TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
___
___
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 38 (2012 – 2015)
Đề tài:
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
THUỘC THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
THỰC TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CAO LÃNH THUỘC TỈNH ĐỒNG THÁP
Giảng viên hướng dẫn:
Th.S Diệp Thành Nguyên
Bộ môn: Luật hành chính
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Văn Tuấn
MSSV: S120097
Lớp: DT1263B1
Cần Thơ, tháng 11/2014
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 2
5. Bố cục của luận văn .................................................................................................. 2
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO ...................................................................................................................... 4
1.1. Sơ lược quá trình hình thành pháp luật về khiếu nại, tố cáo ............................... 4
1.2. Một số vấn đề khái quát về khiếu nại, tố cáo ........................................................ 8
1.2.1. Khái quát về khiếu nại và giải quyết khiếu nại .................................................... 8
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của khiếu nại ................................................................. 8
1.2.1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc giải quyết khiếu nại ................................................. 10
1.2.2. Khái quát về tố cáo và giải quyết tố cáo .............................................................. 10
1.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tố cáo ..................................................................... 10
1.2.2.2. Vai trò và ý nghĩa của việc giải quyết tố cáo ..................................................... 12
1.2.3. Các khái niệm liên quan ..................................................................................... 13
1.3. Các nguyên tắc cơ bản của giải quyết khiếu nại, tố cáo ...................................... 14
1.4. Những hành vi bị nghiêm cấm trong khiếu nại, tố cáo........................................ 16
1.5. Phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo, khiếu nại và khởi kiện hành chính ............. 19
1.6. Những điểm mới của Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011
so với Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004, năm 2005
(hết hiệu lực) ................................................................................................................ 22
1.6.1. Những điểm mới của Luật Khiếu nại năm 2011 so với Luật Khiếu nại, tố cáo
năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004, năm 2005 (hết hiệu lực) .................................. 23
1.6.2. Những điểm mới của Luật Tố cáo năm 2011 so với Luật Khiếu nại, tố cáo
năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004, năm 2005 (hết hiệu lực) .................................. 30
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO THUỘC THẨM QUYỀN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ........................................................ 36
2.1. Quyền và nghĩa vụ của công dân khi thực hiện khiếu nại, tố cáo ....................... 36
2.1.1. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại ............................................................. 36
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại ......................................................... 38
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo................................................................... 39
2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo............................................................... 40
2.2. Khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân ..... 41
2.2.1. Khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân ................. 41
2.2.1.1. Khiếu nại trong hoạt động hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện
kiểm sát nhân dân .......................................................................................................... 42
2.2.1.2. Khiếu nại trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm
sát nhân dân .................................................................................................................. 42
2.2.2. Tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân ...................... 43
2.3. Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân..... 43
2.3.1. Tiếp nhận, phân loại và xử lý khiếu nại, tố cáo .................................................. 43
2.3.1.1. Tiếp nhận, phân loại khiếu nại, tố cáo ............................................................... 43
2.3.1.2. Xử lý đơn khiếu nại ........................................................................................... 46
2.3.1.3. Xử lý đơn tố cáo ................................................................................................ 46
2.3.2. Giải quyết khiếu nại, tố cáo ................................................................................ 48
2.3.2.1. Giải quyết khiếu nại .......................................................................................... 48
2.3.2.2. Giải quyết tố cáo ............................................................................................... 51
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO
LÃNH THUỘC TỈNH ĐỒNG THÁP ............................................................... 54
3.1. Khái quát về cơ cấu tổ chức và hoạt động của địa bàn ....................................... 54
3.1.1. Đặc điểm chung của thành phố Cao Lãnh ......................................................... 54
3.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Cao Lãnh .................................................................................................... 56
3.2. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp ................................................................................ 58
3.2.1. Những mặt đạt được của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo .......................... 58
3.2.2. Những tồn tại của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo..................................... 63
3.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại ......................................................................... 65
3.3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại,
tố cáo tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp ....... 66
3.3.1. Giải pháp trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo......................................... 66
3.3.2. Kiến nghị trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo......................................... 70
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận.
Quyền khiếu nại, tố cáo có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các quyền công
dân, quyền con người. Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo là thực hiện quyền dân chủ
trực tiếp. Một mặt, quyền khiếu nại, tố cáo là quyền tự vệ, phản kháng hợp pháp trước
các hành vi vi phạm pháp luật, mặt khác, thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo công dân tham gia vào quá trình kiểm tra, giám sát xã hội; kiểm tra, giám sát Nhà
nước. Như vậy, bằng việc phản hồi thông tin trực tiếp cho các chủ thể quản lý, thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo còn là sự tham gia của công dân vào quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Quyền khiếu nại, tố cáo được hình thành và bảo đảm thực hiện trên cơ
sở một hệ thống pháp luật đầy đủ, pháp luật được tôn trọng và Nhà nước thực hiện
quản lý xã hội bằng pháp luật.
Ngày 11 tháng 11 năm 2011, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã ban hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo góp phần
nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã
hội. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân là một trong những biện pháp
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, phát hiện
khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời
củng cố mối quan hệ và giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác khiếu nại, tố cáo nói chung,
công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp nói riêng, Lãnh đạo Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp cũng như Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Cao Lãnh đã thường xuyên quan tâm chỉ đạo làm tốt công tác này. Phòng khiếu tố
của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh và các phòng nghiệp vụ trong đơn vị
đã kịp thời thông tin cho nhau những trường hợp khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài
thuộc thẩm quyền giải quyết của ngành Kiểm sát để có sự phối hợp giải quyết nhanh
chóng đáp ứng phần nào nguyện vọng của nhân dân, không để xảy ra các điểm nóng
về khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn diễn biến phức tạp có
chiều hướng gia tăng, với nhiều vụ, việc diễn ra gay gắt, khiếu nại vượt cấp. Một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trên là do pháp luật khiếu nại, tố cáo
còn một số hạn chế, nhiều quy định còn thiếu tính cụ thể; quy định về cấp giải quyết
làm ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan của quá trình giải quyết. Khi có khiếu nại,
tố cáo thì việc giải quyết của các cơ quan, tổ chức còn thiếu trách nhiệm, làm cho nhân
dân bức xúc làm cho tình hình khiếu nại, tố cáo phức tạp thêm.
