Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tư tưởng triết học trong truyện kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (996.67 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC FPT
CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ
IB1403 – NHÓM F0

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG
TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU

NGƯỜI THỰC HIỆN :
1. Bùi Việt Hoàng
2. Nguyễn Thuỳ Linh
3. Đồng Thị Thanh Loan
4. Nguyễn Thị Hương
5. Tạ Thị Ngọc
6. Đỗ Thị Hoài Thương


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ..............................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................................... 2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài..................................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................................... 3
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................................. 3
5. Tính mới của đề tài.................................................................................................................. 3
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................................................. 3
7. Kết cấu..................................................................................................................................... 3

B. NỘI DUNG ...........................................................................................................4
Chương 1. Truyện Kiều và những tư tưởng triết học ảnh hưởng đến Truyện Kiều của
Nguyễn Du.................................................................................................................................. 4
1.1 Bối cảnh lịch sử ra đời và những sáng tác của Nguyễn Du ............................................... 4
1.2. Những tư tưởng triết học ảnh hưởng đến Truyện Kiều của Nguyễn Du .......................... 5


Chương 2. Nội dung những tư tưởng triết học ....................................................................... 7
2.1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng triết học ......................................................................... 7
2.2. Tư tưởng triết học về nhân sinh ........................................................................................ 8
3.3. Tư tưởng triết học về xã hội trong Truyện Kiều của Nguyễn Du .................................. 12
Chương 3. Giá trị và hạn chế của tư tưởng triết học trong Truyện Kiều .......................... 14
3.1. Giá trị nhân sinh, giá trị xã hội và giá trị đối với văn hóa dân tộc ................................. 14
3.2. Những hạn chế của tư tưởng triết học trong Truyện Kiều .............................................. 17

C. TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................21

1


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nếu “thơ là người” thì qua Truyện Kiều ta có thể thấy được một Nguyễn Du từng trải trên
đường đời, một Nguyễn Du đầy tình u và ý chí, dù gặp bao nhiêu trắc trở, gian khổ. Cái hay của
Truyện Kiều không chỉ ở ngôn ngữ tráng lệ, văn chương thẩm mĩ, giàu ý nghĩa sâu sắc mà còn ở
chỗ tác giả đã mượn thân phận con người trong truyện để miêu tả nhân vật một cách tài tình. những
thăng trầm của cuộc đời, những vui buồn của con người và những thăng trầm lẫn lộn của hiện thực
xã hội. Xa hơn nữa, Nguyễn Du đã dùng Truyện Kiều để thể hiện một quan niệm sống mang tính
triết lý, một giá trị triết học - tôn giáo.
Khi đọc truyện Kiều, dù tâm hồn có sắt đá bao nhiêu ta cũng khơng thể dằn lịng mà khơng
rung cảm, thương cho nàng Kiều vì số “tài ba bạc mệnh” thương cho Nguyễn Du “sinh bất phùng
thời”, thương cho ta, thương cho những người đã sinh ra trong cuộc thế phù du ảo mộng… Lòng
thương ấy là gì, nếu khơng phải là chữ “Nhân” của Khổng Tử, chữ “Kiêm ái” của Mặc Tử, chữ
“Bác ái” của Jesus Christ và chữ “Từ bi” của đức Phật?
Chỉ bằng “Truyện Kiều” , Nguyễn Du đã cho ta thấy được giá trị triết học tôn giáo trong
tinh thần tổng hợp linh động của “Tam giáo đồng quy”, thấu hiểu mong muốn của Nguyễn Du mà
nhóm chúng em, F0 Team đã quyết định chọn đề tài này để có thể truyền đạt được giá trụ triết học

mà Nguyễn Du muốn gửi gắm đến người đọc.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bàn đến Truyện Kiều, mặc dù đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu ở các góc độ khác
nhau, nhưng Truyện Kiều vẫn là một đề tài hấp dẫn cho bất cứ ai đến với nó. Khơng phải là trường
hợp ngoại lệ, Truyện Kiều đặc biệt hấp dẫn và cuốn hút tác giả khi đặt vấn đề khám phá tư tưởng
triết học ẩn chứa trong tác phẩm. Việc tìm ra tư tưởng triết học trong Truyện Kiều sẽ góp phần lý
giải được phần nào nguyên nhân tạo ra giá trị bất hủ của Truyện Kiều và làm tăng tính giáo dục
bằng những luân lý đạo đức cho con người. Làm rõ tính triết học ẩn chứa trong Truyện Kiều sẽ
góp phần lý giải được về kiếp người, về số phận con người, hiểu thêm về quan niệm sống ở đời,
về triết lý nhân sinh, thấy được giá trị của những triết lý trong Truyện Kiều đối với xã hội, học
được cách ứng xử tao nhã, tế nhị, văn hóa và vơ cùng trí tuệ. Vì vậy, đề tài mong muốn khảo sát
các tư tưởng triết học trong Truyện Kiều, một tác phẩm văn học nổi tiếng của dân tộc, từ đó thấy
được giá trị của những tư tưởng triết học trong Truyện Kiều đối với văn hóa dân tộc và đối với đời
sống xã hội hiện nay. Đặc biệt trong thời kỳ phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công
nghệ thông tin như vũ bão, với xu thế hội nhập, mở rộng sự giao lưu về văn hóa như hiện nay thì
việc bảo tồn, giữ gìn, tơn vinh và học hỏi những giá trị tinh hoa của triết học dân tộc lại càng quan
trọng hơn bao giờ hết.

2


3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, ngoài ra còn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như so sánh, đối chiếu, phân tích và tổng hợp, phương pháp
liên hệ thực tiễn (Nguồn internet)

4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi của đề tài chỉ giới hạn trong việc phân tích tư tưởng triết học trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du dưới góc độ triết lý nhân sinh và triết lý xã hội. Lấy cuốn “Nguyễn Du và Truyện

Kiều” của Nguyễn Thạch Giang, khảo sát và chú thích làm tài liệu chính để trích dẫn những câu
Kiều.

5. Tính mới của đề tài
❖ Làm rõ ảnh hưởng của các dòng tư tưởng triết học đến Truyện Kiều của Nguyễn Du như
tư tưởng Việt Nam, tư tưởng Nho - Phật - Lão.
❖ Phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng triết học trong Truyện Kiều, đó là
triết lý nhân sinh và triết học xã hội.
❖ Từ việc nghiên cứu, làm rõ tư tưởng triết học trong Truyện Kiều, có thể rút ra những giá
trị và hạn chế của nó đối với đời sống xã hội và văn hóa của dân tộc.

6. Đóng góp của đề tài
❖ Giúp chúng ta hiểu hơn về tư tưởng triết học của dân tộc mình, từ đó hiểu thêm về tính
biện chứng trong tâm hồn người Việt, giải mã được sự phong phú trong đời sống tinh thần
và nghị lực vượt qua mọi khó khăn. , vất vả trong cuộc sống hàng ngày của người dân.
❖ Góp phần học tập và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc, giúp thế hệ trẻ Việt Nam
học tập tiếp thu, bảo tồn và trân trọng những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình.
❖ Có thể vận dụng những triết lý giáo dục mà Nguyễn Du gửi gắm trong Truyện Kiều vào
đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa người với người để cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn,
có văn hóa hơn.

7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bài gồm có 3 chương.

3


B. NỘI DUNG
Chương 1. Truyện Kiều và những tư tưởng triết học ảnh hưởng đến Truyện
Kiều của Nguyễn Du

1.1 Bối cảnh lịch sử ra đời và những sáng tác của Nguyễn Du
Những nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Truyện Kiều Trong cuốn “Kỷ niệm
200 năm - năm sinh Nguyễn Du”, do Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học phát hành
năm 1971, trong bài “Diễn Văn khai mạc lễ kỷ niệm 200 năm sinh thi hào dân tộc Nguyễn Du” do
ơng Hồng Minh Giám đọc đã khẳng định: Thời đại Nguyễn Du là thời đại đau khổ và oanh liệt
vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam, thời đại của chế độ phong kiến mục nát, thời đại của nhiều
cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp, nhất là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vĩ đại đã lật đổ vua chúa trong
nước và chiến thắng hai mươi vạn quân Mãn Thanh xâm lược. Nhưng rốt cuộc xã hội Việt Nam
thời ấy vẫn khơng thốt ra khỏi chế độ phong kiến. Với lời khẳng định trên, tác giả đã cung cấp
cho chúng ta thấy tình hình chính trị - xã hội thời đại Nguyễn Du đầy bất ổn và hỗn loạn trong dân
chúng cùng sự nổi dậy của nông dân chống lại giai cấp phong kiến phản động. Với những cơng
trình tâm huyết, với những bài viết sắc sảo và những kết luận sát thực với thực tế tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX hầu như các tác giả đã làm rõ được bối cảnh
thời đại Nguyễn Du. Dựa trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trước
để đi vào tìm hiểu về hồn cảnh ra đời của Truyện Kiều chuyên sâu hơn và cố gắng tiếp cận theo
hướng kế thừa có sáng tạo để thấy được những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội quyết định đến
sự hình thành tư tưởng triết học về nhân sinh và tư tưởng triết học về xã hội trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du.
Tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du được chưng cất từ trí tuệ dân
tộc, đứng ở vị trí hàn lâm cao sang nhưng lại có sức lan tỏa với sức sống mạnh mẽ trong dân chúng.
Truyện Kiều là di sản vĩ đại, là sự hội tụ rất nhiều tinh hoa văn hóa của dân tộc, đồng thời Truyện
Kiều là chỗ sâu thẳm trong tâm hồn người dân Việt Nam, hội tụ những giá trị quý báu của dân tộc
về tư tưởng, văn hóa, đạo đức, triết học. Bao nhiêu bài phê bình, nghiên cứu của rất nhiều người,
rất nhiều học giả uyên thâm thuộc hàng đại thụ trong suốt thời gian qua đã phần nào chứng minh
điều đó. Bàn đến Truyện Kiều, mặc dù đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu ở các góc độ khác
nhau. Nhưng Truyện Kiều vẫn là một đề tài hấp dẫn cho bất cứ ai đến với nó.
Khơng phải là trường hợp ngoại lệ, Truyện Kiều đặc biệt hấp dẫn và cuốn hút tác giả khi
đặt vấn đề khám phá tư tưởng triết học ẩn chứa trong tác phẩm. Việc nghiên cứu về tư tưởng triết
học trong Truyện Kiều sẽ góp phần lý giải được phần nào nguyên nhân tạo ra giá trị bất hủ của
Truyện Kiều và làm tăng tính giáo dục bằng những luân lý đạo đức cho con người. Làm rõ tính

