Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Vai trò của kinh tế tư nhân Việt Nam và thực tiễn đổi mới ở thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.36 KB, 9 trang )

462

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÅN VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở THÀNH PHỐ HÂI PHÒNG
ThS. Lê Thị Thảo
Trường Đại học Dược Hà Nội

Tóm tắt: Ở Việt Nam, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đó là
một nội dung mới trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10 – NQ/TW về “phát
triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây chính là điều kiện hết sức quan trọng để có thể củng cố,
phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam nói chung và kinh tế tư nhân ở Hải Phịng nói riêng..
Để làm rõ vai trị của kinh tế tư nhân nói chung, kinh tế tư nhân ở Hải Phịng nói riêng,
trong bài viết này chúng tôi đề cập đến một số vấn đề sau đây:
- Về mặt lý luận, làm rõ vai trò động lực của kinh tế tư nhân, làm cho những người còn kỳ
thị với kinh tế tư nhân phải thay đổi quan điểm và thái độ ứng xử đối với kinh tế tư nhân..
- Về mặt thực tiễn, đưa ra những minh chứng xác đáng, những bài học từ thực tiễn phát
triển kinh tế tư nhân, tạo sức lan tỏa và nhân rộng mơ hình trên phạm vi tồn quốc.
- Trên cơ sở đó, chúng tơi rút ra bài học thực tiễn của thành phố Hải Phòng trong việc
phát triển kinh tế tư nhân một số năm gần đây.
Từ khóa: Kinh tế tư nhân, vai trò của kinh tế tư nhân, Thành phố Hải Phòng.
ROLE OF VIETNAM PRIVATE ECONOMY
AND THE INNOVATION REALITY IN HAI PHONG CITY
Abstract: In Vietnam, the private economy is an important motivation of the economy. It is a
new content in the awareness of the Communist Party of Vietnam. The 5th conference of the 12th
Central Committee of the Communist Party of Vietnam promulgated Resolution No.10 - NQ/TW
on “developing the private economy to become an important driving force of the communismoriented market economy”.This is a very important condition in strengthening and developing
the Vietnamese private economy in general and the private economy in Hai Phong in particular.


To clarify the role of the private economy in general and the private economy in Hai
Phong in particular, in this article, we address some of the following issues:
- Theoretically, clarify the motivational role of the private economy, causing those who
still discriminate against the private economy to change their views and attitudes toward
the private economy.
- In terms of practice, giving appropriate evidence, lessons from the practice of
developing the private economy, creating the power to spread and replicate the model on
a national scale.


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

463

- Based on that, we learnt the practical lessons from Hai Phong city in developing private
economy in recent years.
Keywords: Private economy, the role of the private economy, Hai Phong city
1. ĐẶT VÇN ĐỀ

Hiện nay, Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế này tồn
tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Tuy
nhiên, trên thực tế kinh tế tư nhân chưa phát triển hết tiềm năng vốn có của nó. Có nhiều
nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là do nhiều người chưa nhận
thức và vận dụng đúng quan điểm của Đảng về vai trò động lực của kinh tế tư nhân. Họ
quan niệm sai lầm rằng: về bản chất các doanh nghiệp tư nhân hoạt động chỉ vì lợi nhuận
của mình. Từ nhận thức như vậy, họ đã đặt ra những rào cản đối với kinh tế tư nhân.
Đương nhiên thực tiễn sẽ vạch đường đi cho mình, kinh tế tư nhân sẽ vượt qua những rào
cản đó, một số địa phương đã có bước tiến lớn trong nhận thức và đổi mới cách thức trong
phát triển kinh tế tư nhân. Điển hình phải kể đến là thành phố Hải Phòng – một trong
những trung tâm kinh tế lớn của cả nước.

