chạm mức cao nhất trong lịch sử nước này.
*** TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]



×