Mục Lục
Mở đầu
Trong xã hội hiện đại, truyền hình là phương tiện truyền thơng phổ biến nhất
thếgiới. Nó khơng chỉ là một phương tiện giải trí thuần túy mà đang được sử
dụngtrong nhiều lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn như bộ phận an ninh sử dụng
truyềnhình như một cơng cụ bảo vệ giám sát, ngành tàu điện ngầm dùng truyền
hình đểquản lý hệ thống đường tàu hay để điều khiển con tàu từ xa.Truyền hình là
loại hình phương tiện thơng tin đại chúng mới xuất hiện từ giữa thếkỷ XX nhưng
đến nay nó đã phủ sóng rộng rãi trên tồn thế giới. Thế mạnh đặ ctrưng của truyền
hình là cung cấp thơng tin dưới dạng hình ảnh động và âm thanhmang tính hấp
1
dẫn, sinh động. Vai trị, vị trí ảnh hưởng của báo truyền hình đối với cơng chúng rất
lớn đặc biệt trong thời đại công nghệ đang chiếm lĩnh mọi lĩnh vựccủa thế giới.
Thế nhưng hiện nay nhiều người cho rằng “Truyền hình rồi cũng sẽ biến mất như
thư tay hay điện thoại bàn?”. Có thực sự sẽ như vậy khi truyền hình đang đối mặt
với mn vàn khó khăn với sự lên ngôi của internet. Để làm rõ về vấn đề này, bài
thu hoạch dưới đây sẽ tập trung vào hai nội dung dính: Lịch sử của truyền hình và
Tương lai của truyền hình.
Nội dung
I. Khái quát lịch sử phát triển, ra đời của truyền hình
1. Truyền hình thế giới
Truyền hình là hệ thống phát và thu hình ảnh và âm thành bằng những thiết bị
truyền dẫn tín hiệu từ qua cáp, sợi quang và quan trọng nhất là sóng điện từ.
Truyền hình thực sự ra đời vào thế kỷ XX nhưng trước đó, đã có nhiều phát minh
và cơng trình làm tiền đề cho sự ra đời này. Đó là những tìm tịi để chuyển đổi ánh
sáng thành dịng điện biến thiên.
2
Sự phát triển của truyền hình có thể được thực hiện trên 2 phạm vi: Thứ nhất là
những phát triển trên phương diện cơ học và điện tử học, các phát triển hoàn toàn
trên điện tử học. Thứ hai là nguồn gốc của các tivi hiện đại cùng với sự phát hiện
và thấu hiểu từ hệ thống cơ khí.
Lịch sử phát triển của truyền hình được thể hiện ở những cột mốc tiêu biểu sau:
3
4
Nếu như giai đoạn 1950 – 1970 được coi là thời hồng kim của truyền hình thì giai
đoạn từ 1980 – 1990 được coi thời kỳ cải tiến công nghệ. Ở thập niên 1980, chiếc
tivi không thay đổi, nhưng phụ kiện truyền hình lại tung hồnh, đầu máy video
(VCR) cùng các thiết bị giải trí tại gia ngày càng phổ biến.
•
Thể loại sitcom (hài kịch tình huống) rất được ưa chuộng và được sản xuất
đại trà, phổ biến là The Cosby Show (Chương trình của Cosby), Married...
•
with children (Kết hơn khi đã có con).
Truyền hình cáp dù có từ những năm 1950 nhưng đến thập niên này mới
•
bùng nổ, song đa số người dân chưa biết đến.
Bước sang thập niên 1990, thế hệ máy tính cá nhân mới ra đời và internet đã
nằm trong tầm tay của mọi gia đình, dù hình thức kết nối phổ biến vẫn là
•
dial up (truy cập quay số), tốc độ truy cập chậm và thường xun "rớt mạng"
Một số cơng nghệ truyền hình như LCD, Plasma bắt đầu được thử nghiệm.
•
TiVi có nhiều chức năng hơn.
