Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

PLDC tố tụng hình sự và các giai đoạn tố tụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.84 KB, 6 trang )

Quan hệ xã hội phát sinh từ quá trình tố tụng giữa các cơ quan và những người tiến
hành tố tụng với người tố tụng được pháp luật tố tụng hình sự tiến hành trực tiếp điều
chính, trong đó những quy định về quyền cũng như nghĩa vụ của cơ quan của các bên
tham gia tố tụng. Cùng tìm hiểu Tố tụng hình sự và các giai đoạn của quá trình tố tụng
qua bài viết dưới đây.

1. Tố tụng hình sự là gì?
Tố tụng hình sự là những trình tự, thủ tục để xem xét, đánh giá một hành vi cụ thể có phải
là tội phạm được quy định trong bộ luật hình sự hay khơng, người thực hiện hành vi có phải
chịu trách nhiệm hình sự khơng và một số vấn đề liên quan đến thi hánh án hình sự.

2. Các giai đoạn của Tố tụng hình sự
2.1. Tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Theo Điều 144 BLTTHS:

“Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu
tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan,
tổ chức, cá nhân thơng báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội
phạm trên phương tiện thông tin đại chúng”
– Trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố:
Bộ Luật TTHS quy định cơ quan điều tra, viện kiểm sát và cơ quan khác được
giao nhiệm vụ có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố. (Điều 145 Bộ luật TTHS).
– Về thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố (Điều 147)
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết
định:
a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;




b) Quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự;
c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố.
Trong trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp có thể kéo dài nhưng khơng q
2 tháng. Có thể được Viện kiểm sát gia hạn thêm một lần nhưng cũng không
quá 2 tháng.
2.2. Khởi tố, điều tra
Sau khi kết thúc giai đoạn giải quyết tín báo, tố giác về tội phạm, cơ quan có
thẩm quyền phải ra một trong các quyết định: khởi tố vụ án hình sự; khơng
khởi tố vụ án; tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố.
Điều tra là giai đoạn mà trong đó cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến
hành các biện pháp nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các
tình tiết của vụ án hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự
Giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm
quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều
tra và đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tịa án hoặc đình chỉ vụ án
hình sự.
Về thời hạn điều tra quy định tại điều 172 BLTTHS:

“Không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, khơng quá 03 tháng
đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho
đến khi kết thúc điều tra.”
Các trường hợp gia hạn điều tra được quy định chi tiết trong điều 172
BLTTHS
2.3. Truy tố

Giai đoạn truy tố được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận được các tài liệu
của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do Cơ
quan điều tra chuyển đến và kết thúc bằng việc Viện kiểm sát ra một trong ba
loại quyết định sau: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận


về tội trạng), trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án
hình sự.
– Về thời hạn truy tố, điều 240 BLTTHS quy định:

Điều 240. Thời hạn quyết định việc truy tố
Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm
trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát
phải ra một trong các quyết định:
a) Truy tố bị can trước Tòa án;
b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với
bị can.
Trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn
quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm
trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2.4. Xét xử VAHS
– Xét xử sơ thẩm

+ Giai đoạn chuẩn bị xét xử (điều 276, 277 BLTTHS)
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng thì Tịa án phải
thụ lý vụ án. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tịa án
phải phân cơng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án.

Thời hạn chuẩn bị xét xử là 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày
đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03
tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án phức tạp có thể gia hạn thời hạn xét xử khơng quá 15 ngày đối
với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối
với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.