triết học ẩn chứa trong Truyện Kiều sẽ góp phần lý giải được về kiếp người, về số phận con người,
hiểu thêm về quan niệm sống ở đời, về triết lý nhân sinh, thấy được giá trị của những triết lý trong
Truyện Kiều đối với xã hội, học được cách ứng xử tao nhã, tế nhị, văn hóa và vơ cùng trí tuệ.
Theo N.L Niculin, nhà nghiên cứu về văn học Việt Nam, đã có bài viết hết sức đặc sắc:
“Nguyễn Du - nhà thơ nhân đạo lỗi lạc”, đã trình bày một cách thuyết phục nhưng mang tính sáng
4


tạo bậc thầy của Nguyễn Du trong Truyện Kiều so với nguyên tác ban đầu về cốt truyện, về hình
tượng nhân vật, đặc biệt tác giả nhấn mạnh sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc dựa trên truyền
thống thơ ca Việt Nam và đã sử dụng rất nhiều hình ảnh của ca dao để sáng tạo ra một hệ thống
hình tượng độc đáo.
Như vậy, qua những cơng trình của các tác giả dù đánh giá khác nhau như thế nào về mức
độ sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều nhưng tất cả đều thống nhất và đi đến kết luận:
Truyện Kiều không phải là một tác phẩm dịch mà là một kiệt tác được sáng tạo vô cùng độc đáo
bởi trái tim và khối óc tài hoa của thiên tài Nguyễn Du. Mặc dù các tác giả đã chỉ ra sự sáng tạo
của Nguyễn Du về mặt văn chương, nghệ thuật, cốt truyện, tình tiết, nhân vật, tuy nhiên chưa có
tác giả nào bàn đến việc sáng tạo của Nguyễn Du trong quan niệm mới về con người, về cuộc đời
đầy biến động, về một chủ nghĩa nhân đạo mới mà trong ngun tác khơng có, tức là Nguyễn Du
đã lồng vào đó một tư tưởng mới, đây là sự sáng tạo cần phải nghiên cứu và làm rõ, vậy nên tác
giả luận án trên cơ sở tiếp thu những nghiên cứu của các học giả đi trước để làm nền tảng, cơ sở
cho mình đi vào tìm hiểu nghiên cứu về tư tưởng mới Nguyễn Du đã gửi gắm trong Truyện Kiều.
1.2. Những tư tưởng triết học ảnh hưởng đến Truyện Kiều của Nguyễn Du
Trong cuốn “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực Nguyễn Du” của tác giả Lê Đình Kỵ đã
phân tích một cách thuyết phục tính dân tộc, đặc biệt là tư tưởng yêu nước ảnh hưởng một cách
mạnh mẽ đến Nguyễn Du trong quá trình sáng tác Truyện Kiều, khẳng định tình yêu quê hương
được nối dài bởi những lẽ sống khác nên có sức tổng hợp lớn lao và được kết tinh trong những giá
trị tốt đẹp được nhân dân Việt Nam trân trọng qua bao đời.
Tình u q hương làng mạc đó chính là một yếu tố để bồi dưỡng tinh thần yêu nước của
con người. Qua Truyện Kiều, có những bức họa, bức cảnh tuyệt diệu mà độc giả luôn luôn có thể

đối chiếu với thực tế Việt Nam, làm cho ta tin chắc rằng đó là hình thái màu sắc của đất nước Việt
Nam. Chúng ta không lấy làm lạ khi những người bôn tẩu việc nước và gặp bước đường trắc trở
vẫn mở một trang Kiều, tìm lấy một lý do cho sự hi sinh với lý tưởng của mình trong câu thơ Kiều
giản dị: “Tấc lịng cố quốc tha hương. Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời”. Nhân dân mãi yêu
Truyện Kiều, cũng vì qua Truyện Kiều, mọi người đều thấy rằng non nước, quê hương của ta quả
là đáng yêu”. Với quan điểm trên tác giả đã khẳng định đọc Truyện Kiều nhân dân Việt Nam càng
thêm u đất nước mình hơn, điều này có được là do Nguyễn Du đã tiếp thu tư tưởng yêu nước
một cách nhuần nhuyễn để rồi tuôn chảy thành những câu thơ lục bát đẹp mượt mà ca ngợi vẻ đẹp
con người và cảnh vật rất Việt Nam.
Ngoài hấp thụ tư tưởng yêu nước, trong Truyện Kiều còn thấm đẫm tư tưởng đạo hiếu, tư
tưởng nhân ái bao dung, đạo lý làm người, tư tưởng nhân đạo tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Các
nhà nghiên cứu đã nhận ra trong Truyện Kiều có nhiều biểu hiện của tư tưởng Nho giáo, Phật giáo
và biểu hiện mê tín dị đoan của tư tưởng Lão giáo. Tư tưởng Nho, Phật, Lão đã được thể hiện trong
Truyện Kiều như thế nào?.
Việc xây dựng hình tượng nhân vật mà xác định thái độ của Nguyễn Du đối với các hệ tư
tưởng này và những đóng góp của ơng đối với q trình phát triển của lịch sử tư tưởng dân tộc.
G.S Hà Văn Tấn trong bài viết “Lịch sử Việt Nam và tư tưởng Việt Nam” đã nêu lên: “Mỗi lần
5


dân tộc đứng trước thử thách của lịch sử, ông cha ta lại trở lại với những giá trị tư tưởng đã có từ
lâu. Đơi khi, con người dường như quay trở lại với quá khứ quanh co, chẳng hạn Kiều của Nguyễn
Du, dường như đã nghe tiếng kêu thương về thân phận con người và địi giải phóng cá nhân”.
Như vậy, qua các cơng trình đã nêu ở trên chúng ta thấy hầu như các tác giả đều khẳng
định viết nên thiên truyện bất hủ bằng thể thơ lục bát Nguyễn Du đã hấp thụ sâu sắc bởi tư tưởng
triết học dân tộc, nổi bật là tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng đạo hiếu. Điều này sẽ
luận giải được sự ảnh hưởng của tư tưởng yêu nước Việt Nam trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
một cách thuyết phục. Trong cuốn “Thi pháp Truyện Kiều” của Trần Đình Sử, ngồi việc đánh giá
cao vị trí và sức sống của Truyện Kiều trong văn hóa Việt, tác giả dành rất nhiều trang nói lên mối
quan hệ giữa Truyện Kiều với đạo Phật ở những ý kiến khác nhau của nhiều tác giả và cuối cùng

đồng ý với quan điểm Phật đi vào trong Truyện Kiều đã được khúc xạ chứ khơng cịn ngun
nghĩa, đã có tính chất dung hợp, pha trộn với Nho giáo: “Mối quan hệ Truyện Kiều với đạo Phật
từ lâu đã được nhiều học giả chú ý. Có người xem tác phẩm là sự minh họa cho tư tưởng nhân quả,
nghiệp báo của Phật học (Trần Trọng Kim). Có người lưu ý tới tư tưởng đạo Phật dân gian (Đào
Duy Anh). Có người nhận xét sự pha trộn Phật và Nho, từ tài mệnh tương đố và bỉ sắc tư phong
đến nghiệp báo, luân hồi, từ trung hiếu tiết nghĩa đến từ bi bác ái, tu nhân tích đức (Cao Huy Đỉnh).
Thực ra đạo Phật đã có sự khúc xạ khi đi vào Kiều. Nhận xét về sự hỗn dung, pha trộn Phật-Nho
là có căn cứ”.
Ở bài viết “Giá trị triết học tôn giáo trong Truyện Kiều” của tác giả Thích Thiên Ân đã
phân tích một cách sâu sắc sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo đậm đặc trong Truyện
Kiều, nổi bật là tư tưởng vô thường của vũ trụ nhân sinh. Đây thực sự là một bài viết có tầm khái
quát triết học cao và đã làm bật lên được sự ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo sâu đậm trong
Truyện Kiều. “Triết lý của đạo Phật trong Truyện Kiều” của Cao Huy Đỉnh là một bài viết hết sức
sâu sắc phản ánh về sự ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo trong Truyện Kiều đầy mâu thuẫn và
mang tính chất bi quan yếm thế. Nhận định rằng: “bản thân triết học nhà Phật hàm chứa một mâu
thuẫn, vì yêu con người mà lại phủ định cuộc sống của con người, trong khi đã yêu thương nhân
loại là tất nhiên gắn bó với đời. Trong truyện Kiều triết lý Phật chiếm một liều lượng lớn vì chất
bi quan yếm thế của nó dễ diễn tả nhất những nỗi day dứt siêu hình trong tâm trạng con người,
nhất là phụ nữ nạn nhân cực khổ nhất của xã hội phong kiến, càng là nạn nhân cực khổ nhất của
thời đại Nguyễn Du”.
Ngoài ảnh hưởng của tưởng triết học Phật giáo Truyện Kiều còn ảnh hưởng sâu sắc bởi tư
tưởng triết học Nho giáo, và Lão giáo, bàn về vấn đề này trong cơng trình “Truyện Kiều và chủ
nghĩa hiện thực của Nguyễn Du” tác giả Lê Đình Kỵ khẳng định: “Chủ nghĩa định mệnh của
Truyện Kiều bắt nguồn từ tư tưởng định mệnh của đạo Nho-Khổng Tử nói “Chết sống do mệnh,
giàu sang tại trời”. “Khơng biết mệnh thì khơng phải là người qn tử”.
Trong cơng trình này tác giả đã phân tích sự ảnh hưởng của Nho trong Truyện Kiều là do
hoàn cảnh lịch sử thời đại Nguyễn Du và tư tưởng thiên mệnh là sản phẩm tất yếu của xã hội phong
kiến nhằm duy trì trật tự phong kiến, tác giả cho rằng thời đại Nguyễn Du do trải qua nhiều yếu tố
dồn dập nên khơng thể giải thích được Nguyễn Du đã dùng đến tư tưởng thiên mệnh của Nho giáo.
Tác giả luận án trên cơ sở sẻ kế thừa thành tựu nghiên cứu của các tác giả đã đạt được, đồng thời

