Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân tại thành phố Hải Phòng năm 2018 - Một số thành tựu, hạn chế và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.91 KB, 12 trang )

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

479

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TÄI THÀNH PHỐ HÂI PHÒNG
NĂM 2018 - MỘT SỐ THÀNH TỰU, HÄN CHẾ VÀ GIÂI PHÁP
TS. Lương Thị Huyền Trang
Khoa Lý luận Chính trị,
Trường Đại học Hải Phịng

Tóm tắt: Kinh tế tư nhân được thành phố Hải Phòng xác định là một động lực quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài viết nêu lên cách hiểu về kinh
tế tư nhân. Khái quát một số cột mốc quan trọng trong quá trình nhận thức và hoàn thiện
cơ sở pháp lý của phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam. Trong năm 2018, năm đầu tiên
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
(tháng 6-2017) về phát triển kinh tế tư nhân, Hải Phòng đã đạt được một số thành tựu
đáng ghi nhận, những cũng vẫn tồn tại những hạn chế cần khắc phục. Trên cơ sở phân
tích đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển tốt hơn kinh tế tư nhân tại Hải
Phịng trong thời gian tới.
Từ khóa: kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân, Hải Phòng, phát triển…
PRIVATE ECONOMIC DEVELOPMENT IN HAI PHONG CITY IN 2018 SOME ACHIEVEMENTS, RESTRICTIONS AND SOLUTIONS
Abstract: The private economy has been identified by Hai Phong as an important
driver of a socialist-oriented market economy. The article describes how to understand
the private economy. Overview of some important milestones in the process of
awareness and completion of the legal basis of private economic development in
Vietnam. In 2018, the first year of Resolution of the 5th Conference of the 12th Central
Committee of the Party Central Committee (June 2017), Hai Phong has achi eved some
remarkable achievements, but there are still limitations that need to be overcome.
Based on that analysis, the author offers some solutions to better develop the private
economy in Hai Phong in the future.
Key words: private economy, private enterprise, Hai Phong, development ...


1. MỞ ĐỈU

Trong chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ 10 về phát
triển kinh tế tư nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hải Phòng đã đặt ra mục tiêu tiếp tục
phát triển kinh tế tư nhân tại thành phố theo hướng lành mạnh, hiệu quả, bền vững. Kinh tế
tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, góp phần đưa kinh tế - xã hội thành phố phát triển nhanh, bền vững, tạo sự
phát triển đột phá, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công


480

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần xây dựng Hải Phịng trở thành thành
phố Cảng xanh, văn minh, hiện đại. Đồng thời, nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh
trong khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng doanh nghiệp thành phố Hải Phòng có năng lực
cạnh tranh, phát triển bền vững, xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân có tiềm
lực mạnh, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; nhiều doanh nhiệp
tham gia mạng sản xuất chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Có thể nói, trong năm 2018, năm
đầu tiên thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII (tháng 6-2017), kinh tế tư nhân đã góp phần mang lại những khởi sắc đáng ghi nhận
trong sự phát triển của kinh tế thành phố Hải Phịng. Tuy nhiên, cần nhìn nhận và đánh giá
một cách khách quan, bên cạnh những thành tựu sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
cũng còn tồn tại những hạn chế cần được khắc phục. Việc nghiên cứu sự phát triển kinh tế tư
nhân tại thành phố Hải Phòng năm 2018 – một số thành tựu, hạn chế và giải pháp trong
khn khổ một bài viết có thể góp thêm một cách nhìn mới về kinh tế tư nhân tại Hải Phòng.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bài viết sử dụng phương pháp lịch sử - logic, phân tích, tổng hợp, phương pháp so

sánh, phương pháp khái quát hóa, tiếp cận hệ thống, phương pháp tiếp cận tổng hợp và liên
ngành. Tác giả dựa trên cơ sở thống kê và xử lý các số liệu, cả về định tính và định lượng
trong việc phân tích thực trạng phát triển kinh tế tư nhân tại Hải Phòng trong năm 2018,
khái quát bức tranh chung về phát triển kinh tế tư nhân tại Hải Phịng năm 2018, từ đó đề
ra các giải pháp nhằm phát triển tốt hơn kinh tế tư nhân tại Hải Phòng.
3. NỘI DUNG
3.1. Kinh tế tư nhân

Kinh tế tư nhân, hiểu cách khái quát chung, là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh
(ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp trong và ngồi nước, trong
đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Kinh tế tư nhân là tất cả các cơ sở sản xuất kinh
doanh không dựa trên sở hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản xuất. Hiểu ở cấp độ
hẹp, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân, bao gồm kinh
tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Kinh tế tư nhân tồn tại dưới các hình thức như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được vị trí, vai trị
của kinh tế tư nhân trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Nhờ
vậy, kinh tế tư nhân không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong những nhân tố chính
tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Trải qua hơn 30 năm đổi mới, kinh tế tư nhân
đã không chỉ dần được phục hồi mà cịn có những bước phát triển cả về số lượng và
chất lượng. Đặc biệt là sau Đại hội X (năm 2006), khi kinh tế tư nhân được xác định
chính thức là thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, không hạn chế về quy
mô. Kinh tế tư nhân đã có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội
của thành phố Hải Phòng.


