Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận Lịch sử Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.19 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Nguyễn Thị Hồng Thắm – 1954010157 – 010100510815
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NĂM 1930 LÀ
MỘT TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ VÀ LÀ NHÂN TỐ QUYẾT
ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM.

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đỗ Thị Ngọc Lệ

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
Chương 1: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NĂM 1930 LÀ MỘT TẤT
YẾU CỦA LỊCH SỬ ................................................................................................ 3
1.1. Bối cảnh lịch sử trong và ngoài nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ............ 3
1.1.1. Tình hình thế giới tác động đến cách mạng Việt Nam ................................ 3
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trước khi có Đảng .............................. 3
1.1.3. Các phong trào yêu nước – Tiền đề thực tiễn cho sự ra đời của Đảng ........ 5
1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ....................................................................... 6
1.2.1. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng ............................ 6
1.2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên .............. 8
1.3. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 là một tất yếu của lịch sử ........... 11
Chương 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NĂM 1930 LÀ NHÂN TỐ


QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM ............. 12
2.1. Những thắng lợi và thành tựu vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa lịch sử to lớn .................................... 12
2.2. Đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng – Nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam ................................................................... 13
2.3. Sinh viên Việt Nam bảo vệ và vận dụng nền tảng tư tưởng của Đảng trong
trong thời đại mới ..................................................................................................... 14
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 17

1


LỜI MỞ ĐẦU
Những năm đầu của thế kỷ XX, trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, từ lòng yêu nước thương dân, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và đã tìm thấy ở học thuyết khoa học và cách mạng
đó con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc. Với sự nghiên cứu, vận dụng sáng
tạo lý luận và hoạt động thực tiễn sôi nổi, phong phú, Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
đồng thời cùng với các đồng chí của mình chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng, lý
luận, chính trị và tổ chức, cán bộ để thành lập một Đảng cách mạng chân chính.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước chuyển biến
quyết định của cách mạng Việt Nam. Với cương lĩnh và đường lối đúng đắn, sáng tạo
của mình, Đảng đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân giành nhiều thắng lợi cho cách mạng
Việt Nam. Dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kỳ khó khăn, gian
khổ và đã giành được những thắng lợi rất đáng tự hào, đưa nước ta bước vào một kỷ
nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội; mở ra thời
đại mới: Thời đại Hồ Chí Minh.
Nhận thấy được vai trò quan trọng và những thắng lợi vẻ vang trong dấu ấn

thành lập Đảng, với cương vị là một công dân của đất nước Việt Nam, trên nền tảng
kiến thức đã được học tập và quá trình nghiên cứu, tơi chọn tìm hiểu đề tài: “Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 là một tất yếu của lịch sử và là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.

2


Chương 1: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NĂM 1930 LÀ MỘT
TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ
1.1. Bối cảnh lịch sử trong và ngoài nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1.1.1. Tình hình thế giới tác động đến cách mạng Việt Nam
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền. Các nước đế quốc bên trong tăng cường bóc lột nhân dân
lao động, bên ngồi xâm lược các dân tộc thuộc địa, làm cho đời sống nhân dân các
nước trở nên khốn đốn. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân
ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi khắp nơi.
Năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, gây ra những hậu quả đau thương
cho nhân dân các nước, đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và mâu
thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng thêm. Tình hình đó đã tạo điều kiện
cho phong trào đấu tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng phát
triển mạnh mẽ.
Đầu thế kỷ XX, trên phạm vi quốc tế, sự thức tỉnh của các dân tộc châu Á cùng
với phong trào dân chủ tư sản ở Đông Âu đã tạo thành một cao trào thức tỉnh của các
dân tộc phương Đông. Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi có ý nghĩa
vơ cùng to lớn trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các nước tư bản, là
tấm gương sáng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, làm cho phong
trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản phương Tây và phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa phương Đơng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc
đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản

được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920), Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin được công
bố đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. Cách mạng
tháng Mười Nga và hoạt động của Quốc tế Cộng sản đóng vai trị quan trọng trong
việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam và Đơng Dương.
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trước khi có Đảng
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, nước ta là một nước phong kiến với nền
nông nghiệp lạc hậu. Triều đình nhà Nguyễn thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại
3


