Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT NGHĨA vụ bộ môn hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.43 KB, 27 trang )

Khoa Luật Quốc tế
Lớp Luật Thương mại Quốc tế 43.1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT

NGHĨA VỤ
Bộ môn: Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hồng Hải

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 08 năm 2019

download by :


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 01.......................................................................................................................................... 1
1.1. Thế nào là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền?..................................................... 1
1.2. Vì sao thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?......1
1.3. Cho biết điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm
2005 về chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền................................................ 2
1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền”
theo Bộ luật Dân sự năm 2015? Phân tích từng điều kiện................................................... 3
1.4.1. Đối với người thực hiện công việc............................................................................. 3
1.4.2. Đối với người có cơng việc được thực hiện............................................................. 5
1.4.3. Đối với cơng việc: “vì lợi ích của người có cơng việc”........................................ 6
1.5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà thầu C có thể u
cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định
“thực hiện công việc khơng có ủy quyền” trong Bộ luật Dân sự năm 2015 khơng? Vì
sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.............................................................................................. 7
VẤN ĐỀ 02........................................................................................................................................ 10
2.1. Thông tư trên [Thông tư liên tịch 01/TTLT của Tòa án nhân dân tối cao - Viện


kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính Hướng dẫn việc xét xử và thi
hành án về tài sản] cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào?
Qua trung gian là tài sản gì?...................................................................................................... 10
2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ơng Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền
cụ thể là bao nhiêu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời............................................................... 10
2.3. Thông tư trên có điều chỉnh trong việc thanh tốn tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT khơng? Vì sao?....11

download by :


2.4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000đ như Tịa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tịa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng cụ
thể là bao nhiêu? Vì sao?........................................................................................................... 12
2.5. Hướng như trên tại Tịa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu
một tiền lệ (nếu có)?.................................................................................................................... 12
VẤN ĐỀ 03........................................................................................................................................ 15
3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thoả thuận?................................................................................................. 15
3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh tốn cho bà
Tú?................................................................................................................................................... 16
3.3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển
sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?........................................................................... 16
3.4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tồ án?..................................................... 17
3.5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách nhiệm đối với
người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời............................................................................ 17
3.6. Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn
trách nhiệm đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ khơng thực hiện

nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.........18
3.7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tồ án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền?................................................................. 19
3.8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngồi đối với quan hệ giữa người có nghĩa vụ
ban đầu và người có quyền........................................................................................................ 20
3.8.1. Xét về điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý............................ 20
3.8.2. Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan.......................................... 20
3.9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Toà án....................................... 21

download by :


3.10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh
của người thứ ba thì nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt
khơng? Nêu rõ cơ sở pháp lý..................................................................................................... 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

download by :


1

VẤN ĐỀ 01
THỰC HIỆN CƠNG VIỆC KHƠNG CĨ ỦY QUYỀN
1.1. Thế nào là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền?
Điều 574 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) quy định khái niệm “thực
hiện cơng việc khơng có ủy quyền” như sau:
“Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là việc một người khơng có nghĩa vụ
thực hiện cơng việc nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có
cơng việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”

1.2. Vì sao thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ?
-

Cơ sở pháp lý: Điều 274, khoản 3 Điều 275 BLDS 2015.

-

Giải thích:

Điều 274 BLDS 2015 quy định: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều
chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao
quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc hoặc khơng được thực hiện
cơng việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là
bên có quyền).”
Có thể thấy, bản chất của q trình thực hiện cơng việc có ủy quyền cũng là việc
một bên tự nguyện thực hiện công việc của người khác, vì lợi ích của người đó, ý thức
rằng nếu khơng có ai thực hiện cơng việc này thì người có cơng việc bị thiệt hại một số
lợi ích vật chất nhất định. Mục đích cuối cùng của hành vi này là nhằm mang lại lợi ích
cho người có cơng việc. Như vậy, q trình này đương nhiên là căn cứ để phát sinh
nghĩa vụ cho cả hai bên.
Trong trường hợp này, xuất phát từ yếu tố chủ động và tự nguyện khi thực hiện
công việc, pháp luật khơng buộc người thực hiện tạo ra lợi ích thực tế, nhưng buộc
người có cơng việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền thù lao, thanh tốn các chi phí hợp lý mà

download by :