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

481


3.2. Một số cột mốc quan trọng trong quá trình phát triển nhận thức về kinh tế tư nhân
Năm 2017, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII (tháng 6-2017) đã được ban hành, khẳng định tầm quan trọng của việc thúc đẩy
phát triển khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng trong kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nghị quyết xác định phát triển kinh tế tư nhân
nhanh, bền vững với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng
trong tổng sản phẩm nội địa (GDP). Đây là một điểm mốc quan trọng do trong quá trình
phát triển doanh nghiệp tư nhân đã từng trải qua những thăng trầm nhiều sóng gió: trong
thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung kinh tế tư nhân không được thừa nhận, tuy nhiên
không thể phủ nhận kinh tế tư nhân vẫn tồn tại và thể hiện được vai trị, vị trí của mình
trong sự phát triển kinh tế nói chung. Năm 1986, chính sách đổi mới đã được ban hành tại
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI. Trong đó, Đảng thừa nhận khu vực kinh tế tư nhân là
một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và của nền
kinh tế nhiều thành phần. Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty được ban hành vào
năm 1990, Luật Doanh nghiệp được ban hành vào năm 1999 đã tạo ra một sự phát triển
mạnh mẽ, bùng phát của các doanh nghiệp tư nhân. Quyền tự do kinh doanh của người dân
chính thức được thừa nhận, các doanh nghiệp tư nhân cũng như quyền sở hữu tư nhân của
các doanh nghiệp được bảo vệ. Từ đó đến nay, mơi trường chính sách và pháp lý để phát
triển khu vực kinh tế tư nhân liên tục được cải thiện. Năm 2004, Luật doanh nghiệp và
Luật Đầu tư chung đã tạo một khuôn khổ pháp lý chung cho doanh nghiệp khu vực tư
nhân, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2007, Việt
Nam gia nhập WTO đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn. Năm
2014, Luật doanh nghiệp được sửa đổi với một số cải cách mới được đưa ra. Năm 2017,
Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII được ban hành xác định kinh tế tư nhân là một động
lực của nền kinh tế, khuyến khích phát triển và hình thành cơng ty, tập đoạn kinh tế tư
nhân quy mô lớn. Những thay đổi trong chính sách và tư duy của Đảng được thực hiện
thơng qua các chính sách, luật, quy định và biện pháp khác nhau của Chính phủ nhằm phát
triển bền vững khu vực kinh tế tư nhân, tập trung nhấn mạnh chất lượng phát triển và hiệu
quả hoạt động của kinh tế tư nhân.

3.3. Một số thành quả của kinh tế tư nhân tại Hải Phòng
Kinh tế tư nhân tại Hải Phòng phát triển mạnh mẽ về số lượng, thể hiện rất rõ
phong trào và tinh thần khởi nghiệp của người dân Hải Phịng. Hải Phịng hiện có xấp xỉ
20 nghìn doanh nghiệp, trong đó đa phần là các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực tư
nhân. Số lượng doanh nghiệp đăng ký gia tăng mạnh mẽ trên địa bàn thành phố Hải
Phịng. Tính chung năm 2018, tồn thành phố có 3.155 doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới với tổng vốn đăng ký là 21,05 nghìn tỷ đồng, tăng 5,27% về số doanh nghiệp và
tăng 17,11% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017; vốn đăng ký bình quân một
doanh nghiệp thành lập mới đạt 6,67 tỷ đồng, tăng 11,25%. Số chi nhánh, văn phòng đại
diện, địa điểm kinh doanh thành lập mới trong năm là 1.559 cơ sở, tăng 2,57% so với
năm trước [14].


482

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

Hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân cao, nhiều sáng kiến, đổi mới và sự
đột phá được xuất phát từ những doanh nghiệp tư nhân. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của
khu vực kinh tế tư nhân cao hơn với mức bình quân của nền kinh tế và khu vực nhà nước.
Vai trò của kinh tế tư nhân càng trở nên quan trọng hơn khi mà khoa học và công nghệ đã
và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Thương hiệu của khu vực tư nhân đã không
chỉ được ghi nhận ở thị trường trong nước mà cả ở thị trường khu vực và quốc tế. Đã xuất
hiện những tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mơ lớn cả về vốn và công nghệ cao.
Khu vực kinh tế tư nhân là nhân tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của
thành phố Hải Phòng. Năm 2018, thu nội địa của thành phố đạt gần 22.000 tỷ đồng, trong
đó cộng đồng các doanh nghiệp đóng góp gần 16.000 tỷ đồng, chiếm gần 73% [14]. Hải
Phòng coi thúc đẩy khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, coi phát triển doanh nghiệp là then
chốt trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Đến nay, thực hiện công cuộc Đổi mới
do Đảng lãnh đạo, Hải Phòng lại là địa phương hăng hái đi đầu trong sự nghiệp phát triển

