Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Phân tích chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.6 KB, 19 trang )

----------

MÔN: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT VÀ
CÔNG TÁC KIỂM SÁT
Đề tài: Phân

tích chức năng thực hành quyền cơng tố của
Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014? Để xây dựng nền
công tố mạnh trong thiết chế Viện kiểm sát nhân dân,
cần đưa ra những giải pháp nào?

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
B. NỘI DUNG ......................................................................................................... 2
I. Lịch sử về quyền công tố và thực hành quyền cơng tố trong pháp luật Việt
Nam ........................................................................................................................... 2
II. Phân tích chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 ............................ 3
1. Khái niệm....................................................................................................... 3
1.1. Khái niệm quyền công tố ......................................................................... 4
1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố ......................................................... 4
2. Phạm vi thực hành quyền công tố ................................................................... 5
3. Nội dung thực hành quyền cơng tố ................................................................. 5
4. Mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố .......................................... 8
III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền công tố mạnh trong thiết chế Viện kiểm
sát nhân dân ............................................................................................................. 9
1. Thực tiễn thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát ... 9


1.1. Kết quả đạt được ..................................................................................... 9
1.2. Hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công tố ................................ 12
2. Giải pháp ...................................................................................................... 14
C. KẾT LUẬN ....................................................................................................... 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 17


A. MỞ ĐẦU
Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước đặt
dưới sự điều chỉnh tối cao của pháp luật. Để có thể đạt được mục tiêu này, một trong
những vấn đề cần quan tâm nhất chính là hoạt động của các cơ quan nhà nước trong lĩnh
vực tư pháp. Các cơ quan này cần xây dựng nhiều biện pháp để phấn đấu thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ được giao. Với tư cách là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Nói đến chức năng thực hành
quyền công tố – đã được Hiến pháp 2013 quy định và cụ thể hóa trong Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 2014 – góp một phần quan trọng trong việc đảm bảo cho việc
mọi hành vi phạm tội phải được đưa ra trước ánh sáng pháp luật, không để lọt tội phạm
và người phạm tội, không làm oan người vơ tội, đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật cũng như đảm bảo các quyền con
người, quyền cơng dân theo đúng luật định.
Từ nhận định đó, nhằm nâng cao vị thế, vai trị cơng tác này để hướng tới một nền
công tố mạnh hơn trong tương lai, em đã chọn đề tài “Phân tích chức năng thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014? Để xây dựng nền công tố mạnh trong thiết chế Viện kiểm sát
nhân dân, cần đưa ra những giải pháp nào?”.

1



B. NỘI DUNG
I. Lịch sử về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong pháp luật Việt Nam
Ở nước ta, ngay từ khi mới giành độc lập, đã có nhiều văn bản được ban hành quy
định về Cơ quan tư pháp nói chung cũng như về hoạt động thực hành quyền cơng tố
nói riêng. Nhà nước ta đã sử dụng bộ máy công tố làm công cụ bảo vệ và phục vụ sự
nghiệp cách mạng của nhân dân. Với mục đích đó, ở mỗi giai đoạn cách mạng, bộ máy
cơng tố và nhiệm vụ quyền hạn của nó được tổ chức và quy định có khác nhau [12].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13C-SL ngày 13/9/1945, đây là văn bản
pháp luật đầu tiên quy định về nội dung về thực hành quyền công tố; trong đó có ghi:
“Đứng buộc tội là một Uỷ viên quân sự hay một Uỷ viên của Ban trinh sát”. Sau đó,
một loạt các văn bản pháp luật quan trọng được ban hành, quy định về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện công tố như: Sắc lệnh số 13 ngày
24/1/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946; Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946; Sắc lệnh
số 131 ngày 20/7/1946; Thông tư số 772/TTg ngày 15/5/1956… Các văn bản pháp luật
này chủ yếu quy định về chức năng của Tồ án; đồng thời có đề cập đến nhiệm vụ thực
hành quyền công tố của một bộ phận trong Tồ án (hình thức sơ khai của Viện công tố).
Ngày 29/04/1958, Quốc hội quyết định thành lập Viện công tố nhân dân Trung
ương, tách hệ thống Viện công tố ra khỏi Bộ Tư pháp. Quyết định này đánh dấu một
giai đoạn phát triển mới của Viện công tố nói chung và quyền cơng tố nói riêng. Điều
đó đã ghi nhận vào Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa [12].
Đến ngày 01/07/1959 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 256-TTg, quy định
nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố. Theo Điều 1 Nghị định này, nhiệm vụ chủ yếu
của Viện cơng tố là đưa các vụ án hình sự ra tòa và giám sát việc tuân thủ, chấp hành
pháp luật của các cơ quan nhà nước khác.
Từ năm 1961 trên cơ sở các quy định của Hiến pháp 1959 và Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân VKSND năm 1960, hệ thống VKSND ra đời với nhiều chức năng,
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân. Cùng với Hiến pháp năm 1980
và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981; Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ


2


chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, quy định về chức năng của Viện kiểm sát nhân
dân đó là vừa kiểm sát việc tuân theo pháp luật, vừa thực hành quyền công tố.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, trên cơ sở Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi) quy định chức năng của Viện kiểm sát (VKS) là thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp. Như vậy kể từ đây, Viện kiểm sát thôi không thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội.
Sau khi Quốc hội khóa XIII thơng qua Hiến pháp năm 2013, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đã trình Quốc hội thơng qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014. Về cơ bản Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 tiếp tục kế thừa chức
năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Trải qua một quá trình hình thành và phát triển, tuy có một số thay đổi về tổ chức
bộ máy, cũng như chức năng nhiệm vụ của Cơ quan thực hành quyền công tố, song
nhận thức về quyền cơng tố của cơ quan này thì cơ bản khơng có gì thay đổi so với các
quan niệm truyền thống. Chức năng của VKSND ở Việt Nam luôn gắn liền với thực
hành quyền công tố. Nội dung này thể hiện vai trò của VKSND trong hoạt động đấu
tranh phòng chống tội phạm, cụ thể là VKSND nhân danh quyền lực nhà nước thực
hiện việc truy tố buộc tội đối với hành vi phạm tội và người phạm tội. Điều này hoàn
toàn phù hợp với lý luận về lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, coi chức năng thực
hành quyền cơng tố là chức năng vốn có của Viện cơng tố [8, tr. 55]
II. Phân tích chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014
Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là phương diện hoạt động chính, chủ yếu,
đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân, được quy định trong Hiến pháp, có nội dung là
thực hành quyền quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 107 Hiến pháp
2013 và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân) [5].
1. Khái niệm

Quyền công tố và thực hành quyền công tố là những khái niệm quan trọng khi
nhắc đến chức năng của Viện kiểm sát, và chức năng thực hành quyền công tố chỉ xuất
hiện trong tố tụng hình sự. Tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia mà quyền công tố ở mỗi quốc
3


gia được trao cho cơ quan nào. Ở nước ta, quyền công tố được giao cho cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân.
1.1. Khái niệm quyền công tố
Theo từ điển tiếng Việt, cơng tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm
pháp trước Tồ án” [6]. Cịn theo từ điển Luật học, công tố là “quyền của Nhà nước
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội” [7]
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ “quyền cơng tố”. Trên
cơ sở đó, có thể hiểu “quyền cơng tố” là quyền buộc tội của Nhà nước đối với người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự coi là tội phạm [5]. Theo đó,
đối tượng của quyền cơng tố chính là tội phạm và người phạm tội.
Như vậy, để xác định khái niệm quyền công tố, cần phải khẳng định một số vấn
đề sau đây: Thứ nhất, quyền công tố là quyền của nhà nước; thứ hai, quyền công tố về
thực chất là quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Để làm được điều đó, cơ quan được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố phải điều
tra, xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước tòa án và
bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tịa; thứ ba, quyền cơng tố mang tính cụ thể, tức chỉ
xuất hiện trong trường hợp tội phạm cụ thể đã được thực hiện và đối với những người
phạm tội cụ thể.
1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố
Xung quanh vấn đề thực hành quyền công tố hiện nay cũng có nhiều quan điểm
khác nhau. Theo khái niệm quyền cơng tố thì thực hành quyền cơng tố là thực hiện
quyền buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
Khái niệm THQCT được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức VKSND 2014:
“THQCT là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội

của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự”. Từ khái niệm, chủ thể của THQCT thuộc về Nhà nước, tuy nhiên
Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện đó là VKSND, nhân danh nhà nước để thực
hiện quyền buộc tội đối với người phạm tội; và đối tượng của hoạt động thực hành
4


quyền cơng tố chính là tội phạm và người phạm tội. Thực hành quyền công tố là chức
năng của Viện kiểm sát được ghi nhận trong Hiến pháp1.
Như vậy, quyền công tố và thực hành quyền công tố là hai khái niệm khác nhau.
Quyền cơng tố là nói đến phạm trù lý luận, trong khi đó thực hành quyền cơng tố là
một phạm trù thực tiễn.
2. Phạm vi thực hành quyền công tố
Từ khái niệm, xác định được phạm vi của THQCT bắt đầu từ khi thụ lý giải quyết
thông tin về tội phạm (giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố)
và diễn ra trong suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án và kết thúc khi được xét xử tại
Toà án. Như vậy, chỉ cần có nguồn tin có dấu hiệu của việc phạm tội thì chức năng
THQCT có thể được bắt đầu thực hiện. Theo đó, VKS sẽ xem xét có sự kiện phạm tội
xảy ra trên thực tế hay không để từ đó tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định
của pháp luật. Và khi đã tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố xong thì vụ
án được đưa ra xét xử. Khi đó, nếu thuộc một trong các trường hợp sau thì chức năng
THQCT của VKS sẽ kết thúc: Toà án đã xét xử xong mà khơng có kháng nghị, kháng
cáo; Tồ án đã xét xử xong nhưng có kháng cáo, kháng nghị và toà án đã xét xử vụ án
theo thủ tục tố tụng khác và sau đó khơng cịn kháng nghị; vụ án đã được đình chỉ điều
tra hoặc đình chỉ vụ án khi có các căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
3. Nội dung thực hành quyền công tố
Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát thể hiện ở các hoạt động
được quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật tổ chức VKSND 2014, cụ thể:
Thứ nhất, yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái

pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trực tiếp khởi tố vụ án,
khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định.