2


người thực hiện công việc đã bỏ ra, ngay cả khi kết quả cơng việc được thực hiện đó
khơng như ý muốn (theo Điều 576 BLDS 2015).
Bên cạnh đó, thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền cịn làm phát sinh nghĩa vụ
thực hiện và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho chính người thực hiện cơng việc. Bằng
việc tự ý, tự nguyện thực hiện phần việc của người khác, người thực hiện cơng việc sẽ
có những nghĩa vụ nhất định đối với chính cơng việc mình thực hiện, cũng như với
người có cơng việc được thực hiện (theo Điều 575, 577 BLDS 2015). Tuy không bắt
buộc phải tạo ra kết quả mà đối phương mong muốn đạt được, bản thân người thực hiện
công việc phải cố gắng thực hiện tốt nhất có thể, cũng như chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, v.v. để tránh trường hợp những quy định này bị lợi dụng nhằm mục đích tiêu
cực riêng.
1.3. Cho biết điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự
năm 2005 về chế định “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền.
Nhìn chung, chế định “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền” ở BLDS 2015
so với Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) có hai điểm mới nổi bật như sau:
Thứ nhất, BLDS 2015 đã bỏ đi từ “hoàn toàn” khi quy định về khái niệm “thực
hiện cơng việc khơng có ủy quyền”. BLDS 2005 yêu cầu công việc được thực hiện
phải “hồn tồn vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện” (Điều 594 BLDS
2005). Cách quy định này có thể được hiểu theo hai nghĩa: “Nghĩa thứ nhất là người
thực hiện cơng việc hồn tồn khơng có lợi ích trong công việc mà họ thực hiện và tất
cả phải vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện.”1 hoặc “Nghĩa thứ hai là việc
thực hiện công việc hồn tồn vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện không
ngoại trừ khả năng người tiến hành cơng việc cũng có lợi ích từ việc thực hiện.”2
Trong thực tiễn xét xử, đã có nhiều trường hợp người có cơng việc được thực
hiện dựa vào hai chữ “hoàn toàn” này để lý giải theo nghĩa thứ nhất, đưa ra cơ sở rằng
việc thực hiện khơng có ủy quyền đó vẫn có yếu tố vì lợi ích của người thực hiện công
1 Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án
(Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba) (Tập 1), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí
Minh, tr.73-74.


2 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.74.

download by :


3

việc. Đây là cách giúp người có cơng việc chối bỏ nghĩa vụ thanh tốn của mình, tạo
nên bất cập lẫn thiệt thịi cho người thực hiện cơng việc trong q trình xét xử.
Chính vì vậy, việc BLDS 2015 bỏ đi hai chữ “hoàn toàn” là để củng cố cho cách
hiểu thứ hai, nhằm tăng cường bảo đảm quyền lợi cho người thực hiện công việc. Đồng
thời, đây cũng là cơ sở để Tòa án linh hoạt hơn trong việc xét xử các vụ việc liên quan
đến “thực hiện công việc khơng có ủy quyền”, hạn chế tranh cãi, nhập nhằng trong quá
trình xét xử.
Thứ hai, BLDS 2015 đã phân định rõ đối tượng thực hiện cơng việc có ủy quyền
có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Tại khoản 4 Điều 575 quy định về “nghĩa vụ thực hiện
công việc” (Điều 595 BLDS 2005) và khoản 4 Điều 578 về “chấm dứt thực hiện nghĩa
vụ” (Điều 598 BLDS 2005), với sự xuất hiện của “cá nhân” và “pháp nhân” (làm rõ các
đối tượng “người thực hiện nghĩa vụ”). Việc bổ sung này góp phần tăng thêm tính cụ
thể, chi tiết của Bộ luật Dân sự, giúp cho quá trình xét xử được diễn ra thuận lợi, chính
xác và nhanh chóng hơn.
Như vậy, tuy khơng có nhiều điểm mới so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã thành
công khắc phục điểm hạn chế (lỗ hổng) khi quy định về chế định “thực hiện nghĩa vụ
khơng có ủy quyền”. Từ đó, BLDS 2015 đã củng cố bảo vệ quyền lợi cho người thực
hiện cơng việc, giúp Tịa án có cơ sở giải quyết tranh chấp một cách hợp lý, đưa pháp
luật dân sự Việt Nam phát triển bắt kịp xu hướng với luật pháp các nước tiến bộ trên thế
giới.
1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc khơng có ủy
quyền” theo Bộ luật Dân sự năm 2015? Phân tích từng điều kiện.
BLDS 2015 khơng có điều khoản riêng để quy định về điều kiện áp dụng chế