Từ thực trạng khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay tại Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh, cùng với những vấn đề của pháp luật khiếu
nại, tố cáo trước yêu cầu của cải cách hành chính và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân. Do đó việc chọn đề tài “Quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp” nhằm phản ánh phần nào tình hình
thực tế cũng như đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại,
tố cáo trên địa bàn trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một cách tổng quan về các quy định của pháp luật đối với vấn
đề khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Giúp hiểu rõ hơn quy định, quy
trình về vấn đề khiếu nại, tố cáo cũng như thực tiễn của hoạt động này tại Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp. Từ đó, đưa ra các giải pháp
hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh
thuộc tỉnh Đồng Tháp trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài là một lĩnh vực nghiên cứu của chuyên ngành luật học, nhưng do hạn chế
về mặt thời gian và tài liệu nghiên cứu nên người viết chỉ giới hạn nghiên cứu đề tài
xoay quanh Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011. Đặc biệt là người viết
chỉ tập trung làm rõ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện
kiểm sát nhân dân. Qua đó, người viết đã liên kết với thực tiễn về hoạt động khiếu nại,
tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh
thuộc tỉnh Đồng Tháp nhằm đưa ra những giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả
công tác này trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được người viết sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích
luật viết, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp sưu tầm, trích lục số liệu để làm sáng tỏ về mặt khoa học các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu trong luận văn.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo.
Chương 2: Những quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 3: Thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
Ở chương 1 này người viết trình bày một cách khái quát một số vấn đề lý luận liên
quan đến sơ lược quá trình hình thành, khái niệm khiếu nại, tố cáo và các khái niệm liên
quan. Qua đó, người viết đã nêu lên các nguyên tắc giải quyết khiếu nại, tố cáo; các hành
vi bị nghiêm cấm trong khiếu nại tố cáo nhằm đảm bảo công tác giải quyết đúng theo quy
định của pháp luật. Đồng thời, người viết cũng phân biệt giữa khiếu nại với tố cáo và
khiếu nại với khởi kiện hành chính nhằm giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về quyền và
nghĩa vụ của bản thân khi khiếu nại, tố cáo. Cuối cùng, người viết trình bày những điểm
mới của Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011 so với Luật Khiếu nại, tố cáo
năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005 (hết hiệu lực) để thấy rõ sự kế thừa và những
điểm mới của quy định pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai
đoạn mới.
1.1. Sơ lược quá trình hình thành pháp luật về khiếu nại, tố cáo
Khiếu nại, tố cáo có vai trò to lớn trong việc giữ gìn ổn định trật tự xã hội, xây
dựng xã hội dân chủ, công bằng. Do đó, mặc dù trải qua nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau của đất nước, Nhà nước ta luôn khẳng định khiếu nại, tố cáo là một quyền
của công dân và được ghi nhận trong những văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao
như Hiến pháp, Luật, Sắc lệnh...
Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ Việt
Nam Cộng hoà về thành lập Ban Thanh tra đặc biệt là văn bản pháp luật đầu tiên có
nội dung liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo, mặc dù trong văn bản này chỉ có
khái niệm khiếu nại chứ không đề cập đến tố cáo mà dùng thuật ngữ phản ánh, nhưng
việc thành lập và quy định các quyền hạn của Ban thanh tra trong Sắc lệnh thì thấy
rằng Ban thanh tra có nhiệm vụ giám sát hoạt động của Bộ máy Nhà nước, có quyền
tiếp nhận và giải quyết các thư phản ánh của người dân đối với việc làm vi phạm pháp
luật của những người trong bộ máy chính quyền (mà hiện nay gọi là giải quyết tố cáo).
“Nhiệm vụ của Ban Thanh tra đặc biệt là thường xuyên nghiên cứu và giải quyết các
đơn thư khiếu nại, phản ánh của các tầng lớp nhân dân từ khắp các địa phương gửi lên
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh”.1
Thông tư số 60-UBTTr ngày 22/5/1971 của Uỷ ban Thanh tra hướng dẫn trách
nhiệm của các ngành, các cấp trong việc xét và giải quyết đơn thư khiếu nại và tố cáo
của công dân. Thông tư đã có sự phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo cũng như cách xử
lý đối với từng loại đơn. Theo đó, Đơn khiếu nại là để chỉ những sự việc của đương sự
1
Điều 2, Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Cộng hoà về thành
lập Ban Thanh tra đặc biệt.
khiếu nại vì quyền lợi bị thiệt hại, yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải quyết (đơn đề
đạt nguyện vọng xếp vào loại đơn khiếu nại); Đơn tố cáo là đơn nói những hành vi sai
phạm của cán bộ, cơ quan làm sai chế độ, chính sách, pháp luật gây thiệt hại cho lợi
ích của tập thể và của Nhà nước. Trường hợp đơn vừa khiếu nại vừa tố cáo thì xem xét
việc nào là chủ yếu mà xếp vào việc đó.2
Triển khai thực hiện Điều 73 Hiến pháp năm 1980 và nhằm xây dựng thể chế
về khiếu nại, tố cáo, ngày 27/11/1981 Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh quy
định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân. Đây là văn bản pháp luật
trực tiếp điều chỉnh vấn đề tố cáo và giải quyết tố cáo, là văn bản đầu tiên hình thành
chế định pháp luật về tố cáo. Pháp lệnh quy định về trình tự, thủ tục, xác định thẩm
quyền và trách nhiệm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Pháp lệnh gồm 34 điều, quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và
trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo; trách nhiệm giải quyết khiếu nại tố cáo; cơ quan
quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại,
tố cáo của công dân năm 1981, ngày 29 tháng 3 năm 1982 Hội đồng Bộ trưởng ban
hành Nghị định số 58/HĐBT về việc thi hành Pháp lệnh quy định việc xét và giải
quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân. Nghị định này quy định về quyền và trách
nhiệm của công dân trong việc khiếu nại, tố cáo, thẩm quyền, thời hạn và thủ tục trong
việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Ngày 07 tháng 5 năm 1991, Hội
đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh năm 1991 (thay thế cho Pháp lệnh năm 1981) với
mục đích để bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, tăng cường pháp chế, phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Hướng dẫn cụ thể Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công
dân, Thủ thướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38/HĐBT ngày 28 tháng 01
năm 1992 về việc thi hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân. Nghị định này đã
có sự phân biệt rõ ràng giữa khiếu nại và tố cáo. Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo
với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bằng hình thức gửi đơn hoặc trực tiếp trình bày.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải
thu thập tài liệu, chứng cứ lập thành hồ sơ và ra văn bản kết luận, quyết định giải
quyết. Nếu thấy có dấu hiệu tội phạm thì chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra hoặc Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Nhằm hoàn thiện hơn nữa chế định pháp luật về khiếu nại và tố cáo, Luật Khiếu
nại, tố cáo được Quốc hội thông qua ngày 02 tháng 12 năm 1998, có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1999. Ngày 15 tháng 6 năm 2004 tại kỳ họp thứ 5, Quốc
2
Khoản 3, Điều 4, Thông tư số 60-UBTTr ngày 22/5/1971 của Uỷ ban Thanh tra hướng dẫn trách nhiệm của các
ngành, các cấp trong việc xét và giải quyết đơn thư khiếu nại và tố cáo của công dân.
hội khoá XI đã thông qua Luật số 26/2004/QH11 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; tiếp đến ngày 29 tháng 11 năm 2005 tại kỳ họp thứ
8, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật số 58/2005/QH11 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004.