phát hiện thêm những tiếp nhận của Nguyễn Du đối với ba dòng tư tưởng ở phương diện bình dân,
6


đã được Việt Nam hóa, như tư tưởng về chữ Hiếu của người con đối với cha mẹ. Đặc biệt tác giả
sẻ đi sâu vào nghiên cứu ảnh hưởng của tư tưởng Lão giáo về luật bình quân và luật thừa trừ trong
thiên truyện mà hầu như chưa có tác giả nào đi sâu khai thác về khía cạnh này của sự tiếp nhận.

Chương 2. Nội dung những tư tưởng triết học
2.1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng triết học
2.1.1. Khái niệm tư tưởng
Thuật ngữ tư tưởng có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Cho đến nay, đã có nhiều cách định
nghĩa khác nhau về khái niệm tư tưởng. Từ điển triết học định nghĩa: Tư tưởng “là phản ánh của
hiện thực trong ý thức, là biểu hiện sự quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh”.
Từ điển tiếng Việt (nhà xuất bản Đà Nẵng, 2000) định nghĩa: tư tưởng là những quan điểm,
ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực khách quan và đối với xã hội, chẳng hạn, tư tưởng
tiến bộ, tư tưởng phong kiến…Hay trong Đại từ điển tiếng Việt cho rằng: “Tư tưởng là quan điểm
và ý nghĩ chung của con người đối với thế giới tự nhiên và xã hội”.
Trong mục “Tìm hiểu khái niệm” của Tạp chí cộng sản (số 1/1993) cho rằng: “Tư tưởng
là những suy nghĩ, những ý niệm về các sự vật, hiện tượng được phản ánh trong ý thức, là biểu
hiện các quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh. Tư tưởng do chế độ xã hội, điều kiện
sinh hoạt vật chất của con người quyết định. Thực chất và nguồn gốc tư tưởng ở trong cơ sở kinh
tế, trong điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, trong tồn tại xã hội. Tư tưởng biểu hiện lợi ích vật
chất của các giai cấp trong xã hội. Tư tưởng mang tính lịch sử.
Như vậy, trong các định nghĩa trên về tư tưởng đều thừa nhận tư tưởng thuộc về ý nghĩ, ý
thức của con người, là sự phản ánh hiện thực khách quan và do điều kiện sinh hoạt vật chất hay
kinh tế quyết định. Tuy nhiên định nghĩa trong mục “Tìm hiểu khái niệm” của Tạp chí Cộng sản
đưa ra đầy đủ và có tầm khái quát rộng hơn.
Qua những định nghĩa nêu trên chúng ta có thể hiểu về tư tưởng như sau:
❖ Tư tưởng là quan điểm, ý nghĩ của con người, tư tưởng là sự phản ánh hiện thực

trong ý thức của con người.
❖ Tư tưởng do điều kiện sinh hoạt vật chất, do tồn tại xã hội quyết định.
❖ Tư tưởng có sự tác động trở lại hiện thực thơng qua vai trị chỉ đạo của nó đối với
hoạt động của con người,
❖ Tư tưởng mang tính lịch sử vì nó phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định và tư tưởng mang tính giai cấp.
2.1.2. Khái niệm tư tưởng triết học
Tư tưởng triết học là hệ thống các quan điểm về những vấn đề chung nhất của tồn tại và
của nhận thức thế giới, trước hết là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật
7


chất, hay nói cách khác đó là những tư tưởng về thế giới quan và nhận thức luận. Đây cũng chính
là vấn đề cơ bản của triết học mà mọi trường phái đều hướng tới để giải quyết. Mặt khác tư tưởng
triết học khơng chỉ có bản thể luận, nhận thức luận, mà nó cịn bao gồm cả đạo đức, mỹ học, thân
phận con người, đạo lý làm người.
Tư tưởng triết học phản ánh những vấn đề chung nhất của tồn tại và sự nhận thức thế giới.
Tư tưởng triết học là sự phản ánh tồn tại xã hội, nhưng một khi sự phản ánh đó là chính xác và trở
thành ý thức chủ động của con người thì nó sẽ tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, điều đó có
nghĩa là tư tưởng triết học có tính tích cực khi nó phản ánh đúng đắn tồn tại xã hội và có sự tác
động trở lại đối với tồn tại xã hội.
Với tinh thần tiếp thu có chọn lọc chúng ta có thể hiểu tư tưởng triết học với những tính
đặc thù như sau:
❖ Tư tưởng triết học là tư tưởng chung nhất của con người về thế giới, về vai trị và
vĩ trí của con người trong thế giới.
❖ Tư tưởng triết học là tư tưởng có nội dung về thế giới quan, nhân sinh quan và khả
năng nhận thức của con người trong thế giới.
❖ Tư tưởng triết học là tư tưởng về nguồn gốc sinh thành của thế giới và nguồn gốc
của tất cả mọi sự vận động, biến đổi trong thế giới.
❖ Vai trò của tư tưởng triết học là cung cấp cho con người cách lý giải về thế giới một

cách đúng đắn và khoa học, trên cơ sở đó định hướng hoạt động thực tiễn đạt kết
quả tốt.
2.2. Tư tưởng triết học về nhân sinh
2.2.1 Tư tưởng biện chứng về cuộc đời con người trong Truyện Kiều
Thế kỷ mà Nguyễn Du sống đầy biến động dữ dội, có nhiều đổi thay ngang trái, nó làm
cho mỗi người trong một khoảng thời gian ngắn có thể sống trong nhiều hồn cảnh khác nhau, và
có nhiều bước ngoặt với bao nhiêu thăng trầm vinh nhục của đời người.
Câu chuyện trầm luân của Thúy Kiều xưa nay biết bao người nói tới, lời thơ của Nguyễn
Du đã đi qua gần ba thế kỷ nhưng bao nhiêu nỗi đoạn trường cùng những vần thơ đứt ruột như vẫn
còn nhức nhối trong tim người đọc, bởi Nguyễn Du đã nói lên được vấn đề chung cho mọi thời
đại, vấn đề mn thuở, đó là vấn đề về thân phận của con người.
❖ Quan niệm về thân phận con người đầy biến đổi trong Truyện Kiều
Đó là câu chuyện về cuộc đời tang thương dâu bể, về những cái đã trôi qua không bao giờ
kéo lại được, về kiếp sống của con người lênh đênh chìm nổi. Kiều khơng chỉ hiện thân cho
nhan sắc, mà cịn hiện thân cho tài hoa và phẩm hạnh, hiện thân cho cuộc đời đầy biến đổi,
đang sống trong cảnh:
Êm đềm trướng rũ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
8


Vậy mà một phen sóng gió ba đào đã hất tung nàng ra giữa cuộc đời đầy giông bão, sự thay
đổi đó khơng thể gọi là hồn cảnh đẩy đưa mà là tang thương dâu bể. Nhiều sự kiện dồn dập
xảy ra liên tục, thể hiện tư tưởng về sự biến ảo may rủi khôn lường ở đời.
Nguyễn Du đã cảm nhận sâu sắc và phản ánh sinh động số phận con người trước sóng gió
ba đào, trước đắng cay, tủi nhục của cuộc đời, sự trôi nổi, bất ổn với nhiều đổi thay ln trong
tiến trình biến dịch của thân phận con người biểu hiện cụ thể bằng hình ảnh “mặt nước cánh
bèo”, “nước chảy hoa trôi”, “bể trần chìm nổi”. Tác giả cảm nhận được cả thời gian chảy trôi
vô thường, cảm nhận được cả không gian lưu lạc, cảm nhận được cả biến động của thế giới.
Đó là những cảnh mà Nguyễn Du đã từng thể nghiệm trong đời làm quan, trong thời gian đi