vơ cùng bảo thủ, bên trong đàn áp, bóc lột nhân dân, bên ngoài bế quan tỏa cảng từ
chối mọi cải cách, làm cho đất nước ta khơng có cơ hội tiếp xúc với những nền văn
minh trên thế giới. Năm 1958, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Chế độ
phong kiến Việt Nam nhanh chóng lâm vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, triều
đình nhà Nguyễn đã từng bước thỏa hiệp (Hiệp ước 1862, 1874 và 1883). Ngày
6/6/1884, triều đình nhà Nguyễn kí Hiệp ước Patenotre, chính thức đầu hàng thực dân
Pháp.
Sự thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có sự thay đổi
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị tàn bạo, tước bỏ quyền
đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đàn áp đẫm máu các
phong trào yêu nước của người Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt
Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai
trị riêng. Đời sống nhân dân ta đi vào ngõ cụt, mất hết quyền tự do dân chủ.
Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành 2 cuộc khai thác thuộc địa: Cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914) và khai thác thuộc địa lần hai (1919 – 1929).
Chúng cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt
ruộng đất để lập đồn điền; vơ vét tài ngun cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề;
xây dựng các cơ sở công nghiệp, đường giao thơng, bến cảng phục vụ chính sách khai

thác thuộc địa. Chế độ cai trị hà khắc của thực dân Pháp đối với Việt Nam là “chế độ
độc tài chuyên chế nhất, nó vơ cùng khả ố và khủng khiếp hơn cả chế độ chuyên chế
của nhà nước quân chủ châu Á đời xưa”1
Về văn hóa – xã hội, thực dân Pháp tiến hành chính sách “ngu dân”, ngăn cản
ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc
lịch sử Việt Nam và dung túng các hủ tục lạc hậu. Chúng dùng rượu và thuốc phiện
đầu độc người Việt. Năm 1862, thực dân Pháp lập nhà tù Côn Đảo để giam cầm
những người Việt Nam yêu nước chống Pháp.
Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt. Phần lớn
giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nơng dân; một bộ phận địa
chủ có lịng u nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức khác
nhau. Các tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất
1

Phan Văn Trương, bài đăng trên tờ La Cloche Fêlée, số 36, ngày 21/1/1996.

4


nước bị áp bức, bóc lột nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Giai cấp tư sản Việt Nam
xuất hiện sau giai cấp công nhân, một bộ phận gắn liền lợi ích với tư bản Pháp, trở
thành tầng lớp tư sản mại bản, một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc bị thực dân Pháp
kìm hãm và lệ thuộc về kinh tế. Tầng lớp tiểu tư sản bị tư bản khinh miệt nên cực kì
nhạy cảm về chính trị. Một bộ phận sĩ phu phong kiến hướng sang tư tưởng dân chủ
tư sản hoặc tư tưởng vô sản, một bộ phận khởi xướng các phong trào yêu nước.
Nói chung, tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã có sự biến
đổi rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế và xã hội. Mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội
Việt Nam lúc này không chỉ là mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ
phong kiến mà còn là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược. Yêu cầu khách quan của lịch sử là phải tìm được con đường giải phóng

dân tộc đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng được nguyện
vọng của dân tộc, mở đường cho dân tộc ta phát triển.
1.1.3. Các phong trào yêu nước – Tiền đề thực tiễn cho sự ra đời của Đảng
Ngay từ thời gian đầu, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân
dân Việt Nam đã diễn ra liên tục trên cả nước. Đến năm 1884, mặc dù triều đình nhà
Nguyễn đã đầu hàng, nhưng một bộ phận phong kiến yêu nước cùng với nhân dân
vẫn tiếp tục đấu tranh vũ trang chống Pháp. Trên trên vũ đài chính trị xuất hiện một
số trào lưu yêu nước và một số đảng phái chính trị đều với mong muốn gánh vác sứ
mệnh lịch sử cứu vớt dân tộc Việt Nam thốt khỏi xiềng xích nơ lệ. Tuy nhiên do
thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng nên các phong trào đã lần lượt
thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương
đã chấm dứt, kéo theo hàng loạt thất bại của các cuộc khởi nghĩa khác như Ba Đình
(Thanh Hóa), Bãi Sậy (Hưng n), Hương Khê (Hà Tĩnh),…; phong trào nơng dân
n Thế của Hồng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc,…Cách mạng Việt
Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Tuy vậy, những phong trào này đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước
của nhân dân, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và cơng cuộc giải
phóng dân tộc. Nhiệm vụ lịch sử cấp bách đặt ra cho thế hệ yêu nước bấy giờ là cần

5


phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải
phóng dân tộc.
1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
1.2.1. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước thì
người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước theo

phương hướng mới vào ngày 5/6/1911. Với khát vọng giành độc lập tự do cho đất
nước, Người đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu,
châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân
là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng
như ở các nước thuộc địa.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6/1919,
với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước Việt Nam
gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm địi Chính
phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc
Việt Nam. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa", và chính từ đây, Người tìn thấy
con đường đấu tranh giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc mình. Năm 1920,
Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu
Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày 30/12/1920, Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc
tế III và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này
đánh dấu bước ngoặt chuyển biến lập trường của Người, từ một người yêu nước trở
thành một người cộng sản.
Từ năm 1921 – 1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng
sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Người cùng các đồng chí cách mạng gấp rút tiền bối chuẩn bị những điều kiện
cho sự ra đời của Đảng vô sản ở Việt Nam.
Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Về tư tưởng, năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước
thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sáng lập