Để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn nữa với tất cả tiềm năng của nó,
về mặt lý luận chúng ta cần làm rõ vai trò động lực của kinh tế tư nhân, làm cho những
người còn kỳ thị với kinh tế tư nhân phải thay đổi quan điểm và thái độ ứng xử với kinh tế
tư nhân. Về mặt thực tiễn chúng ta cần đưa ra những minh chứng xác đáng, những bài học
từ thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân, tạo sức lan tỏa và nhân rộng mơ hình trên phạm vi
tồn quốc.
2. KINH TẾ TƯ NHÅN VÀ VAI TRÒ ĐỘNG LỰC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ

2.1. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Kinh tế tư nhân xuất hiện từ khi chế độ công hữu cộng sản nguyên thủy tan rã và chế
độ tư hữu hình thành. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế tư nhân phi tư bản và kinh tế tư
nhân tư bản. Kinh tế tư nhân phi tư bản khơng có quan hệ người thuê lao động và
người lao động làm thuê, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế của các hộ gia đình
nơng dân, những người kinh doanh và bn bán nhỏ. Kinh tế tư nhân tư bản có quan hệ
người thuê lao động và người lao động làm thuê. Người lao động làm thuê được người
thuê lao động trả cơng lao động dưới nhiều hình thức khác nhau dựa vào kết quả sản
xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp do các cá nhân (trong nước hay nước ngồi) cùng
góp vốn (cổ phần) thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp liên doanh giữa
nhà nước và tư nhân không hoàn toàn thuộc thành phần kinh tế tư nhân hay kinh tế nhà
nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp mà nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối thì có thể được xếp
vào thành phần kinh tế nhà nước, ngược lại doanh nghiệp mà tư nhân chiếm tỷ lệ chi
phối thì có thể được xếp vào thành phần kinh tế tư nhân. Kinh tế ở nước ta hiện nay tuy
có nhiều thành phần nhưng có thể quy về hai thành phần là kinh tế tư nhân và kinh tế
nhà nước.


464

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP


Kinh tế tư nhân dưới hình thức phát triển là kinh tế tư nhân tư bản. Những người sản
xuất hàng hóa nhỏ phải cạnh tranh với nhau, cạnh tranh thì dẫn đến tình trạng là: một số
người kinh doanh có lãi thì ngày càng phát triển, mở rộng kinh doanh và phải thuê lao
động và trở thành người thuê lao động; một số người kinh doanh thua lỗ thì phá sản trở
thành người lao động làm thuê. Như vậy, kinh tế tư nhân phi tư bản hàng ngày hàng giờ
phát triển thành kinh tế tư nhân tư bản.
Sở hữu của kinh tế tư nhân là sở hữu tư nhân. Nếu kinh doanh có lãi thì người kinh
doanh được hưởng lợi; nếu kinh doanh thua lỗ thì người kinh doanh bị thiệt. Vì thế, mục
đích của những người làm kinh tế tư nhân trước hết là vì lợi nhuân. Nhưng khơng phải chỉ
vì lợi nhuận mà cịn vì những lợi ích khác nữa. Tuy nhiên, phải khẳng định người làm
kinh tế tư nhân rất quan tâm và tích cực phấn đấu để có lợi nhuận cao nhất. Chính vì thế
nên kinh tế tư nhân thường có hiệu quả cao.
Nhiều người chưa nhận thức đúng về bản chất và vai trò của kinh tế tư nhân. Trên thực
tế tất cả các nước đều có một số doanh nghiệp tư nhân gây tác động tiêu cực đối với xã hội
(kinh doanh trái phép, trốn thuế, buôn lậu, lừa đảo và các hành vi phạm pháp khác). Nhưng về
bản chất thì kinh tế tư nhân nói chung là tích cực, Vì góp phần tạo ra của cải vật chất, giải
quyết việc làm cho người lao động, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của xã hội. Khơng nên
vì một số doanh nghiệp tư nhân gây tác động tiêu cực mà cho rằng kinh tế tư nhân về bản chất
là tiêu cực. Nhận thức sai lầm này vẫn đang là một nguyên nhân cản trở sự phát triển của kinh
tế tư nhân. Vì vậy, để làm cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn với tất cả tiềm năng của
nó thì cần tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế tư nhân, những người còn kỳ thị với kinh tế tư
nhân cần phải thay đổi quan điểm và thái độ ứng xử với kinh tế tư nhân.
2.2. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được vị trí, vai trị của
kinh tế tư nhân trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Nhờ vậy, kinh tế
tư nhân không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong những nhân tố chính tạo nên sự tăng
trưởng kinh tế nhanh. Trải qua hơn 30 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã không chỉ dần
được phục hồi mà cịn có những bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt là
sau Đại hội X (năm 2006), kinh tế tư nhân được xác định chính thức là thành phần kinh tế