sứ, đặc biệt ông đã chứng kiến “những điều trông thấy” ấy của bao nhiêu số phận con người
với bao thăng trầm vinh nhục, với bao đắng cay tủi hờn, với bao cảnh hoa rơi hoa rụng, phản
ánh thân phận con người đầy sóng gió ba đào trước đen trắng của cuộc đời với cái nhìn đa
chiều.
Đó là câu chuyện về cuộc đời tang thương dâu bể, về những cái đã trôi qua không bao giờ
kéo lại được, về kiếp sống của con người lênh đênh chìm nổi. Kiều khơng chỉ hiện thân cho
nhan sắc, mà còn hiện thân cho tài hoa và phẩm hạnh, hiện thân cho cuộc đời đầy đổi thay đến
kinh hoàng. Nhiều sự kiện dồn dập xảy ra liên tục, thể hiện tư tưởng về sự biến ảo may rủi
khôn lường ở đời.
Nguyễn Du không chỉ nêu lên thuyết tuần hoàn, “bãi bể nương dâu” trong cuộc đời, trong
xã hội mà ơng cịn nêu lên tư tưởng về những biến đổi trong q trình vận động, phát triển
khơng ngừng của sự vật, thiên nhiên, con người, về tính cách, tâm lý, tình yêu và cả trong cách
cư xử giữa con người với con người trong từng hoàn cảnh. Cụ thể tính cách Kiều cũng có sự
phát triển theo thời gian, từ một cô gái “e lệ nép vào dưới hoa”, trong trắng buổi đầu, trải qua
bao nhiêu sóng gió của cuộc đời dâu bể, Kiều đã trở thành người đàn bà dày dạn, can trường
“Đến phong trần cũng phong trần như ai”, can đảm với tư thế bước lên ghế quan tịa “sánh với
Từ cơng cùng ngồi” để xử tội những kẻ gây ra tai họa trong buổi báo ân báo ốn. Đó là một
q trình phát triển lâu dài của tính cách theo quy luật nội tại của nó. Hay trong tình u quan
niệm của Nguyễn Du cũng chứa đầy tư tưởng biện chứng, được thể hiện thông qua lời giãi bày
của Kim Trọng trong ngày Thúy Kiều trở về sau mười lăm năm sương gió bụi trần. Ngày người
u trở về khơng cịn là cơ gái mơn mởn cành tơ như xưa nữa, chính Kiều cũng tự xét thấy
mình:
Bấy chầy gió táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn
Còn chi là cái hồng nhan
Thế nhưng Kim Trọng hay chính là Nguyễn Du với cái nhìn biện chứng sâu sắc trong tình
yêu vẫn thấy Kiều đằm thắm, viên mãn:
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
9



Thúy Kiều tủi nhục trong đêm tái ngộ đã giãi bày:
Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
Nhưng Kim Trọng với cái nhìn biện chứng về tình yêu, vượt lên mọi khắt khe chật hẹp
phong kiến, đã quan niệm hết sức cởi mở và hiện đại về tình yêu, về chữ trinh:
Chữ trinh kia cũng có dăm bảy đường
Có khi biến có khi thường
Có quyền nào phải một đường chấp kinh
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Đó là lối nhìn lạc quan, tích cực có pha lẫn màu sắc biện chứng hết sức sâu sắc:
Trời cịn để có hơm nay,
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
Đây thật sự là cách nhìn nhận vạn vật, con người, các hiện tượng, và cách xử lý tình huống
đầy biện chứng trong cuộc đời hết sức nhân văn dưới ngòi bút thiên tài Nguyễn Du.
❖ Quan niệm về sự luân chuyển của thời gian trong Truyện Kiều
Bên cạnh quan niệm về cuộc đời đầy biện chứng trong Truyện Kiều còn thể hiện rõ tính
biện chứng của bước đi của thời gian, thể hiện sự gấp gáp của thời gian, vì mọi thay đổi của
cuộc đời con người bắt đầu từ thay đổi của thời gian hay nói cách khác chính thời gian lôi cuốn
cuộc đời trôi chảy, biểu hiện thời gian như bánh xe luân chuyển, lôi cuốn ta đi, thời gian gấp
gáp, thời gian đang trôi qua sự thay đổi của cảnh vật, của thiên nhiên.
Truyện Kiều đã mở đầu bằng nhận định về sự biến đổi khách quan của vũ trụ, nghĩa là sự
luân chuyển của thời gian, của đời người, cuộc sống cứ thế cuốn trôi đi, con người trước bao
nhiêu biến chuyển của vũ trụ nhiều khi thảng thốt đến bất ngờ, con người không thể tránh khỏi
quy luật tự nhiên lạnh lùng đó. Truyện Kiều cịn có một dịng thời gian bốn mùa mãi miết trơi
đi, xn, hạ, thu, rồi lại sang đông, rất khách quan và vơ tình. Nó ăn nhịp với cuộc đời, nó
cũng như thơng báo với con người khơng có gì vững bền, vĩnh cửu, tồn mãi mãi với thời gian,
mọi sự vật hiện tượng luôn vận động, biến đổi không ngừng.

❖ Quan niệm lạc quan, tích cực về cuộc đời trong Truyện Kiều
Biện chứng trong Truyện Kiều không chỉ là vạn vật cứ trơi đi, kiếp người đầy may rủi, mà
cịn là ước mơ, là niềm tin, là dự cảm về hạnh phúc trong tương lại, với tinh thần đầy lạc quan
và tích cực, với những câu thơ đầy hi vọng và đầy hứa hẹn trong Kiều. Với cái nhìn và tư duy
biện chứng thì cho dù cuộc đời có bi đát thế nào vẫn lạc quan, vẫn có niềm tin để sống tiếp,

10


vẫn hi vọng vào một ngày mãi sẻ khác, và vẫn có thái độ tích cực trong hành động, với tầm
nhìn dài hạn cho dù cuộc đời có bi kịch đến thế nào vẫn đáng sống.
Với cái nhìn biện chứng về cuộc đời con người trải qua bao nhiêu biến cố, bao nhiêu tang
thương biến đổi, cuộc sống với những mâu thuẫn xung đột của nó, với những mừng vui cay
đắng của nó, với những yêu thương tủi hờn của nó, cuộc sống đáng cho người ta lo lắng, những
cũng đáng cho người ta tự hào và tin tưởng để rồi tha thiết với đời, quan tâm đến con người,
không phải là nhắm mắt buông xuôi khi cuộc đời quá bi đát mà với cái nhìn biện chứng, mỗi
con người có thể nhìn thẳng vào sự thật, chia sẻ số phận chung với mọi người, sống cuộc sống
trần gian, cùng hy vọng, cùng lạc quan, và tin tưởng vào những điều tốt đẹp, vào tình u hồi
sinh sau giơng bão, tin vào lòng tốt con người, tin vào điều thiện ở đời và hướng tới tương lai
tươi sáng. Đó chính là thái độ tích cực, đó chính là cái nhìn đầy biện chứng trong cuộc đời đầy
phong ba để ta vững tâm, để ta vững bước trên con đường đã chọn để kiến tạo hạnh phúc cho
ta và cho mọi người.
2.2.2. Tư tưởng mâu thuẫn về tài mệnh của con người trong Truyện Kiều
Lý giải dưới góc độ của chủ nghĩa duy vật thì Mệnh là quy luật thép của xã hội, là các thế
lực quan lại, những người nắm quyền lực, có sức mạnh tối cao, gieo rắc bao oan trái, khổ sở cho
thân phận con người. Nguyễn Du đã vạch trần tất cả sự đen tối và những hiện tượng bất hợp lý
trong xã hội, đồng thời phản ánh số phận nghiệt ngã của những người có tài không được trọng
dụng, luôn bị đố kỵ, bị vùi dập, bị hãm hại một cách bi thảm. Tài năng dưới chế độ phong kiến
không hề được tôn vinh mà vô tình lại là một tai họa cho người mang nó, chế độ phong kiến chật
hẹp, suy đồi, thối nát không dung nổi tài năng.

Vậy nên trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã đưa ra tư tưởng “Tài mệnh tương đố” hay “Tài
mệnh ghét nhau ” :
Trăm năm trong cỏi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trong Truyện Kiều sự mâu thuẫn giữa Tài và Mệnh tập trung ở nhân vật Thúy Kiều và Từ
Hải, hai con người có tài nhưng kết cục lại vô cùng bi kịch. Tài ở đây là tài năng, tài hoa, là những
gì tốt đẹp nhất ở con người. Như vậy Từ Hải là người có tài, cái chết của Từ Hải là biểu hiện rõ
ràng nhất của tài mệnh tương đố, tài năng hay bị đố kỵ, cuộc đời chìm nổi, đọa đày, oan ức của
Kiều suốt mười lăm năm là sự cụ thể của tài mệnh ghét nhau. Xã hội phong kiến, hay tất cả những
xã hội phản động, mục nát, bất công đều sợ tài năng, vì tài năng và sức sống mãnh liệt là cái đáng
lo ngại cho xã hội phong kiến, là cái có nguy cơ phá vỡ kết cấu mục rũa phong kiến. Trong Truyện
Kiều mệnh, hay số mệnh chính là xã hội phong kiến chứ khơng phải một thực thể siêu hình, trừu
tượng nào hết, khơng trời hay thần thánh nào hết, mà thiên tài Nguyễn Du đã căm ghét, lên án rất
nhiều lần, chẳng qua ông ám chỉ nó thơng qua chữ Mệnh, chữ trời, chữ tạo hóa mà thơi, tác giả nói
đến trời, nhưng chúng ta không thấy bàn tay độc ác của trời. Trước mắt chúng ta chỉ thấy những
bộ mặt người hiểm ác và phản trắc là Hồ Tơn Hiến, đại diện triều đình phong kiến, là quan lại ăn
tiền cùng bọn sai nha lộng hành và những tên lưu mạnh mạt hạng như Mã Giám Sinh, Sở Khanh,
Bạc Hạnh mà thôi. Nguyễn Du thừa biết mọi bất công, ngang trái, ghen ghét, đố kỵ, tìm cách hãm
11