6


tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời

sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,... Năm 1922, Nguyễn
Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương cho Ban Nghiên
cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1925, Người viết tác phẩm “Bản án
chế độ thực dân Pháp” nhằm tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột của chủ nghĩa
thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp
bức đấu tranh giải phóng. Năm 1927, Người khẳng định:“Đảng muốn vững phải có
chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”2.
Về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng
giải phóng dân tộc từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Người khẳng định con đường cách mạng của các
dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; hai cuộc giải phóng này
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân
tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở “chính quốc” mà thành
cơng trước cách mạng vơ sản ở “chính quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng
vơ sản ở “chính quốc”. Người chỉ rõ nông dân là lực lượng đông đảo nhất, cũng là
lục lượng bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, vì vậy phải xây dựng khối liên minh công
nông làm động lực cách mạng. Người nêu rõ: “công nông là gốc của cách mệnh; cịn
học trị nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông”3.
Về vai trò của Đảng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định cách mạng “trước hết phải
có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” 4. Cách mạng Việt Nam
muốn thắng lợi cần phải có Đảng lãnh đạo với đường lối sáng suốt, phù hợp.
Về tổ chức, năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng lập ra Hội
Liên Hiệp các dân tộc thuộc địa nhằm chống chủ nghĩa thực dân, từng bước thực hiện
“lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu
tranh giành tự do độc lập”5. Tháng 11/1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc),
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.289.

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.288.
4
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.289.
5
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 1, tr.209.
3

7


cùng các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Thái Lan…thành lập Hội
Liên Hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông. Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu, nịng cốt là Cộng sản đồn để
huấn luyện cán bộ truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân, phong
trào yêu nước ở Việt Nam. Tờ báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo,
bồi dưỡng cho những người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đây là cuốn
sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Tác phẩm đã xác định rõ con đường,
mục tiêu và phương pháp đấu tranh của cách mạng. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên với những nổ lực trong quá trình hoạt động, đã đưa chủ nghĩa Mác – Lênin thâm
nhập vào cách mạng Việt Nam một cách bài bản, tạo sự phát triển mạnh mẽ của phong
trào cứu nước theo khuynh hướng cách mạng vơ sản. Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên chính là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
1.2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Các tổ chức cộng sản ra đời
Tháng 3/1929, nhận thấy tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên khơng
cịn thích hợp trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam,
những người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc kỳ (Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức
Cảnh,...) họp tại số nhà 5D, phố Hàm Long, Hà Nội, quyết định lập Chi bộ Cộng sản

đầu tiên ở Việt Nam. Ngày 17/6/1929, đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc kỳ
họp tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm là Đảng kỳ và
quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
Tháng 11/1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam kỳ, An Nam Cộng sản
Đảng được thành lập tại Khánh Hội, Sài Gịn, cơng bố Điều lệ, quyết định xuất bản
Tạp chí Bơnsơvích. Tại Trung kỳ, Tân Việt Cách mạng Đảng chịu tác động mạnh mẽ
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô
sản. Tháng 9/1929, những người tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng đảng họp bàn
việc thành lập Đơng Dương Cộng sản Liên đồn. Sự ra đời ba tổ chức cộng sản đã
khẳng định bước phát triển của phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng

8


cách mạng vô sản, đáp ứng nhu cầu của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trong một
nước có ba tổ chức cộng sản ở ba miền sẽ khó tránh khỏi phân tán về lực lượng, nên
việc thống nhất các tổ chức thành một chính đảng là yêu cầu bức thiết lúc bấy giờ.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước nhu cầu cấp bách của cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của
Quốc tế Cộng sản, ngày 23/12/1929, Nguyễn Ái Quốc sang Trung Quốc để triệu tập
đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại
Hương Cảng, tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng
duy nhất. Hội nghị diễn ra từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930 với 5 nội dung lớn: Bỏ mọi
thành kiến xung đột cũ, thống nhất các nhóm cộng sản ở Đông Dương; Quyết định
thành lập Đảng Cộng sản và định tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; Thảo luận và thơng
qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng; Thực hiện
việc thống nhất trong nước; Bầu Ban chấp hành Trung ương lâm thời.
Hội nghị đã thông qua các văn kiện quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm

tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời xác định rõ
tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần
chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho
thực hiện xã hội cộng sản”. Quy định điều kiện vào Đảng: là những người “tin theo
chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và
dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một
bộ phận Đảng”6. Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặc to lớn đối
với cách mạng Việt Nam, chứng tỏ sự trưởng thành của giai cấp vô sản đủ sức lãnh
đạo cách mạng.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định rõ đường lối, nhiệm vụ, lực
lượng và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng
và ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam, bao gồm cả hai nội dung dân tộc
và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, song ưu tiên vẫn là chống đế quốc,
giành độc lập dân tộc. Cụ thể:
6

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr.7-8.