được khuyến khích phát triển, không hạn chế về quy mô. Kinh tế tư nhân đã có những
đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Việt Nam hiện có khoảng 600 nghìn doanh nghiệp, trong đó có gần 500 nghìn doanh
nghiệp tư nhân. Trong số này có hơn 96 % là doanh nghiệp nhỏ và vừa, 2 % doanh nghiệp
quy mô vừa và 2 % doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp tư nhân tạo ra khoảng 1,2 triệu việc
làm, đóng góp hơn 40 % tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mỗi năm.
Kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế là bởi những lý do cơ
bản sau:
Một là, vai trò của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế ngày càng quan trọng.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư nhân là


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

465

nhân tố khơng chỉ bảo đảm cho việc duy trì tộc độ tăng trưởng GDP cao, tạo nguồn thu
cho ngân sách nhà nước mà còn tham gia vào giải quyết hàng loạt những vấn đề xã hội
như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực,… Kinh tế tư nhân
liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 40 - 43 % GDP; thu hút khoảng
85% lực lượng lao động, góp phần quan trong trong huy động các nguồn lực xã hội cho
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an
ninh xã hội.
Hai là, đóng góp vào nền kinh tế và hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân
cao, nhiều sáng kiến, đổi mới và sự đột phá được xuất phát từ những doanh nghiệp tư
nhân. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn 1,2 lần so với mức
bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước. Vai trò của kinh tế tư
nhân càng trở nên quan trọng hơn khi mà khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.

Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong cơ cấu GDP luôn ở mức trên 43 % GDP
(so với khu vực kinh tế nhà nước là 28,9% GDP và khu vực có vốn đầu tư nước ngồi FDI
là 18% GDP). Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh, đạt hơn 110 nghìn doanh nghiệp
mới (2016). Thương hiệu của khu vực tư nhân đã không chỉ được ghi nhận ở thị trường
trong nước mà cả ở thị trường khu vực và quốc tế. Đã xuất hiện những tập đồn kinh tế tư
nhân có quy mơ lớn cả về vốn và công nghệ cao.
Ba là, chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà nước đang hướng tới việc tạo điều kiện thuận
lợi cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh hơn. Chính phủ cam kết sẽ cải thiện mơi trường kinh
doanh theo hướng bình đẳng, minh bạch, an tồn và thân thiện, tạo mọi điều kiện để doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi
nghiệp phát triển thuận lợi. Bên cạnh đó, khu vực tư nhân cũng ln đổi mới, nâng cao năng
lực cạnh tranh để đứng vững trên thị trường và hoạt động theo cơ chế thị trường.
Bốn là, trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả với những dự án lớn
đang bị thua lỗ thì vị trí, vai trị của kinh tế tư nhân ngày càng được đánh giá tích cực hơn. Đầu
tư tài chính của nhiều doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh
kém, gây ra những hậu quả kinh tế lớn. Một số doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện được vai
trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh
tế. Kinh tế tư nhân đang ngày càng phát triển với vai trị khơng thể phủ nhận.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân đang có xu hướng giảm, từ 11,93%/
năm (2003-2010) xuống 7,54 %/ năm (2011-2015). Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng được vai
trò động lực của nền kinh tế. Trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm,
cạnh tranh yếu, khả năng liên kết và tham gia chuỗi giá trị cịn nhiều hạn chế; tình trạng gian
lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh… vẫn phổ biến. Nguyên nhân là do:
Thứ nhất, môi trường pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân chưa hoàn thiện,
nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán, phức tạp và chồng chéo.
Điều kiện thủ tục hành chính, thủ tục tiếp cận đất đai, thị trường tín dụng, cơ hội đầu tư