hại người tài là hạng tiểu nhân, là các ông quan nham hiểm, là triều đình phong kiến quyền lực
đầy bất lương. “Thuyết tài mệnh tương đố qua cái vỏ siêu hình,khơng phải là khơng có cơ sở xã
hội khách quan, khơng phải là khơng có cơ sở tố cáo.
Trong xã hội cũ, đa tài thường đa nạn. Hồ Tôn Hiến “biết Từ là đấng anh hùng” nên tìm
mọi cách tiêu diệt cho kỳ được Từ Hải. Chủ đề tài mệnh tương đố có thể làm nền tảng cho một tác
phẩm tốt, miễn là tác giả đừng vì ý nghĩa siêu hình mà từ bỏ nội dung xã hội”.
Vì vậy, khi đánh giá, nhìn nhận tư tưởng tài mệnh tương đố trong Truyện Kiều cần phải
đứng trên lập trường duy vật biện chứng để xem xét, đồng thời căn cứ vào cơ sở kinh tế, chính trị
trong hồn cảnh xã hội thời đại Nguyễn Du, căn cứ vào lập trường giai cấp và tư tưởng của bản

thân nhà thơ trong cuộc sống mà đánh giá, nhận xét tác phẩm một cách khoa học và khách quan.
Nguyễn Du dù xuất thân từ tầng lớp q tộc nhưng ơng đã từng đau khổ giữa những người đau
khổ, vì vậy ơng đồng cảm với họ, phê phán những bất công ngang trái trong cuộc đời, tố cáo bọn
quyền quý lưu manh dùng đồng tiền để mua bán đổi chác tất cả. Nếu đứng trên quan điểm của triết
học duy tâm để phán xét về những lời than thở, day dứt về số mệnh trong Truyện Kiều thì cũng
khơng thể làm giảm đi những tiếng nói phê phán phẫn nộ, những lời tố cáo đanh thép, Nguyễn Du
đã bộc lộ lòng căm ghét chế độ xã hội phong kiến dã man bóp nghẹt và hãm hại đến chết những
người tài năng, tác giả đã bênh vực cho tài sắc bị dập vùi, bảo vệ cái đẹp và hạnh phúc của con
người.
3.3. Tư tưởng triết học về xã hội trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
3.3.1. Quan niệm về bản chất của nhà nước phong kiến trong Truyện Kiều
Bản chất của nhà nước phong kiến bộc lộ rõ khi tai họa ập đến nhà họ Vương và những tay
sai đắc lực của nhà nước xuất hiện bất chấp đạo lý, sẵn sàng đánh đập người vô tội:
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao,
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Những người thi hành quyền lực nhà nước được tác giả ví như lũ đầu trâu mặt ngựa, đã
dùng sức mạnh cưỡng chế bắt người dân tra tấn, đánh đập một cách dã man và cướp hết tài sản
của họ:
Đồ tế nhuyễn của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
Với sự mô tả chân thực những hành động bất nhân và vô đạo của những kẻ tay sai tàn bạo
của nhà nước phong kiến, tác giả cho ta thấy bản chất của nhà nước phong kiến đã tha hóa đến
cùng cực. Một nhà nước cai trị nhân dân dựa trên sức mạnh quyền lực, sẵn sàng đàn áp và đánh
đập dân, một nhà nước vô pháp, vô thiên, không có một kỷ cương, phép nước nào hết. Lẽ phải
thuộc về kẻ mạnh, lẽ phải thuộc về những kẻ có tiền, có quyền. Như vậy, thực chất đây là một nhà

12



nước chun quyền, độc đốn, chứa đựng trong lịng nó các mâu thuẫn gay gắt chờ ngày bùng
phát.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng: “bản chất nhà nước là thống trị kinh tế, thực hiện
quyền lực chính trị, cưỡng chế, áp đặt lên tư tưởng quần chúng, nhà nước chẳng qua là bộ máy
thống trị của giai cấp này dùng để trấn áp giai cấp khác mà thôi” [8, tr.395]. Nhà nước bảo vệ trước
hết quyền lợi của giai cấp thống trị. Chủ nghĩa Mác - Lênin thừa nhận: “Nhà nước không phải là
một chủ thể bất biến, vĩnh cửu mà có quy luật sinh tồn, tiêu vong. Nhà nước tồn tại hay tiêu vong
tùy thuộc vào thể chế chính trị, chính sách dân chủ thực sự hay phản dân chủ của nó [8, tr.394].
Quy luật tất yếu của lịch sử đã được thực tế chứng minh: Rất nhiều đời vua chúa, rất nhiều chế độ
chính trị hà khắc trên thế giới đã sụp đổ vì chính bản thể mục rũa của nhà nước.
Trong Truyện Kiều tầng lớp quan lại được miêu tả với tất cả sự mục rũa và tha hóa đến
cực độ. Đó là những kẻ đại diện cho bộ máy nhà nước phong kiến, những kẻ được xem là quan
tịa xét xử nghiêm minh nhưng lại chính là thủ phạm gây ra biết bao oan khốc cho người dân.
“Chính quyền phong kiến là thủ phạm đã làm cho nhà họ Vương vô tội phải tan nát, cho cô Kiều
phải lênh đênh. Truyện Kiều quả là một bản cáo trạng bằng thơ, bằng hình tượng nghệ thuật, để
bộc lộ tất cả cái thối tha của chế độ quan liêu phong kiến đang sa đọa trên con đường tan rã. Là vì
nó thối nát từ cuống tim, từ đầu óc” [50, tr.52-53].
Nguyễn Du vạch trần tất cả sự đen tối và những hiện tượng bất hợp lý của xã hội phong
kiến, đồng thời lên án những hành vi tàn bạo chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con
người. Bằng ngịi bút chân thực của mình Nguyễn Du đã phản ánh được tất cả bộ mặt xấu xa, bỉ
ổi, thối nát, sa đọa của tầng lớp quan lại phong kiến và cả tầng lớp người mạt hạng trong một thể
chế nhà nước đang khủng hoảng trầm trọng. Sự xuống cấp của nhà nước phong kiến còn thể hiện
ở sự lên ngôi của đồng tiền làm băng hoại mọi giá trị đạo đức xã hội. Nguyễn Du đã lên án, tố cáo
gay gắt sức mạnh vạn năng của đồng tiền, trong xã hội Truyện Kiều, đồng tiền có một sức mạnh
kinh hồng, đồng tiền có thể đổi trắng thay đen, đồng tiền có thể giải quyết được mọi việc.
Truyện Kiều đã lột tả và lên án tất cả mọi khía cạnh của xã hội phong kiến nhiễu nhương
đương thời, một xã hội vô đạo, quan tham ô, lộng hành, triều đình rối ren, đạo đức luân lý băng
hoại, một xã hội sa đọa. Toàn cảnh của xã hội ấy được Nguyễn Du mô tả một cách chân thực và
đầy đủ, từ thành phần lưu manh dưới đáy xã hội cho tới tầng lớp quyền cao chức trọng, đã bộc lộ
tất cả cái thối nát của nhà nước phong kiến đang trên đường tan rã.

3.3.2 Quan niệm về tinh thần đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do của quần chúng nhân
dân trong Truyện Kiều
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã thể hiện tinh thần đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự
do của nhân dân lao động qua nhân vật anh hùng Từ Hải. Sự đối xử bất công, bị dày xéo đến nổi
phải tìm đường tự vẫn, mà Thúy Kiều là một điển hình đã thể hiện rất rõ bi kịch mà nhân dân lao
động phải chịu đựng. Truyện Kiều là sự phản ánh bi kịch của lịch sử Việt Nam thời cuối Lê đầu
Nguyễn, chỉ một trạng thái xã hội trong đó lực lượng thống trị đã trở nên phản động, suy tàn và
đáng lẽ phải bị diệt vong nhưng rốt cuộc nó vẫn tồn tại. Lực lượng nhân dân tiến bộ đã trổi dậy
đấu tranh đến cùng để địi quyền được sống, quyền tự do chính đáng cho mình. Nguyễn Du bằng
ngịi bút thiên tài đã phản ánh được bi kịch đó trong kiệt tác Truyện Kiều. Chính tinh thần đấu
13


tranh địi cho bằng được tự do và cơng lý chính nghĩa của quần chúng nhân dân đã ảnh hưởng sâu
sắc đến Truyện Kiều, tạo nên cảm hứng cho những lời thơ mạnh mẽ lên án những nổi bất công của
xã hội phong kiến, ca ngợi hình ảnh người anh hùng hành động vì chính nghĩa.