Tuy nhiên, các Luật sửa đổi, bổ sung năm 2004 và năm 2005 chỉ sửa đổi, bổ
sung một số quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại, phần tố cáo không có sự
thay đổi.
Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và các Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, Nghị định chủ yếu
hướng dẫn việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại, các quy định về tố cáo và giải quyết
tố cáo trong Nghị định vẫn được quy định như trong Nghị định số 53/2005/NĐ-CP.
Tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp lên Trung ương, xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, trong đó một phần do cơ quan hành chính nhà nước ở một số địa
phương còn thiếu trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; hiệu lực,
hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo còn hạn chế; kỷ luật, kỷ cương hành chính trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa nghiêm. Do đó, ngày 27/10/2004, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chỉ thị số 36/2004/CT-TTg về chấn chỉnh và tăng cường trách
nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
Chỉ thị yêu cầu: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Thủ trưởng các cơ quan hành
chính nhà nước phải tổ chức thi hành và thực hiện nghiêm túc quy định pháp luật về
khiếu nại, tố cáo, Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 06/3/2002 của Ban Bí thư và các văn bản
chủ đạo khác của Đảng, Nhà nước. Khi công dân đến trụ sở, cán bộ tiếp công dân
thuộc bất cứ cơ quan nào cũng phải có trách nhiệm tiếp, lắng nghe nguyện vọng của
dân, hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo theo
đúng quy định của pháp luật.
Ngoài những văn bản pháp luật chung về khiếu nại, tố cáo, trong từng lĩnh vực
quản lý hành chính, các cơ quan nhà nước đều ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
công tác giải quyết tố cáo, điển hình như: Nghị quyết số 30/2004/QH11 ngày 15 tháng
6 năm 2004 của Quốc hội về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản
lý hành chính nhà nước; Nghị quyết số 715/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 18 tháng 6
năm 2004 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức gửi Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, các thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Nghị quyết số
2278/2007/QĐ-TTCP ngày 24 tháng 10 năm 2007 của Thanh tra Chính phủ ban hành
quy chế lập, quản lý hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, hồ sơ giải quyết tố
cáo; Quyết định số 530/2006/QĐ-TLĐ ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam ban hành quy định về Công đoàn giải quyết và tham gia giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
Đồng thời, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đều ban hành quy định
về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của bộ, ngành hoặc quy chế tiếp công
dân, xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị trên địa bàn tỉnh, thành phố, như: Thông tư số
02/2011/TT-UBDT ngày 15/7/2011 quy định về tiếp công dân và giải quyết khiếu
nại, tố cáo của Uỷ ban Dân tộc; Thông tư số 03/2010/TT-BTTTT ngày 14/01/2010
quy định về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Bộ Thông tin và Truyền
thông; Quyết định số 06/2007/QĐ-BTP ngày 27/6/2007 của Bộ Tư pháp ban hành
Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo của Bộ Tư pháp.
Riêng trong ngành kiểm sát đã ban hành Quyết định số 59/2006/QĐ-VKSTCV7 ngày 06 tháng 02 năm 2006 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành quy chế
về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
Như vậy, hệ thống pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố
cáo ở Việt Nam nhìn chung rất đầy đủ và chi tiết, quyền khiếu nại, tố cáo của công
dân được Hiến pháp ghi nhận và được cụ thể hóa trong nhiều văn bản quy phạm
pháp luật như Luật khiếu nại, tố cáo; Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư
của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố
cáo được quy định trong tất cả các ngành, lĩnh vực của cuộc sống, bảo đảm công
dân thực hiện quyền tố cáo của mình một cách đầy đủ. Tuy nhiên, trên thực tế công
tác giải quyết tố cáo còn nhiều hạn chế, hiệu quả giải quyết các vụ việc tố cáo chưa
cao do các quy định về trách nhiệm giải quyết tố cáo còn chung chung, nhiều đầu
mối đã dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, người tố cáo chưa được bảo vệ
đúng mức, còn bị đe doạ, trả thù, trù dập; các chế định về khiếu nại và tố cáo
thường được quy định chung trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật, nhiều
trường hợp cả người tố cáo và người có thẩm quyền giải quyết tố cáo vẫn chưa
phân biệt được tố cáo và khiếu nại. Để thực hiện công cuộc cải cách hành chính nhà
nước và phát huy quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền công dân, xây dựng
xã hội dân chủ, văn minh và hoàn thiện hệ thống pháp luật về khiếu nại, tố cáo, Dự
án Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo đã được đưa vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp
lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007 – 2011) tại Nghị quyết số
11/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007 của Quốc hội. Trải qua quá trình soạn
thảo, lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của nhân dân, các bộ, ngành, đoàn thể, các tổ
chức chính trị, chính trị - xã hội. Ngày 25 tháng 8 năm 2010 Chính phủ đã trình Dự
án Luật Tố cáo ra trước Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XII
(Tờ trình số 100/TTr-CP). Ngày 11 tháng 11 năm 2011 Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 2 đã thông qua Luật Khiếu nại, Luật
Tố cáo có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2012.