kinh tế nhiều thành phần và đã thu được những thành tựu to lớn. Tiêu biểu phải kể đến
ngành dịch vụ cảng biển. Hiện nay, thành phố có gần 40 doanh nghiệp cảng, đa phần là tư
nhân, lượng hàng hóa qua cảng tăng trưởng từ 13 đến 15%/năm; riêng năm 2018 đạt 92
triệu tấn… Có thể khẳng định khu vực kinh tế tư nhân đang dần khẳng định vị thế là động
lực chính cho những kết quả tăng trưởng kinh tế đáng khích lệ của Hải Phịng trong thời
gian qua.
Các dự án được triển khai và đẩy nhanh tiến độ, sớm đi vào hoạt động đã đóng góp
vào mức tăng trưởng chung của toàn thành phố, điều này cũng khẳng định các chính sách
cải cách hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh… được
Thành ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố áp dụng trong những năm
gần đây đã dần mang lại hiệu quả nhất định. Bên cạnh đó việc đầu tư vào các dự án sản
xuất công nghệ cao như: các dự án sản xuất thiết bị điện tử của tập đồn LG và tổ hợp nhà
máy sản xuất ơtơ VinFast, nhà máy sản xuất điện thoại VinSmart của tập đoàn Vingroup
cũng mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế thành phố trong năm 2018.
Thành phố đã đề ra những cơ chế mở, thu hút hàng trăm nghìn tỷ đồng của các tập
đoàn kinh tế tư nhân mạnh như VinGroup, SunGroup, Him Lam… đầu tư vào các dự án
lớn. Song song với đó, thành phố đã tổ chức nhiều hội nghị xúc tiến về công nghiệp,
thương mại, dịch vụ, khoa học kỹ thuật, tìm cơ hội kết nối các nguồn lực.
Nói đến phát triển kinh tế tư nhân Hải Phịng trong giai đoạn đổi mới, khơng thể
khơng kể đến cú bứt phá của thu hút đầu tư trong nước mấy năm gần đây. Đó là các
dự án khổng lồ do các tập đoàn kinh tế tư nhân đầu tư, như hàng trăm nghìn tỷ đồng
của VinGroup cho các dự án khu vui chơi giải trí đảo Vũ Yên, khu nông nghiệp kỹ
thuật cao Vineco ở huyện Vĩnh Bảo, khu nhà ở cao cấp ở quận Hồng Bàng, bệnh viện
Vinmec ở quận Lê Chân và tổ hợp sản xuất ô tô Vinfast, sản xuất điện tử Vinsmart ở
huyện Cát Hải; SunGroup với hàng chục nghìn tỷ đồng cho dự án phát triển du lịch
Cát Hải; tập đoàn Mường Thanh với dự án hơn 5 nghìn tỷ đồng phát triển khu du lịch
ở Đồ Sơn…


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


483

Đầu tư nước ngồi đã và đang trở thành một phần quan trọng của khu vực kinh tế tư
nhân ở Hải Phòng. Bên cạnh sự lớn mạnh của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước,
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cũng đang phát triển mạnh mẽ. Khi môi
trường kinh doanh được tạo hành lang pháp lý, Hải Phòng càng trở nên dễ tiếp cận hơn đối
với các khoản đầu tư nước ngoài. Năm 2018, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn là
100.541,3 tỷ đồng, tăng 30,71% so với cùng kỳ. Trong đó: vốn nhà nước trên địa bàn thực
hiện là 14.465,6 tỷ đồng, giảm 5,76% so với cùng kỳ (vốn Trung ương quản lý là 3.716,4
tỷ đồng, giảm 34,5% so với cùng kỳ; vốn địa phương quản lý là 10.749,2 tỷ đồng, tăng
11,1% so với cùng kỳ); Vốn ngoài nhà nước thực hiện là 63.569,5 tỷ đồng, tăng 52,4% so
với cùng kỳ; Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện là 22.506,2 tỷ đồng, tăng 13,3% so
với cùng kỳ [14].
Số liệu trên cho thấy vốn nước ngoài và số vốn đầu tư của doanh nghiệp ngồi nhà
nước có vai trò rất lớn trong sự phát triển kinh tế - chính trị xã hội tại Hải Phịng. Hải Phịng
là một điểm sáng trong thu hút đầu tư của miền Bắc và cả nước, được Trung ương đặc biệt
quan tâm và các nhà đầu tư trong và ngoài nước hướng đến. Nhiều dự án, cơng trình trọng
điểm được khởi cơng với giá trị đầu tư cao, nhiều dự án chuyển tiếp từ các năm trước được
tích cực thực hiện giúp cho giá trị vốn đầu tư trên địa bàn tăng cao nhất trong vịng 15 năm
trở lại đây. Có được kết quả như vậy là sự tập trung đầu tư của cả ba khu vực: khu vực Nhà
nước, khu vực Ngồi nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngồi, trong đó đóng góp
nhiều nhất vẫn là đầu tư của các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Khu vực ngoài nhà nước
chiếm tỷ trọng cao nhất (năm 2018 chiếm 63,2% tổng đầu tư tồn xã hội) và có mức tăng
vượt bậc so với năm 2017; quý IV/2018 tăng 67,93% so với cùng kỳ năm 2017; cả năm
2018 tăng 52,41% so với năm 2017 [13]. Nguồn vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tập
trung vào các dự án lớn của các tập đoàn trong nước như tập đoàn Vingroup, tập đồn
Sungroup, tập đồn Flamingo, cơng ty CP Đầu tư và dịch vụ tài chính Hồng Huy, cơng ty
Nhật Hạ…Tập đoàn Vingroup với tổng vốn đầu tư gần trăm nghìn tỷ đồng vào các dự án:
Khu vui chơi giải trí, nhà ở và cơng viên sinh thái đảo Vũ n; khu đơ thị Vinhomes