1

Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013

5


Khởi tố vụ án là giai đoạn đầu tiên của q trình tố tụng hình sự. Theo đó, khi có
đủ căn cứ khởi tố vụ án hình sự2, VKS có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết nguồn tin
về tội phạm, nếu xét thấy đủ điều kiện (có dấu hiệu tội phạm) thì phải ra quyết định
khởi tố vụ án, khởi tố bị can để nhanh chóng xử lý. Cùng với đó, khi khởi tố vụ án hình
sự, VKS cịn có trách nhiệm thực hiện các hoạt động như huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ
án hình sự của Cơ quan điều tra (CQĐT), cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố hay trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng
xét xử. Ngoài ra, Viện kiểm sát còn thực hiện quyền phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
các yêu cầu khởi tố của cơ quan có thẩm quyền, nếu xét thấy có đủ căn cứ, Viện trưởng
phải phân công Kiểm sát viên (KSV) tiến hành kiểm tra các tài liệu, chứng cứ để kiểm
tra xem có hay khơng căn cứ khởi tố vụ án hình sự, ngược lại nếu khơng phê chuẩn thì
trong quyết định đó phải nêu rõ lý do.
Thứ hai, quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn
chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự.
Điều tra là giai đoạn thứ hai trong quá trình tố tụng hình sự. Khi xét thấy cần thiết,
KSV trực tiếp thực hiện một số hoạt động điều tra như hỏi cung bị can, lấy lời khai

người bị hại, người làm chứng, đối chất, thực nghiệm điều tra. Bên cạnh đó, VKS có
quyền áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn như bắt bị can để tạm giữ, tạm giam,
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, tạm hoãn xuất cảnh… Theo đó, VKS có quyền phê
chuẩn quyết định của cơ quan điều tra trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn này,
và cũng có quyền huỷ bỏ hoặc thay đổi việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc
cũng có thể thay thế bằng các biện pháp khác.

2

Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định căn cứ khởi tố vụ án hình sự bao gồm: tố giác của cá nhân; tin báo của
cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; người phạm tội tự thú.

6


Thứ ba, hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của CQĐT,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Theo đó, nếu xác định được các quyết định của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khơng có căn cứ hoặc trái pháp luật, VKS có
quyền ra quyết định huỷ bỏ các quyết định như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự,
quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự,… Khi bị can trốn hoặc khơng biết bị can ở
đâu thì VKS có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
Thứ tư, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ
tội phạm, người phạm tội; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội
đối với người phạm tội; điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội
phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật.
Thứ năm, quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố.

Thủ tục rút gọn là một thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự, được thực hiện trong
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm khi thấy có đủ điều kiện
theo quy định tại Điều 456 BLTTHS 2015. Như vậy, khi có đủ điều kiện thì VKS thơng
qua quyền cơng tố của mình sẽ ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn hay cũng có thể
huỷ bỏ quyết định này nếu một trong các điều kiện quy định tại Điều 458 BLTTHS 2015.
Thứ sáu, quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa.
Truy tố là giai đoạn thứ ba của quá trình tố tụng hình sự. Sau khi kết thúc điều tra,
trên cơ sở kết luận điều tra, đề nghị truy tố cùng hồ sơ vụ án, nếu xác định đủ căn cứ
và cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì VKS ra quyết định truy tố bị can,
pháp nhân thương mại ra trước Toà, đồng thời chuyển quyết định truy tố cùng toàn bộ
hồ sơ vụ án cho Toà án để thực hiện việc xét xử. Sau khi hoàn thành việc truy tố, VKS
thay mặt Nhà nước THQCT bằng sự tham gia trực tiếp vào q trình xét xử vụ án,
thơng qua quá trình đọc bản cáo trạng, trình bày ý kiến của mình, luận tội bị cáo, tranh
luận đưa ra những chứng cứ, tài liệu và lập luận để qua đó làm rõ, đánh giá hành vi phạm
tội, từ đó có cơ sở để buộc tội bị cáo đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
7