Chương 3. Giá trị và hạn chế của tư tưởng triết học trong Truyện Kiều
3.1. Giá trị nhân sinh, giá trị xã hội và giá trị đối với văn hóa dân tộc
3.1.1. Giá trị nhân sinh
Giá trị to lớn của Truyện Kiều là ở chỗ tác giả đã phản ánh được những sự mục rũa của xã
hội phong kiến trên con đường suy vong, đã biểu hiện được một phần những nỗi khổ cực, những
nỗi day dứt của nhân dân Việt Nam vào thời cuối Lê đầu Nguyễn và cả những ước mơ của họ về
một cuộc sống bình n, tốt đẹp.
Truyện Kiều có khả năng đồng cảm sâu sắc, bởi vì mỗi người dân Việt Nam khi vui, khi
buồn, khi đau khổ, khi thất bại hay thành cơng đều có thể tìm thấy những câu Kiều thích hợp để
vận vào hồn cảnh của mình. Đối với người dân đương thời Truyện Kiều là hình ảnh những nỗi
đau khổ của họ, là tấm gương phản chiếu những nỗi đau khổ của bản thân họ, tình cảm đó sâu sắc
đến nỗi người ta dùng cuốn Kiều để bói. Bởi vì Nguyễn Du đã nói lên được nỗi đau khổ của con
người bị chà đạp, bị áp bức trong xã hội phong kiến, ông bênh vực quyền sống và những ước mơ

chính đáng của con người bị vùi dập trong xã hội cũ. Truyện Kiều đã phản ánh được những ước
mơ, những hi vọng đó của nhân dân, đồng thời động viên, an ủi họ trong hoàn cảnh sống ngột ngạt,
cho họ niềm tin, sức mạnh để sống, để vươn lên trong đêm trường đau khổ.
Giá trị nhân sinh trong Truyện Kiều còn là niềm tin và hi vọng, hi vọng về một hạnh phúc
tốt đẹp trong tình yêu giữa những tháng ngày tối tăm. Là tiếng nói của trái tim khát khao được giải
phóng, khát khao yêu đương cởi mở của con người trong xã hội đương thời. Trái tim của con người
đã tỏ rõ quyền sống, quyền yêu mà bao nhiêu cấm đoán, bao nhiêu ràng buộc, bao nhiêu sự dập
vùi, cuối cùng vẫn không thể chơn vùi, bóp nghẹt được:
“Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
Làm gương cho khách hồng quần thử soi”
Trong xã hội phong kiến khi trái tim của đôi lứa luôn luôn bị đè nén bỡi lễ giáo khắt khe,
uất ức vì bị chia rẽ, thì con người lại tìm được trong Kiều lời động viên, an ủi, một hi vọng về tình
yêu tự do, về niềm tin con người được giải phóng ra khỏi những ràng buộc của đạo đức phong
kiến, điều này có thể nói là sự tiến bộ đối với xã hội đương thời. Thông qua Truyện Kiều Nguyễn
Du đã gửi đến cho chúng ta bài học làm người và lẽ sống ở đời hết sức sâu sắc. Cả câu chuyện là
“những điều trơng thấy mà đau đớn lịng”. Đời sống con người không thể tránh khỏi khổ đau,
nhưng đứng trước khổ đau, bất hạnh con người phải có thái độ tích cực, phải dám đương đầu và
vượt qua chứ không phải trốn tránh thực tại.
Nguyễn Du muốn gửi đến tất cả chúng ta thông điệp đời người là “một cuộc bể dâu”, luôn
đầy biến động và thay đổi bất thường, luôn biện chứng và phúc họa vô thường, cuộc đời chưa bao
14


giờ là đơn giản với bất kỳ ai, nhưng cho dù cuộc sống có bi đát đến thế nào thì cái gốc của con
người phải luôn giữ được là cái Tâm tốt đẹp để vững chãi, để đối phó với tất cả nghịch cảnh, và
tình yêu cuộc sống là điều khơng bao giờ tắt để con người có sức mạnh, có niềm tin, có ý chí vượt
qua tất cả mọi thăng trầm vinh nhục của đời người.
3.1.2. Giá trị xã hội hiện nay
Một tác phẩm cổ điển không những chứa đựng trong đó những giá trị tinh túy đương thời
mà còn mang những giá trị sống được trong hiện tại, đủ năng lực giáo dục, động viên những con

người ngày nay. Đó là những giá trị vĩnh cửu, chinh phục được mọi không gian và thời gian, những
tư tưởng ẩn chứa trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng thuộc vào loại giá trị vĩnh cửu ấy.
Ngày nay, Truyện Kiều vẫn sống trong lòng nhân dân Việt Nam, ngày nay Kiều vẫn là
món ăn tinh thần bổ ích cho đại chúng, vẫn có nhiều câu Kiều được trích dẫn, được vận dụng trong
văn viết và nói, được đưa vào lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân. Những cái tên nhân vật
mang tính chất điển hình là cơ sở để các nhân vật trong Truyện Kiều đi vào đời sống hàng ngày
của mọi tầng lớp nhân dân. Ghen như Hoạn Thư, chết đứng như Từ Hải, lừa tình như Sở Khanh,
đẹp như Thúy Vân, Thúy Kiều, sợ vợ như Thúc Sinh, chúng ta vẫn thường nghe trong lời ăn tiếng
nói hàng ngày của người dân Việt.
Đến ngày nay đọc Truyện Kiều chúng ta vẫn học được bài học về sự cảnh giác, về sự phản
trắc của con người trong xã hội, sự lật lọng để dành phần thắng, để có lợi cho mình trong cơng
việc, đó là bài học rút ra từ cái chết của Từ Hải do quá tin tưởng vào lời ngon ngọt của Hồ Tơn
Hiến, chính sự cả tin đã giết chết chính mình, đó là bài học cay đắng, bài học thấm thía, bài học
truyền đời. Những tư tưởng tốt đẹp trong Truyện Kiều vẫn tồn tại mãi trong lòng mỗi người Việt
Nam và cả bạn bè trên thế giới với một ý nghĩa vô cùng lớn. Rơne Crayxac, nhà văn Pháp, người
đã dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp, với bài tựa “Truyện Kiều và xã hội Á Đông đã đưa ra nhận xét:
“Ngày nay không có một người Việt Nam nào mà khơng thấy lịng xôn xao cảm động, lặng lẽ
buồn rầu. Cả nước mê Truyện Kiều đều tin như có cái đức tính thiêng liêng gì vậy. Từ việc đề cao
người con gái hiếu thảo, tài sắc, giá trị tư tưởng về đạo đức con người trong Truyện Kiều khơng
chỉ có ý nghĩa giáo dục đạo đức đương thời mà cịn có ý nghĩa quạn trọng trong việc giáo dục và
phát huy truyền thống đạo đức dân tộc trong thời đại ngày hôm nay, con người trong thời đại ngày
nay và cả trong tương lại vẫn phải suy ngẫm và học tập đạo làm người như thế. Không những học
về đạo làm con mà còn phải học về đạo đức làm người, về đối nhân xử thế một cách cao đẹp, biết
thông cảm và sẻ chia với nỗi đau của người khác, biết sống có ơn có nghĩa với những người đã
giúp đỡ mình, biết bao dung và độ lượng trong đời.
Ngày nay, khi đất nước đang có những bước chuyển mình trên con đường phát triển, quan
niệm phát triển con người một cách tồn diện của Nguyễn Du lại có một ý nghĩa hết sức quan
trọng. Hiện nay chúng ta thấy có nhiều tấm gương đạo đức tốt, nhiều tấm gương thiện nguyện
nhân ái giúp đỡ những người nghèo khổ, nhưng để nói gương và làm theo những tấm gương ấy thì
nhiệm vụ đặt ra cho việc giáo dục đạo đức là không hề đơn giản. Vậy nên, những tư tưởng tốt đẹp

của Nguyễn Du trong Truyện Kiều có sức cảm hóa lớn, có sức lay động lịng người trong việc giáo
dục làm theo những điều tốt đẹp phù hợp với những tấm gương đạo đức truyền thống của dân tộc.

15


Giá trị tư tưởng trong Truyện Kiều muôn đời vẫn dạy cho ta bài học về sự cảnh giác, cho
nên một tác phẩm đầy nước mắt vẫn sẻ được nhân dân u q, truyền đến cho ta lịng khát khao
hướng tới cái đẹp, tha thiết tự do, công bằng, nhân ái, nhờ đó hun đúc thêm ý chí chiến đấu chống
lại bạo tàn và dối trá, giúp chúng ta hiểu xã hội ta đã lớn lên như thế nào và phải làm gì để sống
tốt đẹp hơn, tỉnh táo hơn, ít bị trả giá hơn. Một tác phẩm bất hủ đã nói lên được vấn đề bất hủ,
chung cho mọi thời đại, mọi dân tộc, đó là vấn đề thân phận con người, đó cũng là vấn đề mn
thủa, vậy nên Truyện Kiều sẻ là mn thủa trong lịng nhận nhân Việt Nam.
3.1.3. Giá trị văn hóa dân tộc
Truyện Kiều là di sản vĩ đại, là sự hội tụ rất nhiều tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam,
đồng thời Truyện Kiều là chỗ sâu thẳm nhất trong tâm hồn của dân tộc. Tác động của Truyện Kiều
vào nền văn hóa dân tộc là hết sức rộng lớn và ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống văn
hóa xã hội Việt Nam, người Việt Nam u q Truyện Kiều bởi đây là tác phẩm ngợi ca con người
Viêt Nam, ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của dân tộc. Nền văn hóa của một dân tộc chỉ có thể
sâu sắc và phát triển được khi trong đó phải chứa đựng những phẩm chất văn hóa tốt đẹp, những
nét đẹp của tình người. Vẽ đẹp của Truyện Kiều là vẽ đẹp của tâm hồn người Việt, đó chính là sự
chịu đựng bền bỉ trước khó khăn gian khổ, đó là sự hi sinh một cách cao cả và biết vươn lên trong
nghịch cảnh, luôn giữ được phẩm chất thanh cao trong tâm hồn. Truyện Kiều đã đóng góp cho nền
văn hóa Việt Nam những nét đẹp của tình người, nét đẹp của thiên nhiên cảnh vật đất nước Việt
Nam. Truyện Kiều đã giúp cho mỗi người chúng ta biết yêu mến nhiều cái đẹp trong đời sống, cái
đẹp của tình người, tình đời, của quê hương đất nước. Cái đẹp của tình nghĩa con người trong
Truyện Kiều đã góp phần làm đẹp thêm và phong phú thêm cho nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt
Nam.
Truyện Kiều là tinh hoa của thời đại Nguyễn Du trong lòng dân tộc. Nó là tiếng Việt được
nâng niu, giữ gìn và sáng tạo qua hàng nghìn năm nơ lệ, để rồi trở thành tiếng thương như tiếng