466


KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

rườm rà, cản trở khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Chi phí kinh doanh, chi phí vận tải
(Logistics, tiền lương, bảo hiểm…) cao. Lãi xuất vay cao khoảng 7 - 9% trong khi
Trung Quốc là 4,3%, Malayxia 4,6%, Hàn Quốc 2 - 3%. Với hơn 4000 các điều kiện
kinh doanh (trong đó nhiều quy định khơng theo thông lệ quốc tế) đặt ra các rào cản
không phù hợp đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân. Trong khi có thể cắt giảm
càng sớm càng tốt đến hơn 50% các điều kiện không hợp lý này. Điều mà các doanh
nghiệp tư nhân cần không phải là sự hỗ trợ, ưu đãi, ưu tiên đặc biệt mà là hệ thống
pháp luật về kinh doanh minh bạch, cơng bằng và lành mạnh, hệ thống thủ tục hành
chính đơn giản, thuận tiện và sớm đi vào thực tiễn.
Thứ hai, chính sách thuế q nhiều bất cập và có sự phân biệt đối xử giữa doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân còn bị đối xử thiếu
cơng bằng. Một số chính sách quy định chỉ đề cập đến doanh nghiệp nhà nước mà chưa đề
cập đến doanh nghiệp tư nhân. Lợi được hưởng từ những chính sách thường ưu tiên cho
các doanh nghiệp nhà nước. Những quan điểm đánh giá về doanh nghiệp tư nhân chưa
khách quan gây khó khăn, cản trở hoạt động kinh doanh của khu vực tư nhân. Ngồi
những khó khăn về thể chế kinh tế, bộ máy hành chính chưa hiệu quả, thủ tục hành chính
thiếu minh bạch và cơ chế trách nhiệm giải trình. Nhiều doanh nghiệp phải trả các chi phí
“khơng chính thức” để giải quyết cơng viêc… Những bất cập này càng khiến cho khu vực
kinh tế tư nhân đã nhỏ lại kém phát triển. Vì vậy, để kinh tế tư nhân có điều kiện phát triển
mạnh mẽ, cần tập trung vấn đề giải quyết bình đẳng thật sự giữa các chủ thể kinh doanh,
giữa kinh tế tư nhân và doanh nghiệp nhà nước.Thiết lập chế độ ưu đãi thuế cho đối tượng
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ ba, thiếu thị trường, thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh là trở ngại lớn nhất đối
với các doanh nghiệp. Việc giải quyết những vấn đề rào cản về thủ thủ tục hành chính là
bắt buộc, nhưng để doanh nghiệp có thể phát triển thì vấn đề “thị trường”, vấn đề đầu ra,
vấn đề hình thành nơi trao đổi bn bán, hình thành trục liên kết,... sẽ giúp các doanh
nghiệp phát triển đột phá. Để doanh nghiệp tư nhân là động lực phát triển kinh tế cần thúc
đẩy hoàn thiện thể chế thị trường đầy đủ. Bởi thị trường là cơ hội tiếp cận kinh doanh, cơ

hội tiếp cận đất đai, tiếp cận thơng tin, chính sách, quy hoạch…; là sự liên kết giữa các
doanh nghiệp nhỏ với các tập đoàn lớn để tiêu thụ sản phẩm, tạo ra chuỗi giá trị,…
Thứ tư, vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn
chế. Hiệu quả thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để phát
triển kinh tế tư nhân chưa cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là hạ tầng giao thông và nguồn nhân lực. thiếu vốn luôn là
vấn đề tách thức đối với các doanh nghiệp tư nhân khi khơng có tài sản thế chấp để vay
vốn hoặc tài sản thế chấp không minh bạch, đang tranh chấp; thiếu dự án khả thi. Bởi vậy,
Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiêp cận vay vốn ngân hàng, huy
động vốn trên thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp và sử dụng các
dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý.
Đánh giá vai trò của kinh tế tư nhân những năm qua, Nghị quyết 10-NQ/TW nêu rõ:
“kinh tế tư nhân ở nước ta đã khơng ngừng phát triển, đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