1.2. Một số vấn đề khái quát về khiếu nại, tố cáo
1.2.1. Khái quát về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của khiếu nại
Khiếu nại là “đề nghị xét lại một quyết định hoặc một sự việc mà mình không
đồng ý”.3
Trong lịch sử lập hiến và lập pháp của nước ta, quyền con người, quyền công
dân và những bảo đảm pháp lý cho những quyền đó luôn là vấn đề quan trọng của
Đảng, Nhà nước và xã hội rất quan tâm. Trong bản Hiến pháp năm 1946, mặc dù chưa
có điều khoản nào trực tiếp quy định về quyền khiếu nại của công dân, nhưng với nền
tảng là nền dân chủ nhân dân thì đó là cơ sở cho việc hình thành quyền khiếu nại của
công dân trong các bản Hiến pháp sau này. Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp đầu
tiên quy định trực tiếp về quyền khiếu nại của công dân: Công dân nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà có quyền khiếu nại với bất cứ cơ quan nhà nước nào về những hành vi
phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước. Những việc khiếu nại phải được xét và
giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ
quan nhà nước có quyền được bồi thường.4 Hiến pháp năm 1980 quy định đầy đủ và
phát triển hơn quyền khiếu nại của công dân đã được quy định trong Hiến pháp 1959.
Hiến pháp năm 1980 quy định: Công dân có quyền khiếu nại với bất cứ cơ quan nào
của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và
đơn vị đó. Các điều khiếu nại phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Mọi hành
động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử
lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường. Nghiêm cấm việc trả
thù người khiến nại.5 Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980, một văn bản chuyên biệt về
khiếu nại, tố cáo đã được ban hành là: Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các
khiếu nại, tố cáo của công dân ngày 27 tháng 11 năm 1981. Hiến pháp năm 1992 ra
đời đã phát triển hoàn thiện hơn quy định về khiếu nại của công dân: “Công dân có
quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật
3
Văn Tân, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, năm 1994, tr.433.
Điều 29 Hiến pháp năm 1959.
5
Điều 73 Hiến pháp năm 1980.
4
của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc
bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết
trong thời hạn pháp luật quy định. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, hoặc lợi
dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.6 Trên cơ sở
Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã ban hành một đạo luật chuyên biệt về khiếu nại là:
Luật Khiếu nại ngày 11 tháng 11 năm 2011. Gần đây nhất Hiến pháp năm 2013 có
hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2014, đã quy định: Mọi người có quyền khiếu nại với
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết
khiếu nại. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại
hoặc lợi dụng quyền khiếu nại để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Khiếu nại có các đặc điểm sau: Một là, chủ thể khiếu nại là công dân, cơ quan,
tổ chức hoặc cán bộ công chức; Hai là, chủ thể bị khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá
nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại; Ba
là, đối tượng khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định
kỷ luật cán bộ, công chức liên quan đến chủ thể khiếu nại; Bốn là, thủ tục, thẩm quyền
khiếu nại do pháp luật quy định chặt chẽ; Năm là, căn cứ khiếu nại là khi chủ thể khiếu
nại có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ
luật cán bộ, công chức là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể
khiếu nại; Sáu là, mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể khiếu nại.
Như vậy, “khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức
theo thủ tục do Luật Khiếu nại năm 2011 quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.7
1.2.1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc giải quyết khiếu nại
Việc giải quyết khiếu nại có những vai trò và ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, việc giải quyết khiếu nại thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm thực hiện
quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Bởi vì, khiếu nại là một trong những cách thức
cơ bản thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Điều này còn xuất phát từ bản
chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Văn kiện của Đảng đã xác
6
7
Điều 74 Hiến pháp năm 1992.
Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
định: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở”.8 Cho nên
việc giải quyết khiếu nại cần được quan tâm để giải quyết kịp thời, hiệu quả và đúng
pháp luật.
Thứ hai, việc giải quyết khiếu nại là cách thức để khôi phục và bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức bị xâm hại do hành vi trái pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Đồng thời, thông qua việc khiếu nại
và giải quyết khiếu nại mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền hiểu đầy đủ hơn ý
chí, nguyện vọng của công dân, nhằm kịp thời đề ra các biện pháp bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân.
Thứ ba, thông qua việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại giúp cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền phát hiện sự vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý hành
chính của nhà nước. Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp xử lý, loại trừ và ngăn chặn
những vi phạm.
Thứ tư, việc giải quyết khiếu nại góp phần quan trọng vào việc chấn chỉnh cơ
quan nhà nước và đội ngũ cán bộ công chức; nhằm góp phần bảo đảm hoạt động bình
thường của bộ máy nhà nước nói chung, cơ quan hành chính nhà nước nói riêng.
Thông qua đó để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, góp phần củng cố và tăng cường
pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước.
1.2.2. Khái quát về tố cáo và giải quyết tố cáo
1.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tố cáo
Cũng như quyền khiếu nại, quyền tố cáo là một quyền cơ bản của công dân.
Quyền tố cáo và quyền khiếu nại gắn bó chặt chẽ với nhau và có nhiều điểm tương
đồng với nhau. Khi quyền khiếu nại bắt đầu được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam
thì quyền tố cáo cũng được quy định và hai quyền này thường được quy định trong
cùng một điều của Hiến pháp. Khi quyền khiếu nại được quan tâm đầy đủ hơn thì
quyền tố cáo cũng được quan tâm đầy đủ hơn. Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp
đầu tiên quy định trực tiếp về quyền tố cáo của công dân. Hiến pháp năm 1959 quy
định: Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tố cáo với bất cứ cơ quan
nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước. Những
việc tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi
phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường.9 Hiến pháp
năm 1980 quy định đầy đủ và phát triển hơn quyền tố cáo của công dân đã được quy
định trong Hiến pháp năm1959. Hiến pháp năm 1980 quy định: Công dân có quyền tố
cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan
8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2001,
tr.134.
9
Điều 29 Hiến pháp năm 1959.
nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc
các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó. Các điều tố cáo phải được xem xét và giải quyết
nhanh chóng. Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được
kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường.
Nghiêm cấm việc trả thù người tố cáo.10 Hiến pháp năm 1992 ra đời đã phát triển hoàn
thiện hơn quy định về tố cáo của công dân. Công dân có quyền tố cáo với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc tố cáo
phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
Nghiêm cấm việc trả thù người tố cáo hoặc lợi dụng quyền tố cáo để vu khống, vu cáo
làm hại người khác.11 Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014,
đã quy định: Mọi người có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được
bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp
luật. Nghiêm cấm việc trả thù người tố cáo hoặc lợi dụng quyền tố cáo để vu khống,
vu cáo làm hại người khác.