mẹ ru, trở thành máu thịt của dân tộc. Nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận xét: “Tiếng nói Việt Nam
trong Truyện Kiều như làm bằng ánh sáng vậy”
Văn hóa dân gian, nền tảng của Truyện Kiều, không chỉ là những câu thơ lục bát. Mà là tất
cả tình cảm, đạo đức cùng văn hóa ứng xử và thế giới nội tâm bên trong của nhân vật Truyện Kiều
được xây xựng trên cơ sở nền văn hóa dân gian Việt Nam đã ảnh hưởng và tác động sâu sắc đến
đời sống hàng ngày của người dân, hình thành trong đời sống nhân dân một nếp sống tình cảm,
một lối cư xử có nghĩa, có tình, nhân văn, nhân ái. Như vậy, chúng ta thấy Nguyễn Du là người có
vai trị, vị trí quan trọng trong q trình vận động, phát triển của văn hóa Việt, khơng chỉ là của
dân tộc mà ơng cịn là danh nhân văn hóa thế giới. Qua những đóng góp của Nguyễn Du trong
dịng chảy văn hóa dân tộc, chúng ta nhận thấy rõ ràng tác phẩm Truyện Kiều đã góp một phần
lớn vào việc làm phong phú thêm cho kho tàng văn hóa dân tộc.
Trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, những hình thức sinh hoạt như đố Kiều, lẫy Kiều, bình
Kiều, cải lương liên quan các tuồng tích trong Truyện Kiều đều in đậm dấu ấn ngơn ngữ văn hóa
Truyện Kiều. Như vậy, những nét đẹp văn hóa ấy đã bước ra từ những câu thơ lục bát trong Truyện
Kiều và đi vào đời sống văn hóa dân tộc, tạo nên những hình thức tiếp nhận mới cho việc thưởng
thức một tuyệt phẩm của mọi thời đại. Từ trong nền văn hóa Kiều, các hình thức bình Kiều, vịnh
16


Kiều, bói Kiều, lẫy Kiều, tập Kiều đã trở thành những sinh hoạt văn hóa độc đáo. Có lẽ, trên thế
giới chỉ có Truyện Kiều là trường hợp duy nhất mà độc giả đã dùng tác phẩm để bói cho số phận
của mình. Và bản thân tác phẩm đã được quần chúng nhân dân sử dụng để trở thành một sinh hoạt
văn hóa rất đa dạng.
Truyện Kiều thực sự đã đi sâu vào đời sống tinh thần và những sinh hoạt văn hóa của nhân
dân Việt Nam, ở khắp trên các nẻo đường của đất nước, thể hiện trên nhiều hình thức sáng tác,
như ở Bắc Ninh, người ta hát quan họ về Kiều. Ở Thanh Hóa, tiếng hát trống quân về Kiều cất lên
trong những câu đối đáp của nam và nữ. Truyện Kiều không chỉ đi vào dân ca mà ở vùng Nghệ
Tĩnh ngồi mơn hát ví, hát dặm, mỗi độ xn về, cịn có những đám chèo sân đình diễn trị Kiều
cho dân chúng xem. Ngồi ra trong những sáng tác dân gian còn chịu ảnh hưởng, vay mượn rất
nhiều từ Truyện Kiều.

Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm có giá trị lớn đối với nền văn học nước nhà mà
còn là đại diện cho vẽ đẹp văn hóa dân tộc. Qua bao nhiêu biến cố, qua bao nhiêu thời gian cùng
những thăng trầm của đất nước, Truyện Kiều vẫn tiếp tục chảy mãi trong mạch nguồn văn hóa dân
tộc. Nguyễn Du thực sự có vĩ trí to lớn trong nền văn học, văn hóa Việt Nam. Đóng góp của ơng
mãi mãi được khẳng định dù ba thế kỷ trơi qua nhưng những gì Nguyễn Du để lại vẫn còn nguyên
giá trị.
3.2. Những hạn chế của tư tưởng triết học trong Truyện Kiều
3.2.1. Hạn chế của tư tưởng triết học về nhân sinh
Bên cạnh những giá trị tích cực mà chúng ta cần học tập thì Truyện Kiều vẫn còn những
hạn chế bởi lịch sử thời đại, bởi ý thức hệ tư tưởng giai cấp phong kiến. Thứ nhất trong tư tưởng
triết học nhân sinh là cách lý giải của Nguyễn Du về nguyên nhân gây ra nỗi khổ đau cho con
người khơng chính xác. C. Mác đã từng nói rằng: Muốn hiểu mọi căn nguyên xảy ra trong xã hội
phải tìm hiểu nó trong đời sống kinh tế, trong điều kiện vật chất chứ không phải tìm trong đời sống
tinh thần hay trong tơn giáo, vì tồn tại xã hội bao giờ cũng quyết định sự ra đời và biến đổi của ý
thức xã hội. Vậy nên khi tìm hiểu mọi căn nguyên gây nên khổ đau cho con người phải tìm nguyên
nhân trong đời sống xã hội, trong hoàn cảnh lịch sử con người sinh sống chứ không phải trong lĩnh
vực tinh thần. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã không xuất phát từ hiện thực xã hội phong kiến
Kiều đang sống để lý giải về nguyên nhân của mọi khổ trong cuộc đời Kiều mà lại rơi vào lung
túng và bế tắc, cuối cùng đổ lỗi cho trời, cho số mệnh. Nó đã được thể hiện qua:
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần được phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Hay lý giải vì quá tài sắc nên bị tạo hóa đố kỵ, ghen ghét:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
17


Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Nghĩ đời mà ngán cho đời,

Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!.
Rồi đổ lỗi cho hồng nhan:
Rằng: Hồng nhan từ nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Đọc Truyện Kiều, ta thấy mọi khổ đau của Thúy Kiều đều có nguyên nhân từ trong thực tế
xã hội bất công gây ra cho nàng, đó là do thằng bán tơ vu khống đổ lỗi cho gia đình Kiều, do bọn
sai nha lộng quyền và tầng lớp quan lại phong kiến bất nhân xử kiện bằng việc ăn tiền nên buộc
Kiều phải bán mình chuộc cha, do hệ thống nhà chứa tồn tại lộ liễu vùi dập phẩm hạnh của người
phụ nữ, do chính cái thể chế nhà nước tha hóa và xuống cấp mà đại diện là quan tổng đốc trọng
thần lừa người để lập công một cách hèn hạ, bẩn thỉu. Vậy đây là những nguyên nhân có thực trong
xã hội Truyện Kiều đã đẩy bao nhiêu con người vào bước đường cùng chứ không phải do trời, do
số mệnh, do hồng nhan hay tài tình gì hết.
C. Mác từng nói rằng: “Không thể nhận định được về một thời đại đảo lộn như thể căn cứ
vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống
vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất và những quan hệ sản xuất xã hội”
[65,tr.15]. Như vậy, để tìm hiểu mọi nguyên nhân của đời sống xã hội, mọi mâu thuẫn, xung đột
khơng thể tìm trong ý thức hay trong đời sống tinh thần mà phải tìm trong đời sống vật chất. Do
đó, để chấm dứt nỗi khổ đau, bất hạnh của Thúy Kiều thì Nguyễn Du phải tìm nguyên nhân từ
trong đời sống xã hội chứ khơng phải tìm đến thuyết thiên mệnh của đạo Nho, hay thuyết nhân
quả nghiệp báo của đạo Phật, càng không phải giải thích bằng bất cứ thứ ý thức, hay tơn giáo nào
hết. Đó đều là những lực lượng siêu nhiên, thần bí, gieo rắc tư tưởng bi quan, tiêu cực, khuyên con
người chịu đựng, cam phận, thủ tiêu ý chí đấu tranh.
Hạn chế thứ hai là Nguyễn Du đã đưa ra các giải pháp giúp con người thoát khỏi khổ đau
bằng những con đường bế tắc. Vì khơng lý giải được nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người
một cách đúng đắn, nên các giải pháp tác giả đưa ra để giải phóng con người thốt khỏi cuộc sống
nơ lệ hồn tồn bế tắc và chỉ mang chất xoa dịu nỗi đau chứ không diệt trừ tận gốc nỗi đau. Trước
cái ác, trước những hành động bất nhân vùi dập tài năng và phẩm chất tốt đẹp của con người, trước
những điều bất công và ngang trái mà Nguyễn Du lại đưa ra giải pháp chữ Tâm để làm phương
diện tự vệ và đấu tranh thì hồn tồn bị thất bại. Vì cái Tâm tốt đẹp quá, lương thiện quá, tin người
quá mà Kiều bị bọn buôn người lừa đảo bán vào lầu xanh, vì cái Tâm thật thà nên Kiều đã khuyên

Thúc Sinh về thú thật với Hoạn Thư mọi chuyện “nhà mới thêm hoa” mà bị xỉ nhục, hành hạ, đánh
đập. Cũng vì cái Tâm tin người mà đẩy Từ Hải vào chỗ chết, bị Hồ Tơn Hiến làm nhục. Tam Hợp
đạo cơ cho rằng vì sống có tâm nên Kiều mới được rút tên ra khỏi sổ đoạn trường, gặp lại Kim
Trọng và trở về đồn viên với gia đình, những thực tế thì Kiều không được hưởng hạnh phúc đúng
nghĩa, vẫn gượng gạo, vợ chồng chỉ là hình thức bề ngồi.