Thứ bảy, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp VKSND
phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
Kháng nghị là một trong những quyền thuộc về cơ quan VKS. Theo đó, đối với
những bản án, quyết định của Tịa án mà khơng có căn cứ, chưa đúng, chưa đầy đủ
khiến cho vụ án khơng được giải quyết chính xác dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm,
VKS cùng cấp, VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ
thẩm. Điều này thêm khẳng định rằng thông qua việc THQCT, cơ quan VKS tiếp tục
thực hiện chức năng của mình để làm rõ vụ án, đảm bảo quyền lợi của cả người phạm
tội, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Thứ tám, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người
phạm tội theo quy định của BLTTHS. Có thể kể đến là THQCT trong hoạt động tương
trợ tư pháp về hình sự và những hoạt động hợp tác quốc tế khác như tiếp nhận, chuyển

giao tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án hoặc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người có hành vi phạm tội để giúp cho việc buộc tội bị can, bị cáo được hiệu quả hơn
và vụ án được xét xử nhanh chóng, đúng pháp luật.
4. Mục đích của hoạt động thực hành quyền cơng tố
Mục đích của việc thực hành quyền công tố là nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm
tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không
để lọt tội phạm và người phạm tội; không người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, bị hạn chế quyển con người, quyền cơng dân trái luật. Nói cách khác, hoạt động
thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội đều
phải được xử lý hình sự (hình thức xử lý hình sự có thể là miễn trách nhiệm hình sự;
kết án bằng bản án kết tội của Tịa án nhưng miễn hình phạt hoặc kết án bằng bản án
kết tội kèm theo quyết định hình phạt đối với người phạm tội) [5]

8


III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền công tố mạnh trong thiết chế Viện kiểm
sát nhân dân
1. Thực tiễn thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
1.1. Kết quả đạt được [11]
1.1.1. Kết quả THQCT trong giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
VKS thực hiện chức năng THQCT bắt đầu từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của cơ quan có thẩm quyền. Bắt khẩn cấp, tạm
giữ hình sự là những biện pháp ngăn chặn để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố
tụng thực hiện tổt chức năng, nhiệm vụ của mình trong cơng tác đấu tranh phòng chống
tội phạm. Thống kê cho thấy, từ năm 2006 đến 2015, ở tỉnh Nghệ An, VKS đã phát
hiện nhiều trường hợp bắt, tạm giữ khơng có căn cứ, trái pháp luật hoặc không cần
thiết, đã phê chuẩn bắt khẩn cấp 12 trường hợp, không phê chuẩn gia hạn tạm giữ 12
trường hợp và trả tự do cho 07 trường hợp. Như vậy, VKS các cấp ở tỉnh Nghệ An đã

thực hiện tốt chức năng THQCT, phát hiện kịp thời các trường hợp tạm giữ khơng có
căn cứ, trái pháp luật, góp phần giảm thiểu oan sai và chống bỏ lọt tội phạm.
1.1.2. Kết quả THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
 Hoạt động THQCT đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự
Sau khi nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT hoặc các cơ quan
khác có thẩm quyền khởi tố vụ án, VKS tập trung nghiên cứu, xác định tính có căn cứ
và tính hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án, thẩm quyền của cơ quan tiến hành khởi
tố vụ án... Trên cơ sở các tài liệu điều tra thu thập được, VKS sử dụng các quyền năng
thuộc chức năng THQCT để bảo đảm việc khởi tố vụ án có căn cứ và đúng pháp luật.
Đối với những quyết định khởi tố khơng có căn cứ, trái pháp luật, VKS ra quyết định
hủy bỏ theo đúng quy định của pháp luật. Có nhiều địa phương đã thực hiện tốt hoạt
động THQCT trong giai đoạn khởi tố vụ án, tiêu biểu như trong giai đoạn từ năm 2006
đến 2015, VKSND Tp. Vinh đã hủy 04 quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan
điều tra, VKSND huyện Diễn Châu, huyện Kỳ Sơn đã hủy 01 quyết định khởi tố vụ án
hình sự, tồn tỉnh Nghệ An đã hủy 12 quyết định khởi tố vụ án hình sự. Qua các số liệu
trên có thể thấy được chất lượng và hiệu quả của hoạt động THQCT trên phạm vi rộng.
9


 Kết quả THQCT đối với trường hợp khởi tố chậm hoặc quyết định không khởi
tố VAHS
Hằng năm đều xảy ra những vụ việc tuy có dấu hiệu tội phạm nhưng CQĐT không
xử lý, nghĩa là đã bỏ lọt tội phạm bằng hình thức khơng khởi tố. Do đó, việc quy định
chức năng THQCT của VKS giúp hạn chế bỏ lọt tội phạm, bảo đảm tính nghiêm minh
của pháp luật. Minh họa cho quan điểm này là trường hợp tính từ năm 2006 đến 2015,
VKSND cấp huyện và tỉnh đã yêu cầu khởi tố 188 vụ án, hủy quyết định không khởi
tố vụ án và ra quyết định khởi tố vụ án đối với 08 vụ án. Thống kê trong giai đoạn 2011
đến 2015, VKSND hai cấp ở Nghệ An đã yêu cầu khởi tố 142 vụ, trực tiếp ra quyết
định khởi tố 02 vụ án hình sự. Điều này phần nào phản ánh được tình hình cũng như
chất lượng hoạt động của VKSND ở Nghệ An.