467

nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Cụ thể kinh tế tư nhân duy trì
tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 30 đến 43 % GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng
lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội.
3. THỰC TIỄN PHÁT TIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG
3.1. Những dấu ấn trong lịch sử phát triển kinh tế tư nhân Hải Phòng
Cùng với sự phát triển chung của nước, kinh tế tư nhân Hải Phịng ở nhiều thời điểm
đã có những bứt phá ngoạn mục. Chúng ta biết rằng Hải Phòng là vùng đất sở hữu chiều
dài bờ biển trên 125 km, có 6 cửa sơng lớn với mật độ bình qn 0,7 km/km2 đổ ra biển, là
đầu mối giao thông huyết mạch nối miền Bắc với quốc tế, một môi trường để phát triển
hiệu quả kinh tế tư nhân.
Lịch sử đã cho thấy, một thời gian ngắn sau khi người Pháp thành lập thành phố

Hải Phịng (ngày 19-7-1888), Hải Phịng đã có hệ thống cảng lớn nhất miền Bắc, là trung
tâm tài chính, cơng nghiệp của cả Đơng Dương. Ngồi sự phát triển mạnh mẽ loại hình
tư bản tư nhân của người Pháp, thành quả kinh tế của những người Việt tại Hải Phịng
thời kỳ này cũng rất đáng nể. Điển hình phải kể đến doanh nhân Bạch Thái Bưởi gắn với
Công ty Giang Hải Luân, nổi danh cả nước về công nghiệp đóng tàu và vận tải hàng hải;
Doanh nhân Nguyễn Sơn Hà với hãng sơn Sơn Hà đủ sức cạnh tranh với các hãng sơn
lớn ở thế giới; Doanh nhân Đoàn Đức Ban thành công vang dội nhờ phát triển nghề sản
xuất nước mắm truyền thống thương hiệu Vạn Vân, tiền thân của nước mắm Cát Hải
ngày nay…
Sự nghiệp của các vị doanh nhân này cũng gắn liền với công cuộc cách mạng
của dân tộc. Họ chính là những nhà tư sản cách mạng tiêu biểu của Việt Nam thời kỳ
thuộc Pháp.
Trong thời kỳ Việt Nam tồn tại mơ hình kinh tế tập trung, một thời gian dài kinh tế
tư nhân khơng được chú trọng. Vì vậy loại hình kinh tế này chỉ được quan niệm là hình
thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên cũng trong thời kỳ này, Hải
Phòng được coi là một trong những địa phương đi đầu về sự sáng tạo và thực hiện “khốn
mới” trong nơng nghiệp. Mơ hình của Hải Phòng đã trở thành minh chứng hữu hiệu khẳng
định vai trò kinh tế tư nhân, tạo sự bứt phá về phát triển nông nghiệp trên phạm vi cả nước.
Có thể nói, với nhiều cách làm mới, Hải Phịng luôn là địa phương tiên phong, như nhận
xét của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong một chuyến thăm và làm việc tại Hải Phòng
“Hải Phòng đã đặt những viên gạch đầu tiên trong công cuộc đổi mới của Đảng”.
Sau sự kiện sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, kéo theo sự đổ vỡ của
mô hình kinh tế lớn “Hội đồng tương trợ kinh tế” năm 1991. Hệ quả là nhiều ngành kinh tế mũi
nhọn của Hải Phịng đứng trước nguy cơ đổ vỡ tồn diện, hàng loạt nhà máy phải đóng cửa,
nhiều ngành dịch vụ bị ngưng trệ, tạo ra cuộc khủng hoảng về nguồn lực và an sinh xã hội.
Bước ra từ cuộc thử thách lớn, kinh tế Hải Phòng đã vận dụng hiệu quả cơng cuộc
đổi mới của Đảng, tìm ra hướng phát triển mới. Nổi bật là những người thợ lành nghề
khơng chịu khoanh tay trước khó khăn, tự mày mị mơ hình và phục hồi hiệu quả các