Imperia; tịa tháp 45 tầng; bệnh viện quốc tế Vinmec; Khu đô thị cầu Rào 2 và đặc biệt nhất
là Tổ hợp Nhà máy sản xuất ô tô VinFast với tổng vốn đầu tư hơn 3,5 tỷ USD. Ngày
03/11/2018 tại Hải Phòng, VinFast đã tổ chức lễ khánh thành Nhà máy sản xuất xe máy điện
thông minh và cũng trong ngày 3/11 VinFast điều chỉnh tổng vốn đầu tư cho Tổ hợp dự án
sản xuất ô tô, xe máy điện từ 35.000 tỷ đồng lên 70.337 tỷ đồng. Tập đoàn Sungroup tiến độ
chậm hơn, hiện cũng đang khẩn trương đầu tư vào khu vực Cát Hải, Cát Bà với tổng vốn
đầu tư 3 tỷ USD. Một loạt các doanh nghiệp, tập đồn lớn khác cũng khơng ngần ngại rót
hàng nghìn tỷ đồng vốn vào Hải Phịng như Tập đoàn BRG với dự án sân golf và khu biệt
thự Đồ Sơn hơn 2.100 tỷ đồng; khách sạn 5 sao Hilton hơn 1.000 tỷ đồng; công ty Nhật Hạ
với khách sạn 5 sao Pullman 1.600 tỷ đồng…Dự án Hồng Huy Riverside của Tập đồn Tài
chính Hồng Huy hiện tại thực hiện được gần 300 tỷ đồng, dự án với tổng mức đầu tư trên
1.000 tỷ đồng gồm nhà liền kề tối đa 5 tầng, biệt thự tối đa 3 tầng và nhà ở hỗn hợp tối đa 5
tầng với tổng diện tích trên 5,9 ha [13]. Những cơng trình này được đánh giá sẽ làm thay đổi
đáng kể diện mạo đô thị và phát triển kinh tế Hải Phòng.


484

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

Đầu tư nước ngoài đã và đang trở thành một phần rất quan trọng của kinh tế tư nhân
tại Hải Phòng. Sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi ngày càng lớn
mạnh. Nguồn vốn FDI đầu tư vào Hải Phịng cũng khơng ngừng tăng nhanh trong những
năm gần đây (năm 2018 tăng 13,3% so với năm 2017, chiếm 22,3% tổng mức đầu tư tồn
xã hội). Tính riêng 3 dự án của Tập đồn LG có tổng vốn đầu tư lên tới hơn 4 tỷ USD [14].
Cùng với đó là một loạt các nhà đầu tư nước ngồi đã có mặt tại Hải Phịng như Regina
Miracle Internatinonal Việt Nam, Bridgestone, Nippro Pharma, Kyocera, Fuji Xerox,
GE,…Mới đây, Tập đoàn Ren A Port (Bỉ) đã đầu tư thêm hơn 150 triệu USD xây dựng
Khu công nghiệp Deep C3 tại đảo Cát Hải và vừa đưa vào hoạt động Khu công nghiệp
Deep C2 với tổng vốn đầu tư 141 triệu USD… Dự kiến năm nay, Hải Phòng sẽ thu hút

được khoảng hơn 2,5 tỷ USD vốn FDI, gấp hơn 2 lần so với kế hoạch đề ra. Việc các dự
án được xây dựng và đi vào hoạt động tạo việc làm cho khoảng hơn 2.000 lao động, giúp
thành phố có thêm nhiều nguồn thu ngân sách, là điểm đến thuận tiện và hấp dẫn đối với
người dân địa phương và khu vực. Tính đến 15/12/2018 Hải Phịng có 612 dự án cịn hiệu
lực: Tổng vốn đầu tư: 16.891 triệu USD; Vốn điều lệ: 5.833,4 triệu USD; Vốn Việt Nam
góp: 241,4 triệu USD; Nước ngồi góp: 5.592 triệu USD. Từ đầu năm đến 15/12/2018,
tồn thành phố có 104 dự án cấp mới đến từ 12 quốc gia và vùng lãnh thổ với số vốn đầu
tư đạt 644,664 triệu USD, tăng 3 lần so với cùng kỳ năm trước [14].
Kinh tế tư nhân đóng góp chính cho việc nâng cao thu nhập, tạo việc làm, giảm
nghèo, cải thiện điều kiện sống, tăng trưởng bền vững và toàn diện ở thành phố Hải Phòng.
Việc làm do các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tạo ra đã giúp hàng triệu người lao
động dịch chuyển tư các cơng việc có lương thấp hơn trong lĩnh vực nông nghiệp sang làm
ở các ngành có năng suất cao hơn với mức lương cao hơn. Những việc làm được tạo ra
bởi khu vực kinh tế tư nhân đã đóng vai trị rất quan trọng trong việc tiếp nhận người lao
động mới gia nhập vào thị trường lao động mỗi năm. Các doanh nghiệp tư nhân đã vượt
qua khu vực doanh nghiệp nhà nước về việc tạo ra thu nhập cho người lao động và khoảng
cách này ngày càng được mở rộng hơn.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của thành phố Hải Phịng năm 2018 là 1.138,3
nghìn người, tăng 0,28% so với năm 2017, bao gồm: lao động nam 586,1 nghìn người,
tăng 0,52%; lao động nữ 552,2 nghìn người, tăng 0,03%. Xét theo khu vực: lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên thành thị là 486,3 nghìn người, tăng 0,31%; khu vực nơng thơn là
652,0 nghìn người, tăng 0,26%. Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2018 là
1.102,4 nghìn người, tăng 0,65% so với năm 2017, bao gồm 222,5 nghìn người đang làm
việc ở khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 20,2% tổng số; khu vực cơng nghiệp
và xây dựng 418,9 nghìn người, chiếm 38,0%; khu vực dịch vụ 461,0 nghìn người, chiếm
41,8%. Tính theo giá so sánh 2010, năng suất lao động trên địa bàn thành phố năm 2018
đạt 140,3 triệu đồng/lao động tăng 15,52% so với năm 2017. Trong đó: khu vực nơng, lâm
nghiệp, thủy sản có năng suất lao động ước đạt 32,6 triệu đồng/lao động, tăng 3,86%; khu
vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 168,62 triệu đồng/lao động, tăng 23,94%; khu vực
dịch vụ ước đạt 166,65 triệu đồng/lao động, tăng 9,51% so với năm 2017. Tính chung năm