9


Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
Việt Nam được hoàn tồn độc lập, xây dựng Chính phủ cơng – nơng – binh và tổ
chức quân đội công nông.
Về kinh tế, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ
mới; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc chia cho dân cày nghèo, mở mang công
nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ.
Về văn hóa, dân chính được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thơng giáo
dục theo hướng cơng nơng hóa.

Lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi
các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ
những lực lượng và đảng phái phản cách mạng: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,…) để kéo họ đi vào phe vơ sản giai
cấp. Cịn đối với bọn phú nơng, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận
nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến,…) thì phải đánh đổ”7. Cương lĩnh
cũng chỉ rõ giai cấp lãnh đạo và lực lượng chính của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
là: “vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vơ sản có cầm quyền
lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”8.
Phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh
đổ đế quốc, phong kiến. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực thể hiện sự
thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ trang của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Con đường phát triển chỉ có thể là cách mạng chứ khơng thể là
cải lương, thỏa hiệp.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: Cương lĩnh nêu rõ: “...trong
khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và
thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản
giai cấp Pháp”9. Đồng thời, Cương lĩnh cũng xác định cách mạng Việt Nam là một
bộ phận gắn liền với cách mạng thế giới, đề cao vấn đề đoàn kết quốc tế là sự kết hợp
chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân, lợi ích
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 2, tr.4.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 2, tr.4.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 2, tr.94.
7
8

10



dân tộc và lợi ích tồn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức,
bất công trên thế giới.
Như vậy, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã đánh giá đúng thái độ của các tầng
lớp xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc, từ đó xác định đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam, những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất
dù là vắn tắt nhưng phản ánh được những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài của cách
mạng Việt Nam.
1.3. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 là một tất yếu của lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời
kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Sự kiện thành lập Đảng là một tất yếu của lịch sử, đánh dấu bước ngoặt
vô cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc,
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển phong trào cách
mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
và sự đồn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của dân tộc. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân
Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng; là một bộ phận của phong
trào cách mạng thế giới, tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang;
đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của
nhân loại trên thế giới.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã
khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam - con đường
cách mạng vơ sản. Con đường duy nhất đúng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải phóng con người. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác - Lênin chân chính với đường lối cách mạng
khoa học và sáng tạo là cơ sở lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng

Việt Nam, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công
cuộc phát triển của đất nước.

11


Chương 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NĂM 1930 LÀ NHÂN
TỐ QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.1. Những thắng lợi và thành tựu vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối
cứu nước giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách
mạng nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Một là, Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi thể hiện truyền thống quật
cường, lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước, quyết chiến đấu vì độc lập tự do, khơng cam chịu nơ lệ; đã
đập tan ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật đổ chế độ qn chủ hàng
nghìn năm, lập nên Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ công nông
đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đây dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh quang vinh.
Hai là, Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 thắng lợi báo hiệu sự sụp đổ chế độ
thực dân kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi tồn thế giới; giải phóng hồn
tồn miền Bắc, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi Điện Biên Phủ
đã báo hiệu sự sụp đổ chế độ thực dân kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi
toàn thế giới.
Ba là, Đại thắng mùa xuân 1975 là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải
phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; đánh dấu sự kết thúc sau
30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước, đưa cả
nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, đánh dấu một bước ngoặt quyết định mở đường

cho dân tộc Việt Nam tiến hẳn vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, thống nhất và
chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn
hóa - xã hội có bước phát triển; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao.
12