468

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

ngành sản xuất. Những bước tiến ngoạn mục của Hải Phịng trong các ngành dịch vụ, cơng
nghiệp như vận tải biển, đóng tàu, giày dép, may mặc, cơ khí… là minh chứng rõ nét.
3.2. Những bước tiến ngoạn mục
Theo NQ10: “Kinh tế tư nhân đã phát triển trên nhiều phương diện… bước đầu đã
hình thành được một số tập đồn kinh tết tư nhân có quy mơ lớn, hoạt động đa ngành…”
Nghĩa là, kinh tế tư nhân không chỉ cịn bó hẹp trong “Hộ gia đình” nữa, mà đã phát triển
trên phạm vi rộng, từ góc nhìn này, có thể thấy thành quả đạt được của kinh tế tư nhân Hải
Phòng rất to lớn.
Đơn cử như dịch vụ cảng biển, thành phố có gần 40 doanh nghiệp, sử dụng chiều dài cầu
cảng hơn 11km, lượng hàng hóa qua cảng tăng trưởng từ 13% đến 15%. Ngành dịch vụ du lịch,
dịch vụ xã hội cũng đóng góp vào bản đồ kinh tế thành phố nhiều sắc màu, với hệ thống hàng
chục bệnh viện, hàng trăm trường học dân lập, cùng hơn 20 nghìn doanh nghiệp khác hoạt động
theo các mơ hình trách nhiệm hữu hạn, cổ phần tư nhân, doanh nghiệp tư nhân…
Nói đến phát triển kinh tế tư nhân Hải Phịng trong giai đoạn đổi mới, khơng thể
khơng kể đến cú bứt phá của thu hút đầu tư trong nước mấy năm gần đây. Đó là các dự án
khổng lồ do các tập đoàn kinh tế tư nhân đầu tư, có thể kể hàng trăm nghìn tỷ đồng của
VinGroup cho các dự án khu vui chơi giải trí đảo Vũ Yên, khu nông nghiệp kỹ thuật cao
Vineco ở huyện Vĩnh Bảo, khu nhà ở cao cấp tại huyện Hồng Bàng, bệnh viện Vinmec ở
quận Lê Chân và tổ hợp sản xuất ô tô Vinfast ở huyện Cát Hải, Sun Group với hàng chục
nghìn tỷ đồng cho dự án phát triển du lịch Cát Hải, tập đoàn Mường Thanh với dự án hơn
5 nghìn tỷ đồng phát triển khu du lịch ở Đồ Sơn…
Trong 3 trụ cột của nền kinh tế, kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể có mỗi quan hệ hữu
cơ rất đặc biệt. Thực tế ở Hải Phòng, kinh tế tư nhân là tiền để để hình thành kinh tế tập
thể. Điều đó có thể thấy rõ trong 273 thành viên của Liên minh Hợp tác xã và doanh
nghiệp Hải Phòng, hầu hết xuất phát điểm của các thành viên đều từ mơ hình kinh tế tư
nhân được liên minh lại.