Tố cáo có những đặc điểm sau: Một là, chủ thể tố cáo là cá nhân (gồm có
công dân và người nước ngoài). Cơ quan, tổ chức không là chủ thể của tố cáo, tức
không có quyền tố cáo; Hai là, chủ thể bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có
hành vi bị tố cáo; Ba là, đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật của bất
kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; Bốn là, thủ
tục tố cáo do pháp luật quy định chặt chẽ; Năm là, mục đích của tố cáo không chỉ là
bảo vệ quyền và lợi ích của người tố cáo mà còn bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, công dân khác.
Tóm lại, “tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật Tố cáo năm 2011 quy
định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp
luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.12
1.2.2.2. Vai trò và ý nghĩa của việc giải quyết tố cáo
Việc giải quyết tố cáo có những vai trò và ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, cũng như việc giải quyết khiếu nại, việc giải quyết tố cáo thể hiện
sự tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Bởi vì, tố
10
Điều 73 Hiến pháp năm 1980.
Điều 74 Hiến pháp năm 1992.
12
Khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011.
11
cáo là một trong những cách thức cơ bản thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của
nhân dân. Cho nên, việc giải quyết tố cáo cũng phải được quan tâm để giải quyết
kịp thời và đúng pháp luật.
Thứ hai, việc giải quyết tố cáo là cách thức để khôi phục và bảo vệ lợi ích của
nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức bị xâm hại do hành
vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân bất kỳ trong xã hội.
Thứ ba, thông qua việc tố cáo và giải quyết tố cáo giúp cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền phát hiện tình trạng vi phạm pháp luật, diễn biến và nguyên nhân
của tình trạng vi phạm pháp luật trong xã hội. Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp
xử lý, loại trừ và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội.
Thứ tư, việc giải quyết tố cáo còn góp phần quan trọng vào việc phát hiện
những vi phạm pháp luật của cơ quan nhà nước nói chung và của cán bộ, công chức
nói riêng; từ đó có biện pháp xử lý và chấn chỉnh các cơ quan nhà nước và đội ngũ
cán bộ, công chức nhằm góp phần đảm bảo hoạt động bình thường của các cơ quan
nhà nước. Điều này càng có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong khi mà Đảng, Nhà
nước và nhân dân rất quan tâm đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Văn kiện của Đảng đã xác định: “Toàn Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã
hội phải có quyết tâm chính trị đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí… Hoàn thiện
cơ chế dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò của cơ quan
dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc
giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, phát hiện, đấu tranh với các
hiện tượng tham nhũng”.13
1.2.3. Các khái niệm liên quan
Người khiếu nại: Người khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,
công chức thực hiện quyền khiếu nại.14
Cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại:
Cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị vũ trang nhân dân.15
Người bị khiếu nại: Người bị khiếu nại là cơ quan hành chính nhà nước hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hành chính,
13
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2006,
tr. 128-129.
14
Khoản 2 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
15
Khoản 4 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
hành vi hành chính bị khiếu nại; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có quyết
định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại.16
Người giải quyết khiếu nại: Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.17
Giải quyết khiếu nại: Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và
ra quyết định giải quyết khiếu nại.18
Người tố cáo: Người tố cáo là công dân thực hiện quyền tố cáo.19
Người bị tố cáo: Người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố
cáo.20
Người giải quyết tố cáo: Người giải quyết tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
Giải quyết tố cáo: Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội
dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo.21
Quyết định hành chính:
Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn
đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với
một hoặc một số đối tượng cụ thể.22
Hành vi hành chính: Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính
nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc
không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.23
Quyết định kỷ luật: Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với cán bộ,
công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức.24
Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng
Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng là quyết định có hiệu lực thi hành và
người khiếu nại không được quyền khiếu nại tiếp.
Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật
16
Khoản 5 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
Khoản 6 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
18
Khoản 11 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
19
Khoản 4 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011.
20
Khoản 5 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011.
21
Khoản 7 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011.
22
Khoản 8 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
23
Khoản 9 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
24
Khoản 10 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.
17
Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật bao gồm: quyết định
giải quyết khiếu nại cuối cùng; quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà trong
thời hạn do pháp luật quy định người khiếu nại đã không khiếu nại tiếp hoặc
không khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án; quyết định giải quyết khiếu nại lần
tiếp theo mà trong thời hạn khiếu nại do luật định người khiếu nại không khiếu
nại tiếp.
1.3. Các nguyên tắc cơ bản của giải quyết khiếu nại, tố cáo
1.3.1. Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật
Tuân theo Hiến pháp và pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt trong tất cả các hoạt
động của cơ quan nhà nước cũng như trong hoạt động của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào. Đối với hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc tuân theo các quy định
của pháp luật là nguyên tắc mang tính cơ bản nhất.
Tuân theo Hiến pháp, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung
cũng như giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp tại Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Cao Lãnh nói riêng có nghĩa là phải tuân theo pháp luật cả trong xác minh
thẩm quyền; trong tiếp nhận đơn thư; trong xác minh, nghiên cứu vụ việc; trong ra
quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật. Có như thế mới có thể
giải quyết khiếu nại, tố cáo một cách đúng đắn, triệt để và đạt hiệu quả.
1.3.2. Nguyên tắc dân chủ, công khai
Đảng và Nhà nước ta không ngừng phấn đấu để xây dựng một nhà nước dân
chủ, thực sự của dân, do dân, vì dân. Để thực hiện tốt điều đó nguyên tắc dân chủ,
công khai đang được đặc ra đối với mọi hoạt động quản lý nhà nước.
Khiếu nại, tố cáo được coi là phương thức trực tiếp để thực hiện quyền dân chủ
của công dân. Bởi vậy, dân chủ công khai trong giải quyết khiếu nại, tố cáo càng là
một đòi hỏi quan trọng. Nguyên tắc này đòi hỏi người giải quyết khiếu nại, tố cáo phải
lắng nghe ý kiến của các bên, đảm bảo tự do dân chủ, bình đẳng trước pháp luật. Trong
giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại cần phải có trách nhiệm đối thoại trực
tiếp với người khiếu nại và người bị khiếu nại để làm rõ nguyên nhân khiếu nại, yêu
cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại.