Sau khi kết thúc giai đoan chuẩn bị xét xử, thẩm phán ra một trong các quyết
định: Đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án
hoặc đình chỉ vụ án
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án
phải mở phiên tịa; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách
quan thì Tịa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày.
* Thẩm quyền xét xử của Tòa các cấp.
Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp khu vực xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và tội
phạm rất nghiêm trọng trừ những tội phạm sau đây: Các tội xâm phạm an
ninh quốc gia; các tội phá hoại hịa bình, chống lồi người và tội phạm chiến
tranh; các tội phạm quy định tại các Điều 92, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219,
221, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322, 323 của BLHS.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự khơng thuộc thẩm quyền của Tịa án nhân dân cấp
huyện và Tòa án quân sự cấp khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.
* Phiên tịa hình sự sơ thẩm bao các giai đoạn.
Giai đoạn bắt đầu phiên tòa: ở giai đoạn này Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
làm các thủ tục cần thiết trước khi xét hỏi như: kiểm tra sự có mặt của những
người tham gia tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham
gia tố tụng, giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng,…

Giai đoạn xét hỏi
Trước khi bắt đầu xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng, sau đó Hội đồng
xét xử tiến hành xét hỏi làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, trực tiếp xem xét
vật chứng, tài liệu tại phiên tòa. Khi xét hỏi, Thẩm phán hỏi trước sau đó đến
Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa. Bị cáo, người tham gia tố tụng khác
có quyền yêu cầu xét hỏi thêm về những vấn đề chưa được làm rõ.
Giai đoạn tranh luận
Mở đầu giai đoạn tranh luận Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, sau đó người
bào chữa (nếu có), bị cáo trình bày lời bào chữa, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc


đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ. Kiểm sát viên phải tham gia đối đáp về những vấn đề còn mâu
thuẫn giữa lời luận tội, quan điểm xử lý vụ án của Kiểm sát viên với lời trình
bày của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Trong trường hợp qua
tranh luận mà phát hiện thêm những vấn đề chưa được làm rõ thì Hội đồng
xét xử quyết định trở lại việc xét hỏi, sau khi xét hỏi xong lại trở lại phần tranh
luận. Kết thúc phần tranh luân bị cáo được trình bày “lời nói sau cùng”.
Giai đoạn nghị án và tuyên án
Khi nghị án chỉ có thành viên Hội đồng xét xử (Thẩm phán, Hội thẩm) mới có
quyền này. Hội đồng xét xử phải lần lượt thảo luận và biểu quyết từng vấn đề
của vụ án; các thành viên của Hội đồng xét xử đều phải trình bày ý kiến của
mình về các vấn đề của vụ án, Hội thẩm phát biểu trước, Thẩm phán phát
biểu sau và là người biểu quyết sau cùng. Bản án, các quyết định của Hội
đồng xét xử phải được đa số thành viên của Hội đồng xét xử biểu quyết thơng
qua, người có ý kiến thiểu số được bảo lưu ý kiến trong hồ sơ; việc nghị án
phải được lập thành biên bản, bản án, các quyết định của Hội đồng xét xử và
biên bản nghị án phải được thơng qua tại phịng nghị án.
Sau khi nghị án xong Thư ký Tòa án yêu cầu các bị cáo và người tham gia tố

tụng vào phòng xử án, sau đó Chủ tọa phiên tịa thay mặt Hội đồng xét xử
đọc bản án, trong trường hợp bản án dài thì các Thẩm phán, Hội thẩm thay
nhau đọc.
– Xét xử phúc thẩm

+ Thời hạn kháng cáo (Điều 333)
1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên
án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tịa thì thời hạn kháng cáo
tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy
định của pháp luật.
2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày
người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
+ Thời hạn kháng nghị (Điều 337)
1. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án
cấp sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ
ngày Tòa án tuyên án.


2. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15
ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định.
2.5. Thi hành án hình sự
Là giai đoạn tố tụng hình sự nhằm thực hiện bản án và quyết định của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật.
2.6. Giai đoạn tố tụng đặc biệt: gồm giám đốc thẩm và tái thẩm
Giám đốc thẩm là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tồ án có thẩm quyền
xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vì phát hiện có vi
phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án.
Tái thẩm là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Tồ án có thẩm quyền xét
lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vì có những tình tiết mới

được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết
định mà Tồ án khơng biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó.



×