Một loạt phim truyền hình được u thích nhất mọi thời đại đã ra đời như:
Friends (Những người bạn), Twin Peaks (Thị trấn Twin Peaks), The
Simpsons (Gia đình Simpson).
Những năm 2000, khán giả dần làm chủ tivi hơn. Truyền hình thực tế nở rộ, thỏa
mãn mong muốn tương tác của khán giả thông qua tin nhắn và giá quảng cáo tăng
chóng mặt, 30 giây quảng cáo trong American Idol (Thần tượng âm nhạc Mỹ) có
mức thấp nhất là 750 ngàn đơ la.
Giờ đây, truyền hình khơng chỉ giúp người xem tiếp cận thế giới, thu thập thông
tin, đa dạng phương thức giải trí, mà cịn len lỏi vào từng ngóc ngách nhỏ nhất của
cuộc sống, từ kiểu tóc, trang phục, màu son đến cả việc mua bếp lò, màn cửa, hay
một chiếc búa...
Có thể thấy, lịch sử phát triển của truyền hình ln nằm trong và cùng song hành
với lịch sử tiến bộ nhân loại. Truyền hình ngày một lớn mạnh lớn là do nhu cầu
5
thông tin của công chúng ngày càng cao, khoa học kỹ thuật phát triển và xuất hiện
nhu cầu được giao lưu quốc tế. Chính bản thân các vấn đề sự kiện chính trị, xã hội
cũng góp phần thúc đẩy truyền hình phải tự phát triển và phát huy hơn nữa những
ưu thế của mình, từ đó dần tạo nên những đặc trưng riêng biệt mang tính loại hình
trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay. Được thiết kế với
những màn ảnh rộng áp dụng kỹ thuật hình ảnh 1125 dịng qt ngang thay cho
máy thu hình truyền thống chỉ 525 hoặc 625 dịng qt.
2. Truyền hình Việt Nam
Truyền hình tại Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 1960 tại Sài Gòn
(thuộc Việt Nam Cộng hòa trước đây), với sự xuất hiện của Đài Truyền hình Sài
Gịn. Đến năm 1970, tại miền Bắc, Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng thử nghiệm
chương trình truyền hình đầu tiên. Cuối những năm 1970, truyền hình màu được
giới thiệu và phát sóng thử nghiệm.
Ngày nay, truyền hình tại Việt Nam có mặt dưới nhiều phương thức phát sóng, với
nhiều kênh truyền hình quốc gia và địa phương, phát sóng quảng bá hoặc trả tiền
với hơn 200 kênh truyền hình có sẵn cho người xem. Việt Nam đã hồn thành số
hố truyền hình mặt đất vào ngày 28 tháng 12 năm 2020.
Lịch sử truyền hình Việt Nam được chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1965–1975
6
7
Giai đoạn 1975–1990
Tại miền Nam, sau khi Hiệp định Paris 1973 được thi hành, đài AFVN chấm dứt
hoạt động; tất cả máy móc và trang thiết bị được bàn giao cho đài THVN9. Mạng
lưới của THVN9 vì thế đã mở rộng ra tồn Việt Nam Cộng Hịa. Đài chấm dứt hoạt
động vào đêm ngày 29 tháng 4 năm 1975.
Sau khi Sài Gịn được giải phóng, Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Giải phóng A đã
cùng Đài giải phóng B miền Đơng Nam Bộ tiếp quản tồn bộ hệ thống phát thanh,
truyền hình của chế độ cũ để lại. Đài Truyền hình Sài Gịn được đổi tên thành Đài
truyền hình Giải phóng; phát sóng trở lại vào tối ngày 1 tháng 5 năm 1975.
Đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, Sài Gịn chính thức được đổi tên thành TP. Hồ Chí
Minh, Đài Truyền hình Giải phóng được đổi thành Đài Truyền hình Thành phố Hồ
Chí Minh (HTV).