Phải tạo điều kiện cho các bên trình bày quan điểm của mình về nội dung vụ
việc cũng như dự kiến cách thức giải quyết. Đối với quá trình giải quyết khiếu nại lần
hai, người giải quyết khiếu nại phải triệu tập người khiếu nại, người bị khiếu nại để đối
thoại khi cần thiết. Có thể nói đây là hình thức “tranh tụng” theo thể thức hành chính,
nếu làm tốt sẽ khắc phục tệ quan liêu, một chiều khi giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo từ lúc tiếp nhận đơn cho tới khi ra quyết
định giải quyết khiếu nại, tố cáo cuối cùng đều phải công khai, minh bạch, mọi trình tự
thủ tục, mọi quyết định liên quan tới vụ việc mà người giải quyết khiếu nại đưa ra phải
được công bố công khai cho người khiếu nại, tố cáo, người bị khiếu nại, tố cáo và người
có quyền và lợi ích liên quan được biết. Vì thế yêu cầu đề cao nguyên tắc này ngày càng
cao.
1.3.3. Tôn trọng sự thật khách quan, thận trọng và vô tư
Nguyên tắc này không chỉ là yêu cầu riêng đối với hoạt động giải quyết khiếu
nại tố cáo trong lĩnh vực tư pháp, mà nó còn là yêu cầu chung đối với tất cả các hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các cơ quan quản lý nhà nước.
Nguyên tắc này đòi hỏi công dân, cơ quan, tổ chức khi thực hiện việc khiếu nại
phải phản ánh trung thực, đúng sự thật mọi tình tiết, diễn biến của sự việc, không lợi
dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo người khác. Bởi nếu cung cấp thông
tin không chính xác sẽ dẫn đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo không chính xác của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đối với người giải quyết khiếu nại, tố cáo nguyên tắc này đòi hỏi phải nhìn
nhận sự việc một cách trung thực như nó vốn có, không phụ thuộc vào ý muốn của các
bên đương sự, cũng như không phụ thuộc vào ý nghĩ chủ quan của bản thân người giải
quyết khiếu nại, tố cáo, bởi nếu không sẽ nhận đến ngộ nhận, ra quyết định giải quyết
khiếu nại, tố cáo không đúng, ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Để
làm được điều đó, người giải quyết khiếu nại, tố cáo phải nắm vững các quy định của
pháp luật và tuân theo các quy định đó trong quá trình giải quyết. Bởi, chỉ có tuân theo
pháp luật thì mới có thể vô tư, khách quan, thận trọng. Khi tiến hành giải quyết khiếu
nại, tố cáo, cơ quan, người có thẩm quyền phải thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu khi
cần thiết. Người giải quyết khiếu nại có thể gặp gỡ nhân chứng, trưng cầu giám định,
yêu cầu các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin cho mình, kể cả
việc có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế.
Đồng thời, người giải quyết khiếu nại, tố cáo có trách nhiệm tạo mọi điều kiện
thuận lợi, không cản trở và phải cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để công dân thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình.
1.3.4. Giải quyết kịp thời và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật
Yêu cầu này không chỉ là yêu cầu đối với giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với
hoạt động tư pháp mà nó còn là yêu cầu chung của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Việc giải quyết nhanh chóng kịp thời sẽ tránh được những bức xúc, thiếu tin tưởng
trong nhân dân, đồng thời tiết kiệm được nhiều tiền của của nhân dân cũng như của
Nhà nước do khiếu nại, tố cáo dây dưa, kéo dài.
Trong giai đoạn hiện nay giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời và nhanh chóng
đang là một nguyên tắc cần được đề cao.
1.4. Những hành vi bị nghiêm cấm trong khiếu nại, tố cáo
Thứ nhất, các hành vi bị nghiêm cấm trong khiếu nại
Trong quá trình thực hiện việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại không phải lúc nào
người khiếu nại, người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại hoặc cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác tham gia quan hệ này cũng thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Tình trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do nhận
thức về pháp luật của các chủ thể liên quan còn hạn chế hoặc do vì lợi ích chưa thoả
đáng cho nên đã cố ý không thực hiện, thậm chí chống đối, gây mất ổn định an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội. Để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, đưa việc
khiếu nại, giải quyết khiếu nại đạt hiệu quả, tránh việc lợi dụng quyền khiếu nại hoặc
quyền công dân để gây rối làm mất ổn định xã hội, Luật Khiếu nại năm 2011 đã có các
quy định cấm đối với một số hành vi trong quá trình khiếu nại, giải quyết khiếu nại tùy
theo đối tượng, tính chất, mức độ vi phạm, người có hành vi vi phạm sẽ bị xử lý hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường hoặc
bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, Điều 6 của
Luật Khiếu nại năm 2011 đã đưa ra các hành vi bị nghiêm cấm. Cụ thể là: cản trở, gây
phiền hà cho người thực hiện quyền khiếu nại; đe doạ, trả thù, trù dập người khiếu nại;
thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại; không giải quyết khiếu nại; làm sai
lệch các thông tin, tài liệu, hồ sơ vụ việc khiếu nại; cố ý giải quyết khiếu nại trái pháp
luật; ra quyết định giải quyết khiếu nại không bằng hình thức quyết định; bao che cho
người bị khiếu nại; can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết khiếu nại; cố tình khiếu
nại sai sự thật; kích động, xúi giục, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo người khác
tập trung đông người khiếu nại, gây rối an ninh trật tự công cộng; lợi dụng việc khiếu
nại để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; xuyên tạc, vu
khống, đe dọa, xúc phạm uy tín, danh dự của cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm
giải quyết khiếu nại, người thi hành nhiệm vụ, công vụ khác; vi phạm quy chế tiếp
công dân; vi phạm các quy định khác của pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu
nại.
Đồng thời, cũng quy định các biện pháp xử lý như: Tại Điều 68 Luật Khiếu nại
2011 quy định: “Người nào có một trong các hành vi quy định tại các khoản 5, 6, 7 và
8 Điều 6 của Luật Khiếu nại hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về khiếu
nại và giải quyết khiếu nại thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật”.
Thứ hai, các hành vi bị nghiêm cấm trong tố cáo
Những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động tố cáo và giải quyết tố cáo được
quy định tại Điều 8 Luật Tố cáo năm 2011, bao gồm: Gây khó khăn, phiền hà đối với
việc thực hiện quyền tố cáo của công dân; Thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết tố
cáo; Tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và những thông tin khác có thể
làm lộ danh tính của người tố cáo; Làm sai lệch hồ sơ vụ việc trong quá trình giải
quyết tố cáo; Không giải quyết hoặc cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật; lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trong việc giải quyết tố cáo để thực hiện hành vi trái pháp luật,
sách nhiễu, gây phiền hà cho người bị tố cáo; Không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ trách nhiệm bảo vệ người tố cáo; Cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giải
quyết tố cáo; Cản trở việc thực hiện quyền tố cáo; đe doạ, trả thù, trù dập, xúc phạm
người tố cáo; Bao che người bị tố cáo; Cố ý tố cáo sai sự thật; kích động, cưỡng ép, dụ
dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật; mạo danh người khác để tố cáo; Mua
chuộc, hối lộ người giải quyết tố cáo; đe doạ, trả thù, xúc phạm người giải quyết tố
cáo; Lợi dụng việc tố cáo để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà
nước; xuyên tạc, vu khống, gây rối an ninh, trật tự công cộng, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác; Đưa tin sai sự thật về việc tố cáo và giải quyết tố cáo; Vi
phạm các quy định khác của pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo.