Năm là, thắng lợi trên lĩnh vực đối ngoại: Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng (12/1986), Đảng đề ra và thực hiện đường lối đối ngoại mở cửa, quan
hệ hợp tác đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, đẩy mạnh hội nhập quốc tế,
góp phần quan trọng vào việc tăng cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những thành tựu to lớn của cơng cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam trở thành
một trong những quốc gia đầu tiên tiến hành đổi mới thắng lợi theo định hướng
XHCN. Dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam - người lãnh
đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Từ thắng lợi của công cuộc đổi mới đất
nước, chúng ta có thể khẳng định một cách có cơ sở rằng, được trang bị bằng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tin và
đi theo, Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng lãnh đạo nhân dân
Việt Nam không chỉ thắng lợi trong đấu tranh giành và giữ chính quyền trong chiến
tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, mà cả trong xây dựng phát triển kinh tế,
xây dựng đất nước theo mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh".
2.2. Đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng – Nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài,

gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ
đại. Những thắng lợi đó đã đưa nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến trở thành
một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường Xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta
từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta ra
khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và
trên thế giới.
Trong lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam ln bám sát thực tiễn,
phân tích sâu sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu
trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Từ
khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh

13


oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ra đời mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Qua đấu tranh gian khổ, Đảng đã từng bước trưởng thành về chính trị,
tư tưởng, lực lượng cách mạng hùng hậu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương
pháp, chiến lược cách mạng thích hợp và linh hoạt; khơng ngừng củng cố và mở rộng
khối đại đồn kết tồn dân, xác định rõ kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt; giải
quyết thành công nhiều vấn đề cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo
đảm cho phong trào cách mạng phát triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân
tộc. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động và của tồn dân tộc. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân
là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta may mắn có được nền tảng lý luận vững chắc là chủ nghĩa Mác - Lênin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh và đã vận dụng một cách độc lập, sáng tạo nền tảng tư

tưởng ấy vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp
với sự phát triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Đảng khơng có lợi ích
nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận
dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
khơng ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và
năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tơn trọng quy luật khách
quan. Phải phịng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu
và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên"10.
2.3. Sinh viên Việt Nam bảo vệ và vận dụng nền tảng tư tưởng của Đảng trong
trong thời đại mới
Trong suốt q trình hoạt động, Đảng ta ln chú trọng công tác bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, coi đây là
một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, một nội dung cốt
10

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr.66.

14


lõi của công tác xây dựng Đảng. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức
tạp trên toàn thế giới, các thế lực thù địch, phản động đang sử dụng không gian mạng
để chống phá trực diện, cổ súy “giá trị” văn hóa phương Tây, gieo rắc hồi nghi trong
xã hội, nhất là trước những vấn đề nhạy cảm hòng lôi kéo người dân chống phá Đảng
và Nhà nước.
Là đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam, mỗi sinh viên có trách nhiệm tơn trọng và
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhận thức đầy đủ, sâu sắc những nội dung cơ bản
và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tin tưởng tuyệt

đối và nghiêm túc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tăng cường công tác
tuyên truyền pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp. Ra sức học tập, nâng cao ý
thức tự giác, kỷ luật trong việc vận dụng tư tưởng, đường lối của Đảng vào công cuộc
xây dựng đất nước.
Cần sáng suốt, nhạy bén để kịp thời phát hiện, vạch trần âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực hù địch. Tích cực đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện suy
thối về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng; tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng
do nhà trường và địa phương tổ chức, có ý thức học hỏi bạn bè đồng nghiệp để không
ngừng nâng cao trình độ lý luận chun mơn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, mỗi người cần
giữ gìn phẩm chất đạo đức trong sạch, gương mẫu của thanh niên Việt Nam; luôn nêu
cao ý thức trách nhiệm, sống hoà nhã, đoàn kết với tập thể; có ý thức trong tự phê
bình và phê bình; khiêm tốn và tơn trọng những người xung quanh.

15


KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc
và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt
Nam và hệ tư tưởng Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường
phát triển của dân tộc ta, giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách
mạng, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam.
Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống
nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng
vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này.
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua kể từ ngày có Đảng
lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của

Đảng ta và sức mạnh to lớn của nhân dân ta. Tự hào với những thắng lợi đã đạt được,
Đảng Cộng sản Việt Nam ln vững tay lái, sáng suốt lãnh đạo tồn dân tộc, trước
mắt tiếp tục thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước do Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra; phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bình Nguyên (02/02/2016), Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời – Tất yếu lịch sử,
bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, .
[Truy cập ngày 11/01/2022].
2. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2017), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Tồn tập, tập 2, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Tồn tập, tập 2, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh, Tồn tập (2011), các tập 1, 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Phan Văn Trương (21/01/1996), Bài đăng trên tờ La Cloche Fêlée, số 36.
8. Thạc sĩ Bùi Hữu Thêm (03/02/2017), Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất
yếu lịch sử, . [Truy cập ngày 10/01/2022].
9. Thạc sĩ Nguyễn Lương Thủy (20/01/2020), Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua,
. [Truy cập ngày 12/01/2022].

17




×