Vì vậy, lâu nay trong các báo cáo thống kê của Hải Phòng, việc khu lập kết quả hoạt
động của kinh tết tư nhân và tập thể thành khái niệm “ngoài nhà nước” là khá phù hợp. Từ
đó có thể xác định được tỷ lệ đóng góp của kinh tế ngồi nhà nước, để hoạch định chính
sách vĩ mơ tạo ra sự bình đẳng giữa kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế còn lại.
Trong đợt quán triệt, triển khai thực hiện NQ10 tại Hải Phịng, có thể khẳng định
Hải Phịng đã đạt được những đột phá về phát triển kinh tế tư nhân. Trước hết ở việc rà
soát các nguồn thu đã giúp thành phố đạt tăng thu nội địa bình quân 5 nghìn tỷ
đồng/năm, từ mức thu chi đạt khoảng 8 nghìn tỷ đồng/năm, dự kiến năm 2017 Hải Phịng
sẽ đạt tổng thu nội địa hơn 21 nghìn tỷ đồng. Đó là hiệu quả thiết thực trong việc ngăn
chặn vi phạm, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp, mà số lượng vốn tư nhân đang
chiếm tỷ lệ áp đảo. Việc lập lại kỷ cương về thuế, cùng với những động thái kiên quyết
trong thu hồi các dự án giao đất kém hiệu quả, là tiền đề thực hiện “Cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh”.


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

469

Thành phố đã đề ra những cơ chế mở, thu hút hàng trăm nghìn tỷ đồng của các tập
đoàn kinh tế tư nhân mạnh như VinGroup, SunGroup, Him Lam, đầu tư vào các dự án lớn.
Kết quả cho thấy, Hải Phòng đã và đang triển khai những mục tiêu rất sát với chủ trương
NQ10 của Trung Ương Đảng, với sự sáng tạo và giải pháp mạnh mẽ.
3.3. Những hạn chế tồn đọng
Vấn đề đặt ra là, mặc dù có những bước tiến ngoạn mục, nhưng kinh tế tư nhân ở Hải
Phòng chưa thực sự được hệ thống hóa thành một mơ hình phát triển đột phá. Thành phố
cũng chưa có nhiều sản phẩm tư nhân có sức cạnh tranh cao, tình trạng tự phát, chụp giật
trong sản xuất kinh doanh tiềm ẩn nhiều nguy cơ thiếu tính ổn định, tình trạng vi phạm pháp
luật theo kiểu “làm liều” cũng không thể hiện được mục đích tăng trưởng bền vững. Tuy
nhiên, những vấn đề bất cập này cũng không phải của riêng kinh tế tư nhân Hải Phòng, mà

là của kinh tế tư nhân cả nước nói chung. Điều này đã được NQ10 chỉ rõ.
Hiện nay, Hải Phịng có rất ít doanh nghiệp thương hiệu mạnh, chưa đủ sức cạnh
tranh trên thương trường, tính tự phát của kinh tế tư nhân còn hiện hữu và thiếu mục tiêu
phát triển bền vững, công tác cải cách thủ tục hành chính dù đã có nhiều nỗ lực nhưng
chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đề ra, hoạt động của các tổ chức hiệp hội chưa phát huy hiệu
quả về nghề nghiệp, cơ chế chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho doanh nghiệp thông qua
các trung tâm chuyên trách còn yếu… Những hạn chế này cần phải gấp rút khắc phục.
3.4. Bài học thực tiễn
Trong thời gian qua, kinh tế tư nhân Hải Phịng đã có những thành cơng rõ rệt, khẳng
định vai trị động lực của sự phát triển đối với nền kinh tế.
- Nhờ sự khơi thông về mặt lý luận và mở đường về đường lối, cơ chế, chính sách, sự
khơi thơng này cũng tác động tích cực đến nhận thức của các cấp lãnh đạo, các doanh
nghiệp cũng như người dân Hải Phòng nói chung. Điều đó khiến cho kinh tế tư nhân Hải
Phịng vốn có sức sống bền bỉ, năng động đã được phát triển với tốc độ khá cao, trở thành
một trong những lực lượng kinh tế chủ yếu đóng góp cho nền kinh tế quốc dân nói chung
và kinh tế Hải Phịng nói riêng.
- Hải Phịng đã làm tốt cơng tác xây dựng Đảng, thực hiện tốt nghị quyết của Trung
ương về tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị, hoạt động hiệu lực hiệu quả; về công tác
cán bộ, đào tạo cán bộ, phát huy vai trò, sức mạnh của tập thể trên cơ sở tình đồng chí vì
sự nghiệp chung; tăng cường đấu tranh phịng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, bảo
đảm cho kinh tế - xã hội phát triển mạnh và toàn diện.
- Về phương diện con người, Hải Phòng đã phát huy tinh thần yêu nước - một yếu tố
vô cùng quan trọng quyết định sự thành công, dù là trong lĩnh vực bảo vệ Tổ Quốc hay
xây dựng kinh tế, kiến thiết đất nước. Trong lịch sử, các chủ doanh nghiệp tư nhân của Hải
Phịng đều là những người có lịng u nước, tự hào dân tộc, gắn bó chặt chẽ với cộng
đồng, hịa đồng lợi ích với dân tộc và sự phát triển của đất nước, sẵn lịng đóng góp hợp lý
vào các hoạt động xã hội và sự tiến bộ của dân tộc, đất nước.
- Biết phát huy truyền thống trung dũng, kiên cường trong kháng chiến, thành phố
hoa phượng đỏ đi đầu trong đổi mới, phải nắm bắt được nhu cầu mới, khả năng tiềm lực