Theo quy định tại Điều 46 của Luật Tố cáo, người giải quyết tố cáo có hành vi
quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều 8 của Luật Tố cáo hoặc vi phạm
các quy định khác của pháp luật trong việc giải quyết tố cáo thì tuỳ theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Điều 48 của Luật Tố cáo cũng quy
định rõ: Người tố cáo và những người khác có liên quan có hành vi quy định tại các
khoản 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 và 13 Điều 8 của Luật Tố cáo hoặc vi phạm các quy định
khác của pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi
phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Những quy định nêu trên, đều được kế thừa các quy định của Luật Khiếu nại, tố
cáo năm 1998, sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005. Để triển khai hiệu quả các quy định
này, nhằm hạn chế hành vi khiếu nại, tố cáo sai sự thật trong thời gian tới cần thực
hiện đầy đủ các giải pháp: Một là, cần tuyên truyền sâu rộng Luật Khiếu nại, Luật Tố
cáo đến cá nhân, tổ chức và toàn thể nhân dân để nắm rõ các quy định của pháp luật,
đặc biệt là các hành vi nghiêm cấm và quy định xử lý các hành vi khiếu nại, tố cáo sai
sự thật. Hai là, cần ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
khiếu nại, lĩnh vực tố cáo và triển khai thực hiện nghiêm túc, tránh tình trạng thiếu
nghị định xử phạt như trước đây. Ba là, khi thụ lý đơn thư khiếu nại, tố cáo cần phân
loại cụ thể nội dung nào đúng sự thật thì phải nghiêm túc giải quyết; đối với nội dung
sai sự thật sau khi có kết luận chính thức thì phải chuyển đến cá nhân, cơ quan có thẩm
quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Có như vậy, sẽ hạn chế được các đơn thư
khiếu nại, tố cáo sai sự thật, cũng như tình trạng các đơn thư kéo dài, vượt cấp, phức
tạp như thực tiễn thi hành pháp luật khiếu nại, tố cáo như thời gian qua.25
Nhà nước khuyến khích công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật, do vậy nhà nước có cơ chế động viên đối với
người có thành tích trong việc tố cáo. Thể hiện được tính đặc thù của việc khen thưởng
trong lĩnh vực tố cáo và giải quyết tố cáo, Luật Tố cáo quy định cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thành tích trong việc giải quyết tố cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn
ngừa thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì được khen thưởng về vật chất, tinh
thần.26 Điều 21 Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2012 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo đã quy định cụ thể về các
loại khen thưởng như sau: Huân chương Dũng cảm; Bằng khen của Thủ tướng Chính
phủ; Bằng khen của cấp Bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể Trung ương; Giấy khen để tặng
hoặc truy tặng cho cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc tố cáo, phát hiện, ngăn
chặn hành vi vi phạm pháp luật.
Việc khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc tố cáo giải
quyết tố cáo được thực hiện theo pháp luật về thi đua khen thưởng. Như vậy, không
phải tất cả mọi người tố cáo đều được khen thưởng mà chỉ người tố cáo có công trong
việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì được khen thưởng về vật
chất và tinh thần.
1.5. Phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo, khiếu nại và khởi kiện hành chính
Thứ nhất, điểm khác nhau giữa khiếu nại và tố cáo
Việc phân biệt giữa khiếu nại với tố cáo có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp
công dân thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo của mình đúng thủ tục và đúng cơ
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo; đồng thời giúp cho cơ quan nhà nước
giải quyết khiếu nại, tố cáo nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tránh được nhầm lẫn, sai
sót trong khi giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khiếu nại và tố cáo khác nhau ở những điểm
cơ bản sau:
Một là, về chủ thể thực hiện khiếu nại, tố cáo
Chủ thể thực hiện quyền khiếu nại là cá nhân, cơ quan hay tổ chức và cá nhân,
cơ quan hay tổ chức phải bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành
25
Đỗ
Văn
Nhân,
Cần
xử
lý
thật
nghiêm
người
khiếu
nại,
tố
cáo
sai
sự
thật,
, [truy cập ngày 24/10/2014].
26
Điều 45 Luật Tố cáo năm 2011.
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Chủ thể thực hiện quyền tố cáo chỉ có thể là
cá nhân, một người cụ thể. Cá nhân có quyền tố cáo mọi hành vi vi phạm mà mình biết
được, hành vi vi phạm đó có thể tác động trực tiếp hoặc không tác động đến người tố
cáo.
Hai là, về đối tượng của khiếu nại, tố cáo
Đối tượng của khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc
quyết định kỷ luật cán bộ, công chức. Những quyết định và hành vi này phải tác động
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Đối tượng của tố cáo rộng
hơn rất nhiều, công dân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan,
tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, của mình và của người khác. Như
vậy, hành vi vi phạm pháp luật của người bị tố cáo có thể tác động trực tiếp hoặc
không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của người tố cáo, nhưng người tố cáo vẫn có quyền
tố cáo.
Ba là, về mục đích của khiếu nại, tố cáo
Mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ và khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp
của người khiếu nại. Mục đích của tố cáo không chỉ để bảo vệ quyền và lợi ích của
người tố cáo mà còn để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội và của tập thể, của cá nhân
khác và nhằm trừng trị kịp thời, áp dụng các biện pháp nghiêm khắc để loại trừ những
hành vi trái pháp luật xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân.
Bốn là, về quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, người tố cáo
Người khiếu nại có thể tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác khiếu nại tại cơ
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Người tố cáo phải tự mình (không được uỷ
quyền cho người khác) tố cáo hành vi vi phạm pháp luật đến bất kỳ tổ chức, cơ quan
quản lý nhà nước nào.
Người khiếu nại được quyền rút khiếu nại. Người tố cáo không được rút tố cáo
và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình, nếu cố ý tố cáo
sai sự thật thì phải bồi thường thiệt hại.