định “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền”. Tuy nhiên, từ khái niệm được nêu ra ở
Điều 574 BLDS 2015, chúng ta có thể suy ra những điều kiện cơ bản sau đây:
1.4.1. Đối với người thực hiện công việc.
- Người thực hiện cơng việc khơng có nghĩa vụ:
Khi quy định người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là “người khơng có
nghĩa vụ thực hiện cơng việc”, BLDS 2015 đã tạo ra hai hướng giải thích khác nhau.

download by :


4

Có quan điểm cho rằng, quy định này nói đến “người hồn tồn khơng có nghĩa vụ
phải thực hiện cơng việc đó những đã thực hiện cơng việc đó. Nghĩa vụ ở đây là nghĩa
vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ do các bên thỏa thuận”3.
Song, cách hiểu này lại dẫn đến những bất cập nhất định trong thực tiễn xét xử.
Đơn cử như trường hợp “công việc được thực hiện theo yêu cầu của người thứ ba hay
theo thỏa thuận của người thứ ba, hay theo luật định”, thì chúng ta có được áp dụng chế
định này hay khơng?4 Trong nhiều vụ việc xảy ra trong thực tế, khi xảy ra trường hợp
như trên, Tòa án vẫn áp dụng chế định này để tiến hành xét xử. Như vậy, cách hiểu phù
hợp nhất cho điều kiện này phải là không có nghĩa vụ thực hiện “giữa người thực hiện
cơng việc và người có cơng việc được thực hiện”5, mà khơng xét đến sự tồn tại nghĩa vụ
giữa người thực hiện với bên thứ ba hay theo luật định (nếu có).
Mặt khác, chúng ta cũng cần làm rõ rằng, nếu trong một số trường hợp người
thực hiện nghĩa vụ có căn cứ pháp luật, nhưng không biết về quy định pháp luật tương
ứng mà làm vì sự tự nguyện, lịng nhân ái, thì điều kiện “khơng có nghĩa vụ” này cịn
được đảm bảo hay khơng? Có ý kiến cho rằng, BLDS 2015 đã có quy định về bồi
thường thiệt hại do tình thế cấp thiết để “tạo cơ chế ràng buộc người gây ra thiệt hại
phải bồi thường cho thiệt hại mà họ gây ra.”6 (ở đây là người có cơng việc được thực
hiện với người thực hiện công việc). Song, giả sử như khơng thể chứng minh được yếu

tố “tình huống cấp thiết”, và thực hiện cơng việc đó vẫn được xem là nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật, thì trong khi tổ chức, thực hiện cơng việc nếu có tốn kém chi phí,
việc đơn phương tạm ứng tiền riêng của mình để trả chi phí cũng có thể coi được là thực
hiện cơng việc khơng có ủy quyền7.
- Thực hiện cơng việc một cách tự nguyện:
3 Hồng Thế Liên (Chủ biên) (2008), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005 (Tập 2), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr.699.
Trích từ: Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.72.