2018, Hải Phịng đã tổ chức được 39 phiên giao dịch việc làm với sự tham gia tuyển dụng


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

485

của 1.387 lượt doanh nghiệp. Có 82.032 lượt người lao động đến sàn, trong đó 26,84% số
người được giới thiệu việc làm, đáp ứng 17,1% nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp.
Giải quyết việc làm 54.500 lượt lao động, đạt kế hoạch năm 2018 và bằng 100,36% so với
cùng kỳ năm 2017, trong đó việc làm trong nước 53.200 lượt lao động, xuất khẩu lao động
1.300 lượt. Tiếp nhận, hướng dẫn xây dựng thỏa ước lao động tập thể cho 281 doanh
nghiệp, bằng 202,20%so với năm 2017. Cấp mới 900 giấy phép lao động, cấp lại 700 giấy
phép lao động cho người lao động làm việc tại thành phố (tăng 3,23% so với năm 2017).
Kết quả khảo sát, điều tra tiền lương bình quân chung ước 6,902 triệu đồng/tháng (bằng
112% so với năm 2017). Hải Phịng đã gặt hái được nhiều thành cơng trong cơng tác xóa
đói giảm nghèo. Điều này một phần có được là nhờ rất nhiều việc làm được tạo ra bởi khu
vực kinh tế tư nhân. Năm 2018 tỷ lệ hộ nghèo ước đạt 1,41%, giảm 0,65% so với năm
2017, đạt 100% kế hoạch thành phố giao năm 2018; so đầu kỳ giai đoạn 2016 - 2020 giảm
2,45% bình quân 0,81%/năm đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ thành phố giao giảm 0,7 1%/năm [14].
3.4. Một số tồn tại trong phát triển kinh tế tư nhân tại Hải Phòng
Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng được vai trò động lực quan trọng của nền kinh tế.
Trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm, cạnh tranh yếu; khả năng liên
kết và tham gia chuỗi giá trị còn nhiều hạn chế; tình trạng gian lận thương mại, cạnh tranh
khơng lành mạnh… vẫn phổ biến. Có thể khái qt một số tồn tại, hạn chế sau:
Môi trường pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân chưa hoàn thiện, nhiều quy định
chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán, phức tạp và chồng chéo. Doanh nghiệp tư nhân
vẫn cịn đang gặp nhiều khó khăn do những hạn chế của môi trường kinh doanh và pháp
lý. Theo điều tra của WB năm 2015, các hạn chế lớn nhất của môi trường kinh doanh liên
quan đến khả năng tiếp cận tài chính, thơng lệ kinh doanh, bất bình đẳng khu vực khơng

chính thức, thiếu nguồn nhân lực có trí thức và trình độ cao, giao thơng và cơ sở hạ tầng,
tiếp cận đất đai, các quy định về hải quan và thương mại. Điều kiện thủ tục hành chính, thủ
tục tiếp cận đất đai, thị trường tin dụng, cơ hội đầu tư rườm rà, cản trở khu vực kinh tế tư
nhân phát triển. Chi phí kinh doanh, chi phí vận tải (logistics, tiền lương, bảo hiểm…) cao.
Lãi suất vay cao khoảng 7-9% trong khi Trung Quốc là 4,3%, Malaysia 4,6%, Hàn Quốc
2-3% [11, tr.130]. Với hơn 4.000 các điều kiện kinh doanh (trong đó nhiều quy định khơng
theo thơng lệ quốc tế) đặt ra các rào cản không phù hợp đối với sự phát triển của kinh tế tư
nhân. Trong khi có thể cắt giảm càng sớm càng tốt đến hơn 50% các điều kiện không hợp
lý này. Điều mà các doanh nghiệp tư nhân cần không phải là sự hỗ trợ, ưu đãi ưu tiên đặc
biệt mà là hệ thống pháp luật về kinh doanh minh bạch, công bằng và lành mạnh, hệ thống
thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện và sớm đi vào thực tiễn. Vẫn còn tồn tại sự phân
biệt đối xử giữa các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Các chiến lược của
chính phủ nhằm giao vai trị chủ đạo cho các doanh nghiệp nhà nước đã ảnh hưởng tới khả
năng của các doanh nghiệp tư nhân trong việc phát triển và khai thác các cơ hội khi hội
nhập kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp nhà nước được che chở và không bị buộc đối diện
với sự cạnh tranh gay gắt nhờ khả năng tiếp cận thuận lợi hơn tới các nguồn lực cho phát