Cịn tại miền Bắc, năm 1976, Trung tâm Truyền hình được xây dựng tại Giảng Võ
(Hà Nội), từ đây truyền hình bắt đầu được phát sóng hằng ngày cùng với việc xây
dựng tháp truyền hình ở cột 1200 tại Tam Đảo; đến năm 1977, Ban biên tập Vô
8
tuyến truyền hình tách khỏi Đài Tiếng nói Việt Nam, thành lập Đài Truyền hình
Trung ương (THTƯ) và chuyển trụ sở tới đây.
Năm 1976, Đài Truyền hình TP.HCM đã thử nghiệm phát hình màu. Nửa đầu thập
niên 1980, cơng cuộc phát hình màu của các đài truyền hình bắt đầu diễn ra. THTƯ
chính thức chuyển sang phát hình màu tồn thời gian vào đầu tháng 8 năm 1986.
Được sự tài trợ của Chính phủ Liên Xơ, tháng 7 năm 1980, Đài Vệ tinh mặt đất
Hoa Sen 1 (cách thị xã Phủ Lý 20 km) cùng tuyến vi ba với trạm chuyển tiếp tại
Phú Xuyên (Hà Tây) đã hoàn thành để truyền tín hiệu về Bưu điện Bờ Hồ (Hồn
Kiếm) và Đài Truyền hình Việt Nam ở Giảng Võ.
5 năm sau, năm 1985, Liên Xô tiếp tục tặng Việt Nam Đài Vệ tinh Hoa Sen 2, đặt
tại đường Mạc Đĩnh Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Giai đoạn 1990–2007:
Ngày 30 tháng 1 năm 1991, Chính phủ ra quyết định số 26/CP giao cho Tổng cục
Bưu điện thuê vệ tinh Intesputnik truyền dẫn tín hiệu phát thanh truyền hình. Các
kênh VTV2 và VTV3 của VTV lần lượt được lên sóng trong tình trạng thiếu hụt
băng tần; ba kênh VTV đã có lúc phải chia sẻ chung một kênh tần số.
Những năm cuối thập niên 1990, trên thế giới xuất hiện 3 tiêu chuẩn phát sóng
truyền hình số: ATSC của Mỹ (1995), DVB-T của châu Âu (1997) và DiBEG của
Nhật. Truyền hình Việt Nam phải đứng trước sự lựa chọn giữa ba tiêu chuẩn này.
Cuối cùng, qua các cuộc thử nghiệm, Hội đồng Khoa học Đài Truyền hình Việt
Nam đã nhất trí trình lãnh đạo đài ký quyết định lựa chọn tiêu chuẩn truyền hình số
mặt đất cho Việt Nam. Trưa ngày 26 tháng 3 năm 2001, ơng Hồ Anh Dũng - lúc đó
là Tổng Giám đốc Đài THVN - đã chính thức ký quyết định lựa chọn tiêu chuẩn
truyền hình số mặt đất DVB-T.
9
Năm 2003, VTV bắt đầu phát sóng 2 kênh VTV1 và VTV3 theo chuẩn DVB-T.
Cũng trong thời điểm này, BTV chính thức phát sóng 24/24h kênh BTV3 trên kỹ
thuật số, ở vị trí 50 UHF, tạo tiền đề cho việc các Đài Truyền hình phát sóng
24/24h sau này.
Năm 2004, VCTV bắt đầu khai trương dịch vụ truyền hình số vệ tinh DTH, sau đó
cung cấp dịch vụ Internet băng thơng rộng trên mạng DTH và Truyền hình Cáp vào
năm kế tiếp.
Giai đoạn 2008 đến nay
2008 là thời điểm truyền hình độ phân giải cao HD bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam,
với việc truyền hình cáp HTVC lên sóng các kênh HTV7, HTV9, FBNC trên hệ
thống theo tiêu chuẩn HD.
Tháng 9 năm 2008, Cơng ty Nghe nhìn Tồn cầu (AVG) chính thức phát sóng tại
khu vực miền Bắc và miền Trung truyền hình số mặt đất theo chuẩn DVB-T2.
Tháng 6 năm 2009, Cơng Ty TNHH Truyền hình số Vệ tinh Việt Nam (VSTV),
liên doanh giữa Trung tâm Kỹ thuật Truyền hình cáp của VTV và Cơng ty Canal
Oversea chính thức được thành lập. Đầu năm 2010, cơng ty này chính thức ra mắt
thương hiệu Truyền hình số vệ tinh K+.