Người khiếu nại có quyền khiếu nại lần thứ hai hoặc khởi kiện vụ án hành
chính ra Toà án khi không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại (mà không cần
phải có căn cứ cho rằng việc giải quyết khiếu nại không đúng pháp luật). Còn người tố
cáo chỉ được tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố
cáo không được giải quyết chứ không được khởi kiện ra toà án.
Năm là, về thẩm quyền giải quyết
Cơ quan hoặc người có trách nhiệm nhận và giải quyết khiếu nại lần đầu là cơ
quan có người thực hiện hành vi hành chính hoặc người đã ra quyết định hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu
hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại
lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật tố tụng
Hành chính.
Cơ quan có trách nhiệm giải quyết tố cáo là cơ quan quản lý nhà nước thực
hiện chức năng nào thì có trách nhiệm giải quyết tố cáo thuộc chức năng của cơ quan
đó. Trong trường hợp cơ quan quản lý nhà nước đã tiếp nhận tố cáo nhưng xét thấy
trách nhiệm giải quyết tố cáo không thuộc chức năng của cơ quan mình thì
phải chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền và thông báo cho người tố cáo biết. Hành
vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy
định của pháp luật về tố tụng hình sự. Người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tố cáo mà bị tố cáo thì họ không có thẩm quyền giải quyết đơn tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật của chính bản thân mình. Người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tố cáo chỉ có quyền giải quyết những đơn tố cáo hành vi vi phạm quy định về
nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan, tổ chức mà mình quản lý trực tiếp.
Sáu là, về thời hạn giải quyết
Thời hạn giải quyết khiếu nại 27 căn cứ vào số lần khiếu nại của người khiếu
nại. Đối với khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý và 45 ngày đối
với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn (vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể
kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý và không quá 60 ngày, đối
với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn). Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không
quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý và không quá 60 ngày đối với vùng sâu, vùng xa đi lại
khó khăn (đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn
nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý và không quá 70 ngày đối với vùng sâu,
vùng xa đi lại khó khăn)
Thời hạn giải quyết tố cáo28 là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý, đối với vụ việc phức
tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý. Trường hợp cần thiết, người
có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30
ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày.
Bảy là, về bản chất của khiếu nại, tố cáo
27
28
Điều 28, Luật Khiếu nại năm 2011.
Điều 21, Luật Tố cáo năm 2011.
Bản chất của khiếu nại là việc người khiếu nại đề nghị người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính, còn bản chất của
tố cáo là việc người tố cáo báo cho người có thẩm quyền giải quyết tố cáo biết về hành
vi vi phạm pháp luật.
Thứ hai, điểm khác nhau giữa khiếu nại và khởi kiện hành chính
Về khái niệm: khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công
chức theo thủ tục do Luật Khiếu nại năm 2011 quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết
định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là
trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đối với khởi kiện hành
chính là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khiếu nại đến cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình khi bị quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm.29
Về chủ thể giải quyết: đối với khiếu nại thì người có thẩm quyền giải quyết là
chủ thể chịu trách nhiệm về quyết định, hành vi hành chính bị khiếu nại. Còn đối với
khởi kiện hành chính thì chủ thể giải quyết là cơ quan tài phán như Tòa án, trọng tài.
Về thời hiệu: đối với khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định
hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính. Còn thời hiệu
khởi kiện hành chính là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành
chính, hành vi hành chính.
Về trình tự, thủ tục giải quyết: khiếu nại được giải quyết theo quy định của luật
Khiếu nại năm 2011, còn khởi kiện vụ án hành chính được thực hiện theo luật tố tụng
Hành chính năm 2010.
1.6. Những điểm mới của Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011 so với
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004, năm 2005 (hết hiệu
lực)
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 2004,
2005 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan, cá nhân, tổ chức thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện, Luật cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn đặt ra. Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật
Khiếu nại và Luật Tố cáo nhằm thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng về công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
29
Diệp Thành Nguyên, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Pháp luật về khiếu nại và khiếu kiện hành chính, Đại
học Cần Thơ, năm 2012, tr. 02.
đại hoá và hội nhập quốc tế hiện nay. Hai Luật này đã được Chủ tịch nước ký lệnh
công bố và có hiệu lực từ ngày 01/7/2012.30 Sau đây người viết xin được giới thiệu
những nội dung mới của hai Luật nói trên.
1.6.1. Những điểm mới của Luật Khiếu nại năm 2011 so với Luật Khiếu nại, tố cáo
năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004, năm 2005 (hết hiệu lực)
Luật Khiếu nại năm 2011 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XIII thông qua tại kỳ họp thứ 2, ngày 11/11/2011 và đã được Chủ tịch nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Lệnh công bố và Luật có hiệu lực từ ngày
01/7/2012. So với Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004, năm
200531 thì Luật Khiếu nại năm 2011 có những điểm mới sau:
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh
Tại Điều 1, Luật Khiếu nại tiếp tục quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước,
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước; khiếu nại và giải quyết
khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức; đồng thời có quy định rõ hơn về việc
tiếp công dân; quản lý và giám sát công tác giải quyết khiếu nại. Ngoài ra, để bảo đảm
quyền khiếu nại của công dân được quy định phù hợp với Luật tố tụng Hành chính
năm 2010, thực tiễn giải quyết khiếu nại hiện nay và kế thừa quy định của Luật Khiếu
nại, tố cáo năm 1998, Luật Khiếu nại quy định cụ thể tại Điều 3 về áp dụng pháp luật
về khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Thứ hai, về khái niệm “Quyết định hành chính”
Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 thì “Quyết định hành chính”
là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một
số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.32
Quy định về thuật ngữ trên của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 dẫn đến thực tế
có nhiều cách hiểu khác nhau về “Quyết định hành chính”. Đó là:
Quyết định hành chính phải là văn bản thể hiện dưới hình thức Quyết định do cơ
quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước ban hành được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một
vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước; các loại văn bản thể hiện
dưới hình thức khác như kết luận, thông báo, công văn thì không được coi là quyết
định hành chính và không thuộc đối tượng được khiếu nại.
30
Diệp Thành Nguyên, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Pháp luật về khiếu nại và khiếu kiện hành chính, Đại
học Cần Thơ, năm 2012, tr. 07.
31
Sau đây gọi tắt là Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998.
32
Khoản 10 Điều 2 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998.