 Kết quả THQCT đối với hoạt động khởi tố bị can, ra yêu cầu khởi tố bị can của VKS
Trong những năm qua, VKSND các cấp rất chú trọng đến công tác THQCT, kiểm
sát khởi tố bị can, từ đó đưa ra các giải pháp thiết thực để nâng cao chất lượng hoạt
động kiểm sát trong lĩnh vực này. Kết quả thực tiễn chứng tỏ, VKS có vai trị rất quan
trọng trong q trình khởi tố bị can, quá trình xét phê chuẩn hay hủy bỏ quyết định khởi
tố bị can. Hằng năm đều xảy ra những trường hợp khởi tố bị can chưa đủ căn cứ hoặc
khởi tố sai, bên cạnh đó là các trường hợp bỏ lọt tội phạm, không khởi tố khi xác định
một người đã thực hiện hành vi phạm tội và đầy đủ căn cứ để khởi tố. Xuất phát từ thực
tiễn đó, VKS các cấp đã thể hiện vai trị tích cực, nhằm loại trừ các trường hợp khơng
khởi tố bị can khơng có căn cứ. Từ đó khơng những làm giảm thiểu trường hợp bỏ lọt
tội phạm mà cịn có ý nghĩa rất quan trọng đến bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
1.1.3. Kết quả THQCT trong giai đoạn truy tố
 Hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, nhân chứng, đối chất:
Hoạt động phúc cung của VKS các cấp ngày càng được tăng cường, việc phê
chuẩn, hủy bỏ hoặc ban hành các quyết định tố tụng luôn bảo đảm thận trọng, khách
quan, góp phần hạn chế các trường hợp oan, sai trong tố tụng hình sự. Hiện nay, tất cả
các vụ án nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đều được VKS các cấp
tiến hành phúc cung trước khi ban hành cáo trạng truy tố. Các vụ án bị can lúc chối tội,
10


lúc nhận tội, các vụ án có khiếu nại về tính khách quan trong q trình điều tra đều được
VKS các cấp tiến hành phúc cung nhằm thẩm tra lại chứng cứ, bảo đảm tính khách
quan, chính xác của kết quả điều tra. Thông qua hoạt động phúc cung, VKS các cấp đã
phát hiện nhiều sai sót trong q trình điều tra, yêu cầu chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.
 Ban hành bản cáo trạng truy tố bị can:
Trong những năm qua, các bản cáo trạng do VKSND các cấp ban hành cơ bản
đáp ứng được yêu cầu về mặt nội dung và hình thức, truy tố đúng người, đúng tội, đúng
điểm, khoản của điều luật, thể hiện rõ hành vi phạm tội của bị cáo, chứng cứ chứng
minh tội phạm cũng như những vấn đề có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự,

được các cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá cao. Tiêu biểu, số lượng Bản cáo trạng
VKS các cấp ở Nghệ An, Thanh Hóa và Đà Nẵng ban hành hàng năm là khá lớn, tương
ứng với số vụ VKS đã truy tố, thể hiện qua liệu thống kê từ năm 2011 đến 2015, cụ
thể, ở Nghệ An có 10.350 vụ, truy tố 19.691 bị can; ở Thanh Hóa có 8.698 vụ, truy tố
16.523 bị can; ở Đà Nẵng có 3.403 vụ, truy tố 6.056 bị can; Trong khi đó, cả nước có
323.568 vụ, truy tố 577.905 bị can3.
1.1.4. Kết quả THQCT trong giai đoạn xét xử
 Hoạt động xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tịa ngày càng mang tính chủ
động, tích cực:
Trong thời gian gần đây, việc xét hỏi của đa số KSV tại phiên tịa đã thể hiện được
tính chủ động, tích cực, chất lượng xét hỏi ngày cảng được cải thiện, được dư luận
đồng tình đánh giá cao. Hoạt động chuẩn bị đề cương thẩm vấn khá tốt, các câu hỏi
nhìn chung đươc chuẩn bị cơng phu, đúng trọng tâm, dự kiến được những vấn để phát
sinh tại phiên tòa. Những câu hỏi KSV đặt ra về cơ bản là rõ ràng, ngắn gọn và có vai
trị quan trọng trong việc chứng minh hành vi phạm tội, KSV đều chuẩn bị dự thảo đề
cương, vấn đề cần xét hỏi; bình tĩnh, khơng gây căng thẳng khi xét hỏi, linh hoạt đưa
ra những câu hỏi phù hợp với tình hình diễn biến phiên tòa.
 Chất lượng luận tội ngày càng được cải thiện:

3

Nguồn: Cục thống kê tội phạm – Viện kiểm sát nhân dân tối cao

11


Thơng qua luận tội tại phiên tịa, KSV thực hiện tốt việc chứng minh tội phạm
cũng như tuyên truyền, giáo dục pháp luật, góp phần đấu tranh phịng chống tội phạm
và vi phạm pháp luật. Kỹ năng trình bày luận tội kết hợp nhiều phương pháp chứng
minh, phân tích, đối chiếu, so sánh và kết luận khi giải quyết vấn đề. Đồng thời việc

áp dụng đường lối xử lý đối với bị cáo phần lớn đảm bảo tính nghiêm minh, đúng pháp
luật, chú ý xem xét đầy đủ những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị cáo, nhân thân của bị cáo để đề nghị Tòa án áp dụng hình phạt. Ngồi ra, kết quả
THQCT trong giai đoạn xét xử còn thể hiện qua chất lượng đối đáp, tranh luận tại phiên
tòa của phần lớn Kiểm sát viên ngày càng cao và hoạt động kháng nghị bản án, quyết
định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm thể hiện sự kiên quyết, trách nhiệm.
1.2. Hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công tố
Thứ nhất, hiệu quả công tác THQCT trong giải quyết nguồn tin tội phạm chưa
cao, các trường hợp bắt khẩn cấp sau đó trả tự do không đủ căn cứ khởi tố, xử lý hình
sự vẫn xảy ra nhiều; các trường hợp tạm giữ, gia hạn tạm giữ khơng có căn cứ là vấn
đề nổi cộm. Một số VKS địa phương còn chưa nhận thức đầy đủ vai trị, tầm quan trọng
của cơng tác này, chưa có sự chỉ đạo chặt chẽ. Nhiều Viện kiểm sát chưa chủ động phối
hợp với các cơ quan tiến hành điều tra nhằm xây dựng quy chế phối hợp trong việc tiếp
nhận, giải quyết nguồn tin tội phạm, chưa có biện pháp để nắm đầy đủ số tin báo đã
tiếp nhận, thụ lý giải quyết [11]. BLTTHS 2015 đã phân định rõ trách nhiệm của CQĐT
và Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận nguồn tin về tội phạm. Viện kiểm sát khơng có
trách nhiệm giải quyết mà có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với
các nguồn tin tội phạm. Quy định như vậy đã khắc phục được tình trạng chồng chéo
hoặc ỷ lại giữa CQĐT và Viện kiểm sát trong việc xem xét, giải quyết nguồn tin về tội
phạm. Tuy nhiên Viện kiểm sát không thể nắm được đầy đủ các tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố đã được chuyển đến CQĐT vì thiếu cơ chế quản lý đầy đủ
các thông tin này. KSV được giao nhiệm vụ còn thụ động, ngại va chạm.
Thứ hai, hoạt động khởi tố vụ án, khởi tố bị can còn nhiều hạn chế. Bởi lẽ, việc
xác định tội phạm và người phạm tội trong nhiều trường hợp khơng phải dễ dàng. Có
những trường hợp dấu hiệu tội phạm được thể hiện rõ ràng nhưng trong quá trình điều
12


tra lại khó có đầy đủ căn cứ để chứng minh đối tượng phạm tội. Bên cạnh đó, việc
nghiên cứu hồ sơ, nắm bắt thơng tin về tội phạm có những lúc chưa chặt chẽ, dẫn đến

phê chuẩn khởi tố chưa đủ căn cứ, trái pháp luật, dẫn đến oan, sai.
Thứ ba, hoạt động THQCT trong suốt giai đoạn điều tra vẫn còn nhiều hạn chế,
thể hiện qua các trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Bên cạnh những nguyên
nhân khách quan như xuất hiện tình tiết mới; sau khi kết thúc điều tra bị can phản cung
hoặc cung cấp chứng cứ mới về tội phạm, người đồng phạm khác..., thực tế cho thấy
tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung do lỗi của các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn cịn
nhiều, trong đó có một phần lỗi của các KSV khơng bám sát hoạt động cũng như tiến
độ điều tra, không kịp thời phát hiện thiếu sót, vi phạm để đề ra yêu cầu điều tra, yêu
cầu CQĐT khắc phục, dẫn đến phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, thậm chí có nhiều vụ án
phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần [11].
Thứ tư, hoạt động THQCT tại phiên tòa vẫn còn nhiều hạn chế, một số trường
hợp xây dựng bản dự thảo luận tội của KSV chưa đạt yêu cầu, chuẩn bị sơ sài, bố cục
không hợp lý, nhận định và đề nghị khơng đầy đủ, thiếu chính xác. Kỹ năng trình bày
bản luận tội của một số KSV còn hạn chế, ngữ điệu, khả năng hùng biện, diễn giải ý
cần trình bày chưa trơi chảy, dẫn đến khó hiểu và khơng thuyết phục được người nghe.
Bên cạnh đó, vẫn còn một số KSV chưa nắm rõ nội dung vụ án cũng như tài liệu chứng
cứ dẫn đến việc tranh luận không tập trung vào những phần trọng tâm, kéo dài thời
gian gây ảnh hường đến việc xét xử.
Những hạn chế trong việc THQCT của VKS do nhiều nguyên nhân, cả khách
quan và chủ quan. Tổng quát lại có thể thấy do những nguyên nhân chính sau đây:
- Nhiều cán bộ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát chưa nhận thức được đầy đủ, đúng
đắn vị trí, vai trị, thẩm quyền của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự nói
chung và hoạt động thực hành quyền cơng tố nói riêng. Một số Kiểm sát viên tinh thần
trách nhiệm chưa cao, thiếu chủ động trong hoạt động thực hành quyền cơng tố, khơng
bám sát q trình điều tra vụ án, nghiên cứu án không sâu nên không nắm vững các
tình tiết của vụ án. Trình độ, năng lực chun mơn nghiệp vụ của Kiểm sát viên cịn
hạn chế; nhiều Kiểm sát viên chưa nắm vững các quy định của pháp luật hình sự và tố
13