Tháng 11 năm 2011, Cơng ty Nghe nhìn Tồn cầu (AVG) chính thức phát sóng
tồn quốc truyền hình số mặt đất theo chuẩn DVB-T2. Năm 2013, VTV phát sóng
thử nghiệm truyền hình số tại một số thành phố lớn theo tiêu chuẩn DVB-T2 và
phát sóng chính thức từ năm 2014.
Từ tháng 9 năm 2016, SCTV đã tiến hành thử nghiệm truyền hình độ nét siêu cao
4K trên hệ thống truyền hình cáp đang có, lần đầu tiên tại Việt Nam. Từ năm 2016
đến nay, hàng loạt kênh truyền hình đồng loạt cơng bố phát sóng HD, thậm chí là
10
Full HD 1080i, như Vĩnh Long, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Đồng Tháp, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Bình Dương...
Đến nay, hệ thống truyền hình Việt Nam đã có 1 Đài truyền hình quốc gia, 5 đài
truyền hình khu vực và 64 đài phát thanh – truyền hình đại phương; 4 kênh truyền
hình cáp hữu tuyến CATV; tổng thời lượng 200 giờ/ngày được phủ sóng 80% tồn
quốc. Ngồi việc nâng cao cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại về máy
móc….
Truyền hình Việt Nam chú trọng việc đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân
viên, cán bộ kỹ thuật, đặc biệt là đội ngũ phóng viên, biên tập, tiêu chuẩn hóa đội
ngũ cán bộ phục vụ cho ngành truyền hình hiện đại phù hợp với xu thế tồn cầu
hóa trong truyền thơng đại chúng thế giới.
II. Truyền hình liệu có bị biến mất trong tương lai hay khơng? Vì
sao?
Hãy nhớ một thời mà khơng ai có một máy fax? Rồi đột nhiên mọi người đều có
một máy fax. Và bây giờ khơng ai có máy fax nữa. Những gì trước đây sẽ đến qua
fax ngày nay là tệp đính kèm PDF vào e-mail hoặc văn bản hoặc cho một trong số
các dịch vụ nhắn tin. Sự chuyển đổi tương tự cũng đang xảy ra với truyền hình
truyền thống và vì những lý do tương tự. Người ta dần đặt nghi vấn liệu: “ Truyền
hình liệu có biến mất như điện thoại bàn hay thư tay?”
1. Ngành truyền hình đang gặp phải những khó khăn gì?
Trong suốt cuối năm 2014 và đầu đến giữa năm 2015, tổng lượt xem truyền hình
đã giảm khoảng 8%. Sự thay đổi kịch tính hơn ở những người từ 18 đến 24. Dữ
liệu xếp hạng cho thấy những người xem này xem TV ít hơn 1/5 so với một năm
trước đó.
11
Mức độ phổ biến của truyền hình khơng ngừng thu hẹp vì một số xu hướng khác
nhau. Facebook Live đã giúp mọi người có thể tải video trực tiếp lên Web và một
số chương trình phát sóng này đã thu hút hàng triệu người xem. Các công ty
Internet gần đây cũng bắt đầu truyền tải các sự kiện thể thao trực tiếp.
Diffusion Group (TDG) ước tính rằng đến năm 2030, thị trường truyền hình trả
tiền “truyền thống” - truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh - sẽ thu hẹp 26%, chỉ
cịn 60% hộ gia đình đăng ký truyền hình trả tiền truyền thống.
Ngành Truyền hình đang bắt đầu đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn đặc
biệt là sự ảnh hưởng ngày càng lớn của các loại hình mạng xã hội bên cạnh
việc phải đổi mới tư duy, phương thức sản xuất nội dung. Ngày nay, thay vì
xem truyền hình, nhiều người đã chọn mạng xã hội để tiếp nhận thơng tin,
theo dõi những chương trình mà họ u thích, thậm chí đó là những chương
trình do chính các đài, kênh truyền hình tự sản xuất nhưng bị vi phạm bản
quyền và được đăng tải trên các mạng xã hội, đặc biệt là Youtube và các
mạng chia sẻ video trực tuyến khác.