4 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.73.
5 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.73.
6 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng (Bình luận án), Lê Minh Hùng, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí
Minh, tr.34-35.

7 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (6), tr.35.

download by :


5

Một trong những điều kiện chủ chốt để xác định có nghĩa vụ phát sinh từ thực
hiện cơng việc khơng ủy quyền, là khi một chủ thể thực hiện công việc của người khác.
Xét trong tương quan với hành vi pháp lý đơn phương (cùng là hành động xuất phát từ
một phía), BLDS 2015 khơng đặt ra u cầu về năng lực chủ thể cho người thực hiện
công việc không có ủy quyền. Trong khi đó, để hành vi pháp lý đơn phương được pháp
luật cơng nhận, nó phải đảm bảo thỏa điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự
(điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS 2015). Như vậy, “ai cũng có thể là người thực hiện
cơng việc khơng có ủy quyền”8.

Mặt khác, thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền lại địi hỏi về tính “tự
nguyện”, tương tự như quy định tại điểm b khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 về điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự: “chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự
nguyện”. Điểm cần lưu ý ở đây là, nếu người thực hiện công việc một cách “ngẫu
nhiên, khơng có chủ ý, hoặc thiếu tự nguyện (ví dụ do bị ép buộc hay nhầm lẫn)”9, thì
sẽ khơng được xem là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền. Trong trường hợp đó,
nghĩa vụ thanh tốn của người có cơng việc được thực hiện cho người thực hiện cơng
việc chỉ được phát sinh nếu người có cơng việc nhận được lợi ích (trong trường hợp
này được xem là khơng có căn cứ pháp luật). Đây là nghĩa vụ hoàn trả theo khoản 2
Điều 579 BLDS 2015, khác biệt với nghĩa vụ thanh tốn của người có cơng việc được
thực hiện khơng có ủy quyền, được quy định tại Điều 576 Bộ luật này.
1.4.2. Đối với người có cơng việc được thực hiện.
- Không yêu cầu đối phương thực hiện cơng việc:
Điều kiện này có thể hiểu rằng giữa người thực hiện cơng việc và người có cơng
việc được thực hiện “khơng tồn tại một hợp đồng, khơng có ủy quyền”10. Nếu giữa hai
bên đã có sự thỏa thuận trước đó, hoặc có thể hiện sự đồng ý song phương thì “vẫn
được xem như có sự tạo lập hợp đồng”11. Mặt khác, trong trường hợp ban đầu người có
cơng việc không ủy quyền cho bên thứ ba nhân danh họ xác lập giao dịch với người
8 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.72.
9 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (6), tr.36.
10 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.74.
11 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (6), tr.38.

download by :


6

được thực hiện công việc, mà bên thứ ba vẫn xác lập giao dịch, sau đó người có cơng
việc mới biết và đồng ý, thì khơng được xem là “thực hiện cơng việc khơng có ủy

quyền”. Đây là trường hợp “xác lập giao dịch do khơng có quyền đại diện”, làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ với người được đại diện (mà ở đây là người có cơng việc được
thực hiện) theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015.
-

“Không biết hoặc biết mà không phản đối”:

Đây là điều kiện được suy ra từ khái niệm ở Điều 574 BLDS 2015. Điều kiện
này tương ứng với khoản 1 Điều 578 Bộ luật này về Chấm dứt thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền theo u cầu của người có cơng việc được thực hiện. Trong trường
hợp bị phản đối mà vẫn tiếp tục thực hiện thì “khơng thuộc chế độ này”12. Khi đó, việc
cố tình tiếp tục thực hiện có thể bị xem là hành vi “trái pháp luật”, phải bồi thường thiệt
hại dựa trên quy định tại khoản 7 Điều 8 BLDS 2015.
Bên cạnh đó, việc quy định “khơng phản đối” ở đây khơng đồng nghĩa với “đồng
ý”, vì khơng được quy định trong pháp luật dân sự hiện hành. Cần phân biệt rằng, trong
trường hợp xác lập giao dịch do không có quyền đại diện, luật quy định “người được đại
diện biết mà không phản đối trong thời hạn hợp lý” thì vẫn được xem là “đồng ý”, “tức
làm phát sinh hệ quả pháp lý với hành vi đại diện”13. Như vậy, khác với trường hợp
“thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền” (chỉ cần có sự phản đối thì phải chấm dứt thực
hiện); việc phản đối một “giao dịch do khơng có quyền đại diện” nhưng q thời hạn
(khi cơng việc đã được thực hiện gần xong hoặc xong) thì khơng được chấp nhận, và
giao dịch đó vẫn được xem là có hiệu lực. Có thể thấy rằng, điều kiện “không phản đối”
trong chế định “thực hiện công việc không có uỷ quyền” có tính tuyệt đối cao hơn hẳn
các chế định khác.
1.4.3. Đối với cơng việc: “vì lợi ích của người có cơng việc”.
Như đã phân tích ở câu 3, điểm mới khi quy định về vấn đề này giữa BLDS
2015 so với BLDS 2005 (bỏ đi chữ “hoàn toàn”), đã mở rộng phạm vi đối tượng nhận
được lợi ích từ việc “thực hiện cơng việc khơng có thẩm quyền”. Ở đây, pháp luật dân
sự không hạn chế sự lợi ích (nếu có) của người thực hiện cơng việc, bên thứ ba hoặc
12 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.74.

13 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (6), tr.41.

download by :


7

cộng đồng. Tức là, chỉ cần đảm bảo “khi thực hiện cơng việc chủ yếu là vì lợi ích của
người có cơng việc, thì hành vi đó được coi là thực hiện cơng việc khơng có uỷ
quyền”14.
Mặt khác, căn cứ xác định có tồn tại yếu tố lợi ích ở đây, không cần là một kết
quả xác định, phù hợp với mong muốn của người có cơng việc được thực hiện. Nói
cách khác, chỉ cần việc thực hiện cơng việc này xuất phát từ sự tự nguyện, nhằm đem
lại lợi ích cho người có cơng việc cần thực hiện, đảm bảo các quy định về nghĩa vụ
thực hiện công việc (quy định tại Điều 575 BLDS 2015), thì người có cơng việc phải
thực hiện nghĩa vụ thanh tốn của mình, kể cả khi “công việc không đạt được kết quả
theo ý muốn của mình” (khoản 1 Điều 576 BLDS 2015).
1.5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà thầu C có
thể u cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế
định “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền” trong Bộ luật Dân sự năm 2015
khơng? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực
hiện nghĩa vụ theo quy định của chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”,
mà cụ thể ở đây là nghĩa vụ thanh toán theo Điều 576 BLDS 2015.
Cơ sở pháp lý: Điều 574 đến Điều 576 BLDS 2015.


vụ việc trên, để chứng minh rằng A có nghĩa vụ thanh tốn cho C theo quy

định tại Điều 576 BLDS 2015, ta cần làm rõ việc xây dựng cơng trình của C có thuộc

trường hợp “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền” hay khơng? Như lập luận phân
tích của nhóm trong câu 4, việc làm C đáp ứng đầy đủ các điều kiện để áp dụng chế
định “thực hiện công việc không có ủy quyền” (Điều 574 BLDS 2015). Cụ thể:
- Về phía nhà thầu C:
+
Trong hợp đồng ký kết giữa B và C không nêu rõ B đại diện cho A, cũng như A
chưa từng ủy quyền cho B thực hiện giao kết hợp đồng này với C, chưa từng thể hiện sự
đồng ý của mình với giao dịch này (dữ liệu không hề đề cập đến việc C đồng ý). Vì vậy,
kể cả khi C và B đã cùng nhau thiết lập hợp đồng xây dựng, hợp đồng chỉ làm phát
14 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (6), tr.45.

download by :