tụng hình sự dẫn đến lúng túng trong việc áp dụng pháp luật, thậm chí áp dụng sai, gây
ra hậu quả xấu. Còn tồn tại Kiểm sát viên thiếu bản lĩnh, bị tha hoá, biến chất, tiếp tay
cho tội phạm, che dấu tội phạm hoặc tham ô, nhận hối lộ...
- Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp cịn bất
cập, khơng phải lúc nào cũng kịp thời, sâu sát và cụ thể; việc kiểm tra, giám sát của
Lãnh đạo đối với cán bộ, Kiểm sát viên chưa tốt nên nhiều vi phạm, thiếu sót của Kiểm
sát viên khơng được phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục kịp thời, vì chủ yếu chỉ dựa trên
báo cáo của cấp dưới thường là báo cáo định kỳ nên nhiều khi các vấn đề nổi cộm cần
có sự chỉ đạo lại không được nắm bắt [10].
- Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của Viện kiểm sát các cấp nhìn chung cịn yếu
và chưa đầy đủ, song việc sử dụng cịn lãng phí, chưa thiết thực, khơng đáp ứng được
yêu cầu nhanh, nhạy, chính xác, kịp thời của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
- Đặc biệt, hệ thống pháp luật thực hành quyền công tố mặc dù tương đối đầy đủ
và đang trong quá trình sửa đổi hồn thiện nhưng cịn nhiều vấn đề bất cập, chưa hoàn
thiện. Đây là nguyên nhân khách quan nhưng rất cơ bản, đòi hỏi phải được khắc phục
kịp thời, nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng hoạt
động hiệu quả trong cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm.
- Bên cạnh đó, trong quan hệ phối hợp với CQĐT mặc dù thường xuyên nhưng thiếu
chặt chẽ, do vẫn còn biểu hiện tư tưởng ngại va chạm, xuôi chiều nên không sâu sát, kịp
thời phát hiện các vi phạm pháp luật của CQĐT hoặc tuyệt đối hóa quan hệ phối hợp
mà bng xi trách nhiệm, ỷ lại vào sự chỉ đạo của cấp trên hoặc của liên ngành, do
vậy công tác tổng hợp, kiến nghị vi phạm thiếu sót trong hoạt động điều tra của CQĐT,
của Điều tra viên chưa được VKSND quan tâm thường xuyên, nhất là ở cấp huyện.
2. Giải pháp
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn cũng như quá trình thể chế hóa các quy định
dân chủ và tiến bộ, có thể giải quyết một số nội dung theo hướng như sau:
Một là, chú trọng, đổi mới công tác cán bộ, tăng cường bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức, nâng cao trình độ về chính trị, nghiệp vụ và trách nhiệm của cán bộ, KSV. Rà
sốt, kiện tồn, củng cố lực lượng, sắp xếp lại tổ chức, cán bộ để phù hợp với những
14