Chính sự phát triển của cơng nghệ kỹ
thuật đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến vị trí
của truyền hình. Cũng bởi điều này mà
khơng ít người lo ngại rằng rồi “Truyền
hình cũng sẽ biến mất như thư tay và
điện thoại bàn”. Khi mà một biết bị tiện
lợi hơn, nhỏ gọn và thông minh hơn ra
đời, các thiết bị cũ dần bị thay thế cũng là điều tất yếu.
12
Một ví dụ đơn giản như Netflix (cơng ty thống trị trong ngành truyền thông theo
yêu cầu). Bằng cách tạo ra chương trình gốc hấp dẫn, phân tích dữ liệu người dùng
để phục vụ người đăng ký tốt hơn và trên hết là cho phép mọi người xem nội dung
theo cách họ thích, Netflix đã phá vỡ ngành cơng nghiệp truyền hình và buộc các
cơng ty truyền hình cáp phải thay đổi cách họ kinh doanh.
Về lâu dài, thành công của Netflix có thể dẫn đến việc tháo gỡ các kênh truyền
hình cáp. Có nghĩa là, khách hàng truyền hình cáp có thể được phép chọn và chọn
kênh chứ khơng phải trả tiền cả đợt để có được thứ họ muốn.
Đây cũng là điều mà truyền hình khó mà làm được, khi các chương trình phát
sóng đều có khung giờ phát sóng cụ thể. Với điện thoại thơng minh, họ có thể xem
chương trình mình u thích ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào với mức phí rẻ hơn. Tin
tức cũng có thể đọc ngay trên Facebook, Twiter mà khơng phải mở đến tivi. Chính
vởi điều này mà khán giả thường có xu hướng lựa chọn điện thoại thơng mình
nhiều hơn truyền hình.
2. Đổi mới truyền hình về cả hình thứ và nội dung
Cũng giống như báo chí điện tử, truyền hình cũng buộc phải phát triển theo hướng
chuyên sâu, chuyên biệt. Cụ thể, việc sản xuất các chương trình nội dung phải có
chiến lược nhất định, thống nhất và xuyên suốt với kênh sóng mà nó đã hiện diện
nhằm định vị được khán giả. Điều này sẽ giúp truyền hình giữ chân được khán giả
và khơng biến mất như điện thoại bàn hay thư tay.
2.1. Sự thay đổi về hình thức
Các cơng ty như Meta (trước đây là Facebook), Google và Microsoft đều đã phát
triển công nghệ thực tế ảo. Trong vịng 10 năm tới, màn hình TV truyền thống có
kết hợp với kính đeo mắt và tai nghe thực tế ảo (VR). Sự thay đổi cho phép người
dùng truyền phát video và nhạc, duyệt Internet và xem ảnh, nó sẽ có mặt ở khắp
13
các gia đình trên tồn thế giới, làm tăng thêm sức mạnh và tiềm năng của thực tế
ảo và lập trình trong tương lai.
Đang có một cuộc chạy đua giữa các ông lớn công nghệ để dẫn đầu trong việc phát
triển TV thông minh, bao gồm cả các công ty trong và ngoài ngành. Các doanh
nghiệp như Google, Apple, Netflix và Amazon đều đang phát triển những chiếc TV
thông minh mạnh mẽ hơn và xu hướng này có khả năng làm cho cơng nghệ này có
giá cả phải chăng hơn nhiều đối với người tiêu dùng.
2.2. Đổi mới nội dung
Sự thay đổi về hình thái sẽ là khơng đủ. Nếu chúng ta vẫn muốn duy trì sự tồn tại
của TV, khó có thể tránh khỏi việc phải thay đổi các tiêu chuẩn nội dung ban đầu.
Hiện nay, người dùng đã bị bao quanh bởi các loại màn hình hiển thị khác nhau.