18


Như vậy, khi xã hội phong kiến đã suy đồi, mục nát thì chữ Tâm hay những luân lý đạo
đức cao đẹp hoàn toàn là những giải pháp bất lực, không thể nào bảo vệ được hạnh phúc cho con
người. Nguyễn Du lại đưa ra giải pháp đi Tu để thốt khổ, để hưởng phúc “Tu là cõi phúc, tình là
giây oan” nhưng đây cũng không phải là giải pháp đem lại hạnh phúc, giải thoát con người ra khỏi
bể khổ trầm luân, như vậy con đường đi tu của Kiều khơng phải là cõi phúc như Ngun Du nói,
các giải pháp này hoàn toàn bế tắc và bấp lực trước nỗi khổ đau của con người, khơng giải phóng
được cho họ thoát khỏi cuộc sống tù đày.
Sự bế tắc, lúng túng của Nguyễn Du trong tư tưởng của mình phản ánh sự bế tắc, tù túng
của thời đại mà ông đang sống. Ca ngợi và tôn vinh tài năng của con người hết bút lực nhưng cuối
cùng kết luận: Chữ tài liền với chữ tai một vần, vì trong thực tế xã hội phong kiến những người tài
bị sát hại một cách dã man. Ca ngợi những người sống có tình, say mê, rồi lại kết luận: Tình là
giây oan, vì trong thực tế nghiệt ngã khắt khe của lễ giáo phong kiến tình u lứa đơi bị ngăn cấm
và bị chia cắt. Đây là những mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Du, sự mâu thuẫn trong ý thức của
tác giả là sự phản ánh mâu thuẫn của hoàn cảnh lịch sử xã hội mà tác giả đang sống, đó là những
tư tưởng tiến bộ muốn vượt lên lịch sử thời đại nhưng bị chặn lại bởi bức tường lỗi thời, lạc hậu
của xã hội phong kiến, những tư tưởng tốt đẹp bị kẹp chặt, bị giam hãm trong khuôn khổ của chế
độ phong kiến mạt thời.
3.2.2. Hạn chế của tư tưởng triết học về xã hội
Mặc dù có tư tưởng phản phong mạnh mẽ, lên án chế độ xã hội bất cơng, đứng về phía
nhân dân lao động để đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự cho cho những người bị áp bức nhưng
Nguyễn Du chưa đưa ra được tư tưởng sáng suốt, giải pháp thực tiễn đúng đắn để thực hiện cuộc

cách mạng giải phóng nhân dân lao động đi đến thành công. Tác giả phê phán nhà nước phong
kiến trong Truyện Kiều là điều đáng ghi nhận, lên án và phê phán những bất công, suy đồi trong
xã hội cùng sự lộng hành của tầng lớp quan lại là đáng hoan nghênh, ca ngợi tinh thần đấu tranh
của quần chúng nhân dân chống lại quan tham, chống lại áp bức, bóc lộ nhưng lại khơng thể đưa
ra được con đường đấu tranh cách mạng cho quần chúng nhân dân, khơng có một đường lối đúng
đắn để thực hiện cách mạng thành công. Mà chỉ là sự đấu tranh nửa vời rồi bỏ cuộc, chỉ là sự bạo
động nhất thời rồi bng vũ khí đầu hàng, qua hình ảnh thỏa hiệp, nửa vời, và cuối cùng là chiêu
an với triều đình của nhân vật Từ Hải đủ thấy tư tưởng của Nguyên Du đã không nhất quán, không
đấu tranh đến cùng để được tự do, mà rốt cuộc bị ràng buộc vào cuộc đời áo mũ xênh xang, vào
luồn ra cúi, cuộc sống công hầu, nô lệ mà thơi.
Nghe lời nàng nói mặn mà,
Thế cơng Từ mới trở ra thế hàng
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh
Những con người trong Truyện Kiều mặc dù có ý thức chống lại chế độ phong kiến nhưng
vẫn chưa dứt ra được ý thức thống trị và những ràng buộc phong kiến.

19


Đã muốn lật đổ chế độ chuyên quyền, độc đoán, chuyên thống trị và áp bức mình để được
sống cuộc đời tự do, nhưng lại vẫn ao ước vị trí quyền cao chức trọng để “nở nang mày mặt, rỡ
ràng mẹ cha” Kiều vẫn mơ được sống trong cảnh giàu sang, vương phủ “Thênh thênh đường cái
thanh vân hẹp gì”, đã dấn thân vào con đường cách mạng mà còn thích lộc trọng quyền cao thì khó
mà đi tới cùng của cuộc cách mạng, và điều này thể hiện rất rõ khi Kiều nghe theo sự dụ dỗ của
quan tổng đốc Hồ Tơn Hiến đầu hàng bỏ cuộc vì nghĩ tới công danh, bổng lộc được hưởng:
Sao bằng lộc trọng quyền cao,
Công danh ai dứt lối nào cho qua?
Để rồi tất cả sự hối hận không thể nao cứu vãn được sai lầm đã mắc phải, Từ Hải chết
đứng, Kiều đâm đầu xuống sơng Tiền Đường, đó là kết quả của việc đấu tranh chống giai cấp

thống trị phong kiến nửa vời, không thực hiện cách mạng một cách triệt để, giao động và bỏ cuộc
giữa chừng.
Hạn chế này của Nguyễn Du không chỉ bắt nguồn từ ý thức hệ phong kiến mà Nguyễn Du
bị ảnh hưởng mà còn do hạn chế bởi hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam, điều kiện kinh tế xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ cịn lạc hậu nên chưa thể có điều kiện cho hệ tư tưởng cách mạng xuất hiện,
tuy nhiên dù bị hạn chế bởi điều kiện lịch sử thời đại những thực chất tư tưởng Nguyễn Du vẫn là
tư tưởng bênh vực và đứng về phía nhân dân lao động, phê phán nhà nước phong kiến, đề cao tính
nhân loại, đề cao tự do và công bằng, lên án, tố cáo sự áp bức bóc lột con người, tơn vinh phẩm
giá của con người và đấu tranh vì hạnh phúc của con người.
Mặc dù Nguyễn Du có ý thức đấu tranh chống phong kiến, có mầm mống tư tưởng tiến bộ
nhưng khi cần khái quát thành một thế giới quan, thành quan điểm có hệ thống phản ánh được xu
hướng, đường lối phát triển khách quan của xã hội thì lại vướng phải hệ tư tưởng phong kiến còn
tồn tại trong ý thức, chính vì thế mà Nguyễn Du luẩn quẩn, lúng túng trong quan niệm và đưa ra
các giai pháp bế tắc để giải quyết các vấn đề xã hội đương thời. Đáng lẽ phải là giải pháp bằng đấu
tranh giai cấp, bằng bạo lực cách mạng, vì theo học thuyết Mác - Lên nin, giải quyết mâu thuẫn
giai cấp, xung đột về lợi ích kinh tế chỉ có thể bằng bạo lực cách mạng mà thôi, không thể theo
đường lối đấu tranh ơn hịa được.
C. KẾT LUẬN
Qua việc phân tích những tư tưởng triết học cơ bản trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nổi
bật lên là những tư tưởng triết học về nhân sinh và tư tưởng triết học xã hội. Đối với triết lý nhân
sinh chủ yếu tập trung làm rõ tư tưởng biện chứng về nhân sinh và mâu thuẫn của số phận con
người trong Truyện Kiều. Luận điểm triết học xã hội đã phân tích bản chất của nhà nước phong
kiến và tinh thần đấu tranh giành quyền sống, quyền tự do của nhân dân lao động trong Truyện
Kiều. Bên cạnh việc phân tích tư tưởng triết học trong Truyện Kiều, luận án đã đánh giá những giá
trị cũng như hạn chế của nó, nhất là những giá trị đối với đời sống xã hội và giá trị văn hóa dân
tộc. Qua tìm hiểu, khảo sát, chúng tôi nhận thấy Truyện Kiều không chỉ nổi bật về văn chương,
sâu sắc về chính trị, hội tụ đầy đủ những giá trị chân - thiện - mỹ mang đậm tính dân tộc, mang
đầy tính triết lý nhân sinh. với sự khôn ngoan trong cuộc sống.

20



C. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1958), Khảo luận về Truyện Thúy Kiều, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
2. Thích Thiên Ân (1965), “Giá trị triết học tơn giáo trong Truyện Kiều”, Văn hóa Nguyện
San, số 10, trang 9
3. Bộ giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
4. Xuân Diệu (1996), Thi hào dân tộc Nguyễn Du, Nhà xuất bản Sài Gòn.
5. Xuân Diệu (2013), Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh niên, Sài
Gòn.
6. Cao Huy Đỉnh (2005), “Triết lý đạo Phật trong Truyện Kiều”, 200 năm nghiên cứu bàn
luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
7. Đại từ điển tiếng Việt (1957), Nhà xuất bản Văn hóa tư tưởng, Hà Nội.
8. Hà Huy Giáp (1971), “Chúng ta quyết biến thành hiện thực niềm mơ ước của Nguyễn Du
giải phóng dân tộc bị áp bức” Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, Viện Văn học, Hà
Nội
9. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực Nguyễn Du, Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
10. Huyễn Ý (2006), Truyện Kiều qua cái nhìn của nhà học Phật, Nhà xuất bản Thành phố Hồ
Chí Minh.
11. Lê Xuân Lít (2005), 200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội.
12. Mai Quốc Liên (1996), Nguyễn Du toàn tập, thơ chữ hán, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dụcTrung tâm nghiên cứu quốc học.
13. Nguyễn Đăng Thục (2003), Thế giới thi ca của Nguyễn Du, Nhà xuất bản Văn học, Hà
Nội.
14. Huyễn Ý (2006), Truyện Kiều qua cái nhìn của nhà học Phật, Nhà xuất bản Thành phố Hồ
Chí Minh
15. Đinh Thị Điểm (2016), Tư tưởng triết học trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Viện Hàn
Lâm khoa học xã hội Việt Nam.


21



×