nhiệm vụ mới do Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đặt ra. Hằng năm,
phải tăng cường tập huấn các bộ, tổ chức nhiều phiên toà rút kinh nghiệm hơn để các
KSV có thể tiếp thu những điều hay và loại bỏ những việc làm chưa hiệu quả.
Hai là, tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo VKS nhân
dân các cấp. Lãnh đạo VKS phải nắm rõ năng lực của từng KSV để từ đó có thể phân
cơng đảm nhiệm tốt các vụ án cụ thể, đúng sở trường sẽ giúp cho hoạt động THQCT
và kiểm sát hoạt động tư pháp có hiệu quả. Viện trưởng cần thực hiện tốt các công tác
chỉ đạo, điều hành, tiến hành kịp thời và nhanh chóng. Theo đó, cần giám sát cơng tác
nội bộ để phát hiện những vi phạm, hạn chế và đề ra các biện pháp xử lý triệt để nhằm
nâng cao hiệu quả công tác của Viện kiểm sát. Thông qua các công tác thống kê báo
cáo và công tác kiểm tra nghiệp vụ, VKSND các cấp cần có thơng báo rút kinh nghiệm
kịp thời để uốn nắn, sửa chữa, khắc phục vi phạm. Phải khắc phục ngay tình trạng
VKSND cấp dưới không báo cáo hoặc báo cáo không đầy đủ, không kịp thời, điều này
gây khó khăn cho VKSND cấp trên không nắm bắt được công việc để chỉ đạo xử lý.
Ba là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho VKS và hoàn
thiện chế độ chính sách đối với cán bộ, KSV. Việc đầu tư cơ sở vật chất, tăng chế độ
đãi ngộ sẽ giúp cho cuộc sống của KSV nói chung và cán bộ ngành Kiểm sát nói riêng
được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu cuộc sống, có như thế mới thúc đẩy sự hăng hái hơn
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Nhà nước cần xem xét và ban hành các chính sách
cụ thể về chế độ lương, phụ cấp đối với cán bộ KSV để họ có điều kiện ổn định cuộc
sống, n tâm cơng tác trong q trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Đồng thời cần
có các đãi ngộ thỏa đáng, tuyên dương, tặng bằng khen, xem xét thăng chức, tăng mức
lương, phụ cấp đối với những KSV có công lớn trong công tác quản lý Nhà nước.
Bốn là, Viện kiểm sát các cấp phải tập trung lực lượng để tăng cường công tác
công tố, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác, nhất là các cơ quan
điều tra và Toà án nhân dân các cấp trong việc đấu tranh có hiệu quả với các tội xâm
phạm an ninh quốc gia, các tội về tham nhũng, ma tuý, buôn lậu, các tội về tệ nạn xã
hội. Trước mắt, phối hợp với cơ quan Công an, Toà án tập trung điều tra, truy tố và

đưa ra xét xử nghiêm minh những vụ án lớn mà dư luận đang quan tâm [9].
15


Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và hoàn thiện pháp
luật THQCT. Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng, hồn thiện pháp luật THQCT,
phải luôn đề cao sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở tuân thủ các đường lối, chủ trương
của Đảng. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng đổi mới và hồn thiện
phương thức lãnh đạo của chính mình, song song với đó, Đảng thường xun cụ thể
hố các chủ trương đó, biến thành những nhiệm vụ cụ thể để triển khai, thực hiện, nhằm
đảm bảo tính khả thi trong thực tế nhằm cải cách công tác tư pháp tới cán bộ, Đảng
viên nói chung, cán bộ ngành Kiểm sát nói riêng; kiên quyết xử lý đối với cán bộ thối
hóa, biến chất, vi phạm điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật. Cùng với đó VKSND các cấp
cần chủ động thực hiện nhiệm vụ của mình trên cơ sở thực hiện nghiêm túc các chủ
trương, chính sách, đường lối của Đảng.

C. KẾT LUẬN
Như vậy, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân là những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà ngành Kiểm sát nhân dân được giao phó. Để thực
hiện tốt các nhiệm vụ ấy, Viện kiểm sát nhân dân trở thành cơ quan Hiến định độc lập,
thực hiện hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Chức
năng thực hành quyền công tố là việc VKSND thay mặt Nhà nước thực hiện việc buộc
tội đối với người phạm tội, và chức năng này chỉ được đặt ra trong tố tụng hình sự.
Hiện nay, tình hình tội phạm hiện nay diễn ra hết sức phức tạp, bên cạnh những kết
quả đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát. Điều này đặt ra yêu cầu đó là cần khắc phục những khó khăn, hạn
chế đó, vì thế cần xây dựng một số giải pháp, qua đó nhằm xây dựng nền công tố mạnh
trong thiết chế Viện kiểm sát nhân dân.

16



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992;
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
3. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014;
4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
5. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2019), Giáo trình Lý luận chung về Viện kiểm sát
và cơng tác kiểm sát, Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
6. Hồng Phê (2002), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học – Viện ngôn ngữ học,
Nxb. Đà Nẵng;
7. Bộ tư pháp – Viện khoa học pháp lý (2002), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách
khoa – Nxb. Tư pháp;
8. Nguyễn Tất Viễn, Một số suy nghĩ về cơ quan Công tố ở Việt Nam trong thời kỳ cải
cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, số 14 (7/2007);
9. Hà Mạnh Trí, Nâng cao chất lượng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1
(01/2003);
10. Nguyễn Hồng Sơn (2017), Quyền công tố và hoạt động thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2014 – 2017, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội;
11. Tôn Thiện Phương (2017), Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự từ thực
tiễn tỉnh Nghệ An, Luận án, Học viện khoa học xã hội;
12. Nguyễn Xuân Thanh, Một số vấn đề nhận thức về Quyền công tố của Viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự, truy
cập ngày 03/07/2021;

Cùng một số cơng trình nghiên cứu khoa học và trang thông tin khác…

17




×