470

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

mới để phát triển mạnh mẽ, phát huy thế mạnh của mình là kinh tế biển, dịch vụ biển,
logistics, cơng nghiệp, nơng nghiệp cơng nghệ cao, văn hóa, khoa học giáo dục, đặc biệt
chú trọng quốc phòng an ninh.
- Có thiên thời địa lợi nhân hịa, là trung tâm, đầu mối giao thông ở khu vực kinh tế
trọng điểm phía Bắc cả về đường bộ, đường biển, đường hàng không... lại được sự quan
tâm của Trung ương và cả nước.
Đó là những căn cứ, những điều kiện để kinh tế tư nhân Hải Phòng tiếp tục “cất
cánh” trong tương lai.
4. KẾT LUẬN
Sự phân tích ở trên cho thấy, về lý luận và thực tiễn kinh tế tư nhân đã và đang đóng
vai trị động lực quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta, thể hiện trước hết
là ở tỷ lệ đóng góp ngày càng cao vào GDP và nguồn thu ngân sách, cũng như thể hiện ở
hiệu quả sản xuất kinh doanh và ở nhiều phương diện khác. Tuy nhiên, hiện nay kinh tế tư
nhân vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Vì vậy để kinh tế tư nhân tiếp
tục góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thì cần có sự đổi mới hơn nữa
về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chính quyền các
cấp cũng như sự nỗ lực vươn lên của các chủ thể. Đặc biệt đối với thành phố Hải Phòng –
một trong những trung tâm kinh tế lớn của cả nước, thì việc chú trọng đổi mới tư duy phát
triển kinh tế tư nhân, đổi mới nhận thức về kinh tế tư nhân để Hải Phịng thực sự có những
đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển đất nước là điều vô cùng quan trọng.
Cần phải thấy rằng, chủ trương căn bản của NQ10 đề ra là “Phát triển kinh tế tư nhân
trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Nghĩa là dù phát triển theo cách nào, kinh tế tư nhân cũng cần phải định hướng
XHCN, nâng cao trách nhiệm đóng góp cho sự nghiệp chung của đất nước.
Vì vậy, việc phát triển hoạt động của các tổ chức chính trị trong doanh nghiệp không

chỉ khơi thông cơ chế dân chủ, đảm bảo quyền và các lợi ích chính đáng cho doanh nghiệp
và người lao động, mà còn khẳng định vai trò định hướng chính trị của Đảng và Nhà nước.
Chúng ta hy vọng rằng, kinh tế tư nhân Hải Phòng sẽ đóng góp nhiều hơn nữa cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHÂO
1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (Khóa XII) về phát triển kinh tế tư nhân
2. Trần Thị Bình (2014), “Phát huy vai trò và động lực của kinh tế tư nhân ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4.
3. Vũ Hùng Cường (2011), Kinh tế tư nhân và vai trò động lực tăng trưởng, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
5. C. Mac và Ăngghen (1995), Tồn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.



×