486

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

triển. Các doanh nghiệp nhà nước được ưu tiên hơn khi tiếp cận các nguồn lực về đất đai,
tín dụng, xuất khẩu, cơ hội hợp đồng với mức thuế được ưu đãi hơn…Các thủ tục hành
chính rườm rà, mất rất nhiều thời gian và chi phí, đặc biệt là các thủ tục liên quan đến điều
kiện kinh doanh, giấy phép và thương mại.
Chính sách thuế quá nhiều bất cập và có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân cịn bị đối xử thiếu cơng bằng.
Một số chính sách quy định chỉ đề cập đến doanh nghiệp nhà nước mà chưa đề cập đến
doanh nghiệp tư nhân. Lợi được hưởng từ những chính sách thường ưu tiên cho các doanh

nghiệp nhà nước. Những quan điểm đánh giá về doanh nghiệp tư nhân chưa khách quan,
gây khó khăn, cản trở hoạt động kinh doanh của khu vực tư nhân. Ngồi những khó khăn
về thể chế kinh tế, bộ máy hành chính chưa hiệu quả, thủ tục hành chính thiếu minh bạch
và cơ chế trách nhiệm giải trình. Nhiều doanh nghiệp phải trả các chi phí “khơng chính
thức” để giải quyết công việc… Những bất cập này càng khiến cho khu vực kinh tế tư
nhân đã nhỏ lại kém phát triển. Vì vậy, để kinh tế tư nhân có điều kiện phát triển mạnh mẽ,
cần tập trung giải quyết vấn đề bình đẳng thật sự giữa các chủ thể kinh doanh, giữa kinh tế
tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Thiết lập chế độ ưu đãi thuế cho đối tượng là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các chính sách và chương trình phát triển khu vực tư nhân thiếu tính đồng bộ và
liên kết. Phát triển kinh tế tư nhân liên quan đến nhiều ngành, nhiều nội dung và các
chương trình hỗ trợ do đó được thực hiện bởi nhiều cơ quan chức năng khác nhau.
Những hạn chế về hiểu biết các nhu cầu của doanh nghiệp dẫn tới tình trạng các sáng
kiến và chương trình hỗ trợ kinh doanh chưa thực sự hợp lý, ảnh hưởng tới chất lượng và
hiệu quả của quá trình áp dụng và triển khai, tính liên kết, bổ trợ giữa các chương trình
cịn hạn chế và kém hiệu quả.
Phát triển kinh tế tư nhân thiếu thị trường, thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh là trở
ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp. Việc giải quyết những rào cản về thủ tục hành
chính là bắt buộc, nhưng để doanh nghiệp có thể phát triển thì vấn đề “thị trường”, vấn đề
đầu ra, vấn đề hình thành nơi trao đổi bn bán, hình thành trục liên kết,... sẽ giúp các
doanh nghiệp phát triển đột phá. Để doanh nghiệp tư nhân là động lực phát triển kinh tế
cần thúc đẩy hoàn thiện thể chế thị trường đầy đủ. Bởi thị trường là cơ hội tiếp cận kinh
doanh, cơ hội tiếp cận đất đai, tiếp cận thông tin, chính sách, quy hoạch,...; là sự liên kết
giữa các doanh nghiệp nhỏ với các tập đoàn lớn để tiêu thụ sản phẩm, tạo ra chuỗi giá
trị,... Có như vậy, kinh tế tư nhân mới có thể có điều kiện để phát triển thuận lợi.
Vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân
còn nhiều hạn chế. Hiệu quả thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước để phát triển kinh tế tư nhân chưa cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là hạ tầng giao thông và nguồn nhân lực.
Thiếu vốn luôn là vấn đề thách thức lớn đối với các doanh nghiệp tư nhân khi khơng có tài

sản thế chấp để vay vốn hoặc tài sản thế chấp không minh bạch, đang tranh chấp; thiếu dự
án khả thi. Bởi vậy, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận vay