Mọi người đều chìm đắm trong thế giới kết nối Internet. Cho dù xem video hay
nhận thông tin, TV truyền thống khơng cịn là lựa chọn hàng đầu. Số lượng người
ngồi lặng lẽ trước TV cũng tự nhiên ngày càng ít đi.
14
Dường như chỉ khi bạn muốn xem một số nội dung đặc biệt, cần hiển thị trên màn
hình lớn, TV mới được nhớ tới. Còn hầu hết trong các trường hợp, TV chỉ được bật
lên như một thứ để phát ra âm thanh nền trong khi làm việc nhà, hoặc thỉnh thoảng
xem các game show hay chương trình tạp kỹ với người lớn tuổi. Với nhiều người,
TV tồn tại như một món đồ nội thất trong phịng khách.
Nhưng nếu thay đổi nội dung, TV sẽ là một thiết bị đáng phải nhìn nhận lại trong
tương lai. Một số người nói rằng họ muốn loại bỏ quảng cáo giữa các tập phim,
một số người nói rằng muốn nó giống như một màn hình máy tính với khả năng
tương tác ứng dụng văn phịng. Có người lại muốn nó trở thành một phần mở rộng
của các màn hình khác, giống như một nền tảng stream và cho phép tương tác. Đây
là những thói quen mới của người dùng trong thời đại kỹ thuật số mà một chiếc TV
có thể hồn tồn đáp ứng.
Số lượng kênh tin tức tổng hợp sẽ ngày càng bị cắt giảm, thay vào đó sẽ lên ngơi
những kênh sóng chuyên phát các nội dung chuyên biệt về một ngành nghề, lĩnh
15
vực, sở thích, lứa tuổi nào đó mà khán giả quan tâm, có nhu cầu xem thường
xuyên. Chẳng hạn, nếu khán giả thích xem thời sự tổng hợp, họ có thể bật kênh
CNN, Fox News, NBC, ai muốn xem các thể loại khám phá - khoa học - lịch sử có
các kênh: National Geographic, History, Discovery Channel. Người thích phim ảnh
có thể xem phim liên tục trên kênh: Starmovie, HBO. Nếu là đối tượng trẻ em có:
Cartoon Network, Kid Arttack, Davinci. Ai thích thể thao, hoạt động ngồi trời có
ngay: Starsport, Outdoor TV… Đây cũng là chiến lược mà các đài, kênh truyền
hình ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam hướng tới.
Tháng 9/2015, khi Apple phát hành phiên bản Apple TV mới, CEO Tim Cook cũng
bày tỏ quan điểm rằng "tương lai của truyền hình là ứng dụng". Nói rộng ra thì tùy
thuộc vào ứng dụng, TV có thể là rạp hát tại nhà, bảng điều khiển trị chơi hoặc
một quản gia thơng minh. Khi việc xem TV khơng cịn gắn liền với lý do duy nhất
là xem tin tức, xem trò chơi và xem phim, bản thân TV sẽ không phải lo lắng về
việc bị các loại màn hình khác thế chỗ.
3. Kết luận
Nói gì thì nói, truyền hình vẫn khơng thể bị thay thế bới các phương tiện truyền
thơng mới. Vì:
Truyền hình là một kênh truyền thống, nhưng với công nghệ mới như hiện
nay, mức độ tích hợp ngày càng cao hơn.
Người ta có thể sử dụng màn hình tivi như máy tính, cũng có thể vào
internet…, và các chương trình tivi cũng có thể xem được trên điện thoại di
động.
Tất cả những thứ đó được xem là phương tiện phát sóng truyền hình, nên
khơng thể nói là truyền hình sẽ “chết” khi internet phát triển như người ta đã
đánh giá.
16
Hơn nữa, mọi người vẫn thích nghe âm thanh, thích xem hình ảnh, nên
khơng gì có thể thay thế tivi được. Càng ngày, các phương tiện càng gần
nhau hơn.