8

sinh nghĩa vụ giữa B (bên thứ 3) và C, khơng hề có sự ràng buộc về nghĩa vụ của C đối
với A theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015. Điều này thỏa mãn yếu tố người thực hiện
công việc “khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc”, vì nghĩa vụ phát sinh giữa C (người
thực hiện công việc) với B (bên thứ 3), nếu có, cũng khơng được tính trong điều kiện
này.
+
Đồng thời, C thực hiện công việc này mà khơng có bất kỳ sự ép buộc, cưỡng
chế nào từ phía A.
- Về phía chủ đầu tư A:
+
A thành lập ra Ban quản lý B để tiến hành xây dựng cơng trình cơng cộng.
Song, A lại khơng ủy quyền cho B để ký hợp đồng với nhà thầu là C. Như vậy, A chưa
từng yêu cầu C phải thi cơng xây dựng cơng trình mà mình mong muốn.
+


Nếu A không biết về vụ việc này cho đến khi C thực hiện xong cơng trình, A

nghiễm nhiên thỏa mãn điều kiện “không biết” theo quy định tại Điều 574 BLDS
2015. Tuy nhiên, với vai trò là chủ đầu tư, A hồn tồn có khả năng biết và phải biết về
việc thi cơng cơng trình cơng cộng của C. Kể cả trong trường hợp đó, việc C có thể xây
dựng xong cơng trình chính là minh chứng cho điều kiện “biết mà khơng phản đối”
(Điều 576 BLDS 2015). Bởi vì, nếu như có bất kì sự phản đối nào từ A, C đã phải chấm
dứt thực hiện công việc theo quy định tại khoản 1 Điều 578 BLDS 2015.
- Về công việc mà C thực hiện:
Đây là công việc đem lại lợi ích cho A với tư cách là một chủ đầu tư dự án.
Chính vì điểm mới trong BLDS 2015 (bỏ đi chữ “hoàn toàn”) khi quy định về vấn đề
này, kể cả khi C tiếp tục thực hiện công việc xuất phát một phần từ lợi ích của chính
mình, thì lợi ích lớn nhất khi cơng việc được hồn tất vẫn thuộc về A. Khi lợi ích phần
lớn vẫn thuộc về người có cơng việc, thì dù cho người thực hiện công việc được lợi
một phần (như C được lợi từ hợp đồng với B), điều kiện “vì lợi ích của người có cơng
việc” (Điều 574 BLDS 2015) vẫn được cơng nhận.
Như vậy, nếu C hồn thành xong cơng việc theo đúng nghĩa vụ của mình ghi
nhận tại Điều 575 BLDS 2015, C đương nhiên có quyền yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ
thanh toán theo quy định tại Điều 576 BLDS 2015. Cần nhấn mạnh rằng, các chi phí

download by :


9

hợp lý mà C đã bỏ ra trong khi thực hiện cơng việc chắc chắn sẽ được hồn trả mà
khơng cần xét đến kết quả cơng việc có đáp ứng nguyện vọng, mong muốn của A hay
không (trong điều kiện C đã làm hết khả năng của mình khi thực hiện cơng việc này).
Thậm chí, A cịn có thể phải thanh toán thù lao cho C nếu việc thực hiện công việc của

C được đánh giá là “chu đáo” và “có lợi” cho A (khoản 2 Điều 576 BLDS 2015).

download by :


10

VẤN ĐỀ 02
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)
2.1. Thông tư trên [Thông tư liên tịch 01/TTLT của Tòa án nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính Hướng dẫn việc xét xử và
thi hành án về tài sản] cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Mục 1 Chương I trong Thơng tư liên tịch 01/TTLT cho phép tính lại giá trị
khoản thanh tốn như sau:
Trường hợp nghĩa vụ dân sự hay việc gây thiệt hại phát sinh trước ngày
01/7/1996 mà giá gạo tăng từ 20% trở lên trong thời gian từ lúc phát sinh nghĩa vụ/thiệt
hại cho đến xét xử sơ thẩm, thì Tịa án phải quy đổi khoản tiền đó ra gạo theo giá loại
gạo trung bình ở địa phương tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ/thiệt hại, sau đó tính số
lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo thời điểm xét xử sơ thẩm (theo điểm a mục 1
Chương I).
Trường hợp nghĩa vụ dân sự hay việc gây thiệt hại phát sinh sau ngày 01/7/1996
hay xảy ra trước ngày 01/7/1996 nhưng giá gạo không tăng hoặc tăng dưới 20% trong
thời gian từ lúc phát sinh nghĩa vụ/thiệt hại cho đến xét xử sơ thẩm, thì Tịa án chỉ xác
định khoản tiền đó nhằm buộc bên có nghĩa vụ thanh tốn bằng tiền. Nếu bên đó có lỗi
thì cịn phải trả lãi với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước
quy định ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại
khoản 2 Điều 3 BLDS 1995 (theo điểm b mục 1 Chương I).
2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với tình huống này, ơng Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là

3.285.000đ.
Cơ sở pháp lý: điểm a mục 1 Chương I Thông tư liên tịch số 01/TTLT.

download by :


11

Nghĩa vụ dân sự giữa ông Quới và bà Cô phát sinh vào ngày 15/11/1973, nghĩa
là trước khoảng thời gian là ngày 01/7/1996. Bên cạnh đó, giá gạo trung bình vào năm
1973 là 137đ/kg và giá gạo trung bình hiện nay theo Sở Tài chính là 9000đ/kg, như vậy
giá gạo từ năm 1973 đến nay đã tăng trên 20%. Do đó, việc tính lại số tiền ơng Quới trả
cho bà Cô phải dựa vào điểm a khoản 1 Chương I Thông tư liên tịch 01/TTLT. Cụ thể
như sau:
Ngày 15/11/1973, ông Quới nhận tiền thế chân của bà Cô là 50.000đ. Để tính lại
số tiền thế chân để trả lại cho bà Cơ, Tịa án phải quy đổi 50.000đ ra gạo theo giá gạo
trung bình được niêm yết vào năm 1973 (137đ/ký): 50.000/137 = 365 (kg).
Từ đó, ta sẽ tính được số tiền thực tế ông Quới trả cho bà Cô theo giá gạo niêm
yết hiện tại của Sở Tài chính (9000đ/ký): 365 x 9000 = 3.285.000 (đ).
2.3. Thông tư trên có điều chỉnh trong việc thanh tốn tiền trong hợp đồng
chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT khơng?
Vì sao?
Thơng tư liên tịch 01/TTLT khơng điều chỉnh trong việc thanh toán tiền trong
hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
Thông tư trên đã liệt kê nhiều đối tượng là những nghĩa vụ thanh tốn tiền có thể
được tính lại trong trường hợp trượt giá như các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả,
tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù cơng sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay
khơng có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, ngồi ra thơng tư này
cũng điều chỉnh nghĩa vụ về tài sản là hiện vật. Tuy nhiên, “[…] danh sách này chỉ đưa
ra một số nghĩa vụ trả tiền, một số nghĩa vụ trả tiền khác có thể bị ảnh hưởng về trượt

giá nhưng lại không được quy định”15. Tiền thanh toán trong hợp đồng chuyển nhượng
bất động sản trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT cũng thuộc trường hợp này.
Do đó, thay vì áp dụng cách điều chỉnh trong việc thanh toán tiền đối với hợp
đồng chuyển nhượng bất động sản trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT (quy đổi về
giá gạo trung bình của địa phương hoặc trả bằng số tiền mặt do Tòa án xác định, cộng
15 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.349.

download by :


12

thêm việc trả lãi nếu bên thực hiện nghĩa vụ có lỗi), Tịa án sẽ đi theo hướng xác định
lại nội dung nghĩa vụ thanh tốn của bị đơn thơng qua giá trị của tài sản được giao dịch
tại thị trường địa phương.
2.4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị
nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tịa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán cho cụ
Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Tịa án nhân dân cấp cao Hà Nội nhận định: “bà Hương phải thanh