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

487

vốn ngân hàng, huy động vốn trên thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh
nghiệp và sử dụng các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý.
Kinh tế tư nhân với các hộ kinh doanh hết sức đa dạng và không đồng nhất về đặc
điểm nhưng lại phải tuân thủ cùng một quy định pháp luật. Cách tiếp cận quy định pháp
luật theo hướng chung chung như trên không phù hợp và không hiệu quả, không thể tạo ra
một cơ sở dữ liệu đầy đủ, tồn diện phục vụ mục đích phân loại các hộ kinh doanh thành
các nhóm theo ngành, theo vị trí địa lý, theo đặc điểm kinh doanh… khác nhau đề quản lý
và hoạch định chính sách phát triển.
Các hiệp hội doanh nghiệp còn hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Các hiệp hội doanh
nghiệp hoạt động trong các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế đóng vai trị quan trọng trong việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển kinh
tế năng động và bền vững. Các hiệp hội doanh nghiệp trên hoạt động thực tế còn thiếu
năng lực, kỹ năng cần thiết để thu hút sự tham gia của các thành viên, đặc biệt trong công
tác vận động và tư vấn chính sách. Chính vì vậy đơi khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường bị chi phối bởi các doanh nghiệp lớn.
Có một sự chênh lệch ngày càng lớn giữa số lượng doanh nghiệp đã đăng ký kinh
doanh và số lượng doanh nghiệp đang thực sự hoạt động. Điều này góp phần khẳng
định mơi trường kinh doanh với các doanh nghiệp tư nhân trên thành phố còn chứa
đựng nhiều khó khăn và thách thức. Về thực hiện thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp: bộ phận Đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố trong
tháng 12 năm 2018 đã thực hiện 20 lượt yêu cầu giải trình tình hình hoạt động đối với
các doanh nghiệp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của 38 doanh

nghiệp. Cộng dồn từ đầu năm 2018, có 623 doanh nghiệp được yêu cầu giải trình tình
hình hoạt động, 117 doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Điều này cho thấy có sự chênh lệch giữa số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số
doanh nghiệp thực sự hoạt động có hiệu quả. Từ đó có căn cứ để cho thấy mơi trường
kinh doanh đối với các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố chứa đựng nhiều khó khăn
và thách thức.
3.5. Một số giải pháp đối với phát triển kinh tế tư nhân tại Hải Phòng
Hải Phòng chú trọng phát triển kinh tế tư nhân. Về kế hoạch của thành phố: số lượng
doanh nghiệp, phấn đấu đến năm 2020, tồn thành phố có trên 33.000 doanh nghiệp hoạt
động; đến năm 2025 có trên 42.000 doanh nghiệp hoạt động và đến năm 2030 có trên
53.000 doanh nghiệp hoạt động. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tư nhân phấn đấu đạt cao hơn
tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực
kinh tế tư nhân vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đến năm 2020 đạt khoảng 51% 53%, năm 2025 đạt khoảng 55% - 56%, đến năm 2030 đạt khoảng 60% - 65% [12].
UBND thành phố chỉ đạo các Sở, ngành, địa phương, đơn vị thực hiện một số nhiệm
vụ: tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị của kinh tế tư nhân, tạo sự
thống nhất cao trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đối với các chủ trương,
giải pháp, chính sách phát triển kinh tế tư nhân; tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh


488

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại
hóa cơng nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động; tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo, kiểm tra phối hợp của cấp ủy đảng, nâng cao vai trò của tổ chức cơ sở đảng
trong các doanh nghiệp.
Để đạt được mục tiêu đặt ra cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư
nhân trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế, cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục thay đổi nhận thức về kinh tế tư nhân. Cần có sự thống nhất nhận
thức trong xã hội về khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân.
Cần một sự khẳng định rõ ràng, kinh tế tư nhân sẽ là một trụ cột của kinh tế nước nhà và
góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Xây dựng cơ chế, chính sách định
hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân; hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về kinh
tế tư nhân. Sửa đổi một số cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân như chính sách
đầu tư, tín dụng, chính sách về mặt bằng sản xuất, chính sách thuế, chính sách đào tạo, tiền
lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội... Phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn của kinh tế tư
nhân trong phát triển kinh tế - xã hội phải đi đơi với khắc phục có hiệu quả những mặt trái,
những tiêu cực phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân.
Thứ hai, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư
nhân. Điều này sẽ đảm bảo duy trì được lòng tin và tăng cường đầu tư của khu vực kinh tế
tư nhân. Môi trường kinh doanh được cải thiện sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi
nhuận của các doanh nghiệp tư nhân. Từ đó đẩy mạnh hơn sự tăng trưởng về quy mô và
chất lượng hoạt động, hiệu quả của các doanh nghiệp tư nhân. Nhà nước cần đảm bảo ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm sốt lạm phát, đẩy nhanh q trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với
đổi mới mơ hình tăng trưởng. Tiếp tục hồn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân
vào hoạt động kinh tế tư nhân theo cơ chế thị trường. Khơng biến các chính sách hỗ trợ
phát triển kinh tế tư nhân thành chính sách bao cấp, phục vụ "lợi ích nhóm" dưới mọi hình
thức. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những
ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia. Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia cung cấp dịch
vụ công, tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hỗ trợ kinh tế tư nhân tiếp cận,
khai thác các cơ hội trong hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường, đẩy mạnh đầu tư và
thương mại quốc tế. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, nâng cao năng lực từng
bước tham gia sâu, vững chắc vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Để đạt được năng suất
cao hơn, khu vực kinh tế tư nhân cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động. Cải thiện hiệu quả
của khu vực kinh tế tư nhân cùng với quá trình chuyển đổi cơ cấu thơng qua dịch chuyển
nguồn lực và lao động từ các ngành kém hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực sang các
ngành khác ưu thế và phát triển là một trong những bước đi cần được triển khai áp dụng tại