So với điện thoại bàn, truyền hình có nhiều cơ hội để phát triển và cải tiến cơng
nghệ hơn, đó cũng chính là điều níu chân khán giả ở lại. Thế nhưng truyền hình
nếu khơng theo kịp với xu thế chung của thời đại thì sẽ khơng thể giữ được vị thế
của mình như xưa, cái thời mà mọi người khi về tới nhà là tìm cách ngả lưng, bật
máy thu hình, vừa nghỉ ngơi vừa xem tin tức cũng như cái chương trình vui chơi
giải trí. Đó là vì những nội dung mà trước kia màn hình TV là độc quyền thì nay
người ta đều có thể thưởng thức bằng các thiết bị khơng phải là máy thu hình như
máy tính, điện thoại di động…
Vậy cơng nghệ truyền hình có chịu thụ động để cho thị trường của mình bị thu hẹp
khơng? Xin thưa, hồn tồn khơng. Bằng chứng là hiện nay cơng nghệ truyền hình
đang cố gắng hồn thiện mình để phục vụ tốt hơn cho khách hàng. Những bằng
chứng của việc này là:
17
Cố gắng cung cấp các chương trình hay với chất lượng hình ảnh và âm thanh
vượt trội mà các cơng nghệ khác khó sánh bằng. Cụ thể đó là truyền hình có
độ phân giải cao (HDTV) và siêu cao (Super HDTV), truyền hình nổi
(3DTV); âm thanh đa kênh.
Cung cấp nội dung truyền hình trên các thiết bị khác nhau (TV, màn hình
máy tính, điện thoại di động). Thực hiện truyền hình 3 màn nhằm đảm bảo
cho người xem có thể “tiêu thụ” nội dung bằng bất cứ thiết bị nào, ở bất cứ
đâu, vào bất cứ thời điểm nào (anydevice, anwhere, anytime).
Ứng dụng công nghệ tương tác để làm sinh động nội dung nhằm hấp dẫn
khán giả.
Nghiên cứu và thực hiện cơng nghệ "Truyền hình thơng minh" (SmartTV)
nhằm đảm bảo cho máy thu hình (TV) giữ vai trị chủ đạo cho các thiết bị
giải trí trong gia đình, chiếc máy thu hình là một thiết bị đa phương tiện đáp
ứng rất nhiều yêu cầu sử dụng của khách hàng.
Để ngồi vững vị trí của mình, các đài truyền hình sẽ cần tới sự sáng tạo, khơn
ngoan, tài năng, trí tưởng tượng, sự hiểu biết, táo bạo, dám đón nhận thách thức để
có thể tạo ra những chương trình truyền hình đủ sức cạnh tranh với đối thủ và giữ
chân khán giả.
Kết luận
Ngành truyền hình trong tương lai sẽ phát triển khơng tách rời viễn thơng, hay nói
cách khác, kết nối với mạng viễn thông và cung cấp các dịch vụ truyền hình online
18
sẽ là một xu thế tất yếu của truyền hình nếu muốn tìm kiếm và duy trì sự quan tâm
của khán giả. Với xu hướng này, truyền hình sẽ khơng chỉ phục vụ khán giả offline
theo cách truyền thống mà sẽ ngày càng dịch chuyển về truyền hình trên nền IP,
trong đó mạng Internet khơng chỉ là kênh quảng bá các chương trình truyền hình
mà cịn là nơi "tiếp sóng" truyền hình để cho phép khán giả xem truyền hình mọi
nơi, mọi lúc.
Truyền hình có biến mất như thư tay hay điện thoại bàn? Câu trả lời là rất khó. Với
những gì truyền hình đang chuyển mình để thay đổi thì càng khó hơn. Truyền hình
có thể ít người xem hơn, nhưng những chương trình phát sóng có tính đặc thù, tin
tức bản tin hay các bộ phim truyền hình vẫn sẽ là sức hút lôi kéo khán giả. Nếu có
khác chỉ khác cách nó được phát sóng, khơng cịn là sóng vơ tuyến, truyền hình sẽ
bắt tay với internet và tiếp tục hành trình của mình.
19