Hải Phòng.
Thứ ba, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa cơng nghệ và phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

489

đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Chuyển giao công nghệ tiên tiến. Bảo
đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng
tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn
vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa cơng nghệ. Đẩy mạnh
thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng đủ
nhu cầu số lượng và chất lượng nhân lực cho phát triển kinh tế tư nhân. Tăng cường hợp
tác, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo. Phát triển đào tạo theo nhu cầu
sử dụng của doanh nghiệp và thị trường. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội
ngũ doanh nhân có trình độ chun mơn cao, kỹ năng quản lý hiện đại, đạo đức kinh
doanh và tinh thần trách nhiệm cao.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Cần xây dựng khung pháp lý tạo điều
kiện thuận lợi hơn, bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Nâng cao năng
lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, chính sách, tạo môi trường đầu tư
kinh doanh thuận lợi, an toàn cho kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh, đúng định hướng.
Tăng cường hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của chính quyền
địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về phát triển kinh tế tư nhân. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, không
làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đơn giản hóa, rút
ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh,
cấp phép, thuế, giải quyết tranh chấp,… Tăng cường cơ chế đối thoại có hiệu quả giữa cơ

quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp nhằm nắm bắt và xử lý kịp thời các vướng mắc
liên quan đến phát triển kinh tế tư nhân.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nâng cao vai trị của các tổ
chức chính trị - xã hội. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách đối với doanh
nghiệp tư nhân, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân phát
triển. Mạnh dạn giao cho các doanh nghiệp tư nhân có đầy đủ điều kiện đảm nhiệm các
lĩnh vực quan trọng của Nhà nước. Chỉ nên giữ lại các doanh nghiệp nhà nước mang tính
chủ đạo. Kinh tế tư nhân không chỉ là quan trọng mà là đầu kéo quan trọng để phát triển
kinh tế. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong phát triển kinh tế tư nhân.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tích cực phối hợp với
các cơ quan quản lý nhà nước để cung cấp thông tin, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh doanh,
đào tạo kỹ thuật và tư vấn cho doanh nghiệp tư nhân.
4. KẾT LUẬN

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát triển kinh tế tư
nhân là một nhân tố không chỉ bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao, tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn tham gia vào giải quyết hàng loạt những vấn đề
xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực,… Trong bối
cảnh ngân sách thành phố gặp khó khăn, cùng với đó là xu hướng suy giảm của dịng vốn
ngoại... thì những chính sách khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư là rất cần


490

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

thiết. Nền kinh tế Hải Phịng hiện có nhiều trụ cột trong các ngành không phải là doanh
nghiệp nhà nước mà do doanh nghiệp tư nhân chi phối và đa phần làm ăn hiệu quả. Một
nền kinh tế muốn chuyển sang sáng tạo thì buộc phải đạt hiệu quả cao với nhiều giá trị gia
tăng, trong đó vai trị của kinh tế tư nhân thậm chí cịn mang tính quyết định. Hải Phịng

nằm trong khu vực kinh tế năng động tại Việt Nam. Nếu biết phát huy đầy đủ sức mạnh và
khả năng sáng tạo của khu vực tư nhân, thì kinh tế thành phố Hải Phịng sẽ có nhiều cơ hội
phát triển với những thành tựu đáng ghi nhận hơn nữa. Do đó, việc tạo điều kiện với các
giải pháp đồng bộ nhằm phát triển kinh tế tư nhân cần được nghiên cứu và thực hiện sớm
để Hải Phịng có thể vươn mình phát huy tất cả các thế mạnh của một thành phố Cảng
trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHÂO
1. Lê Duy Bình (2017), Các yếu tố ảnh hưởng tới tích tụ vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, Viện kinh tế Việt
Nam, Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam, số 2 tháng giêng, năm 2017 (465), tr63-71.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
khoá IX, Nxb. CTQG, Hà Nội
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG,
Hà Nội
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
CTQG-ST, Hà Nội
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.
CTQG-ST, Hà Nội
6. Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 03/6/2017
( />7. Hội thảo “Khát vọng Việt Nam 2035: Phát triển khu vực kinh tế tư nhân năng động và yêu cầu
hiện đại hóa thể chế" tổ chức ngày 15-6-2017, tại thành phố Đà Nẵng.
8. MPI/GSO (2015-2016), Báo cáo khảo sát lực lượng lao động, Tổng cục thống kê, Bộ KHĐT,
Hà Nội, Việt Nam.
9. MPI/World Bank (2015), Việt Nam 2035: hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân
chủ, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
10. World Bank (2016), Báo cáo mơi trường kinh doanh 2017: cơ hội bình đẳng cho mọi người,
Washington, DC: World Bank
11. VNPI (2016), Báo cáo năng suất Việt Nam, Viện Năng suất Việt Nam, Hà Nội.
12. />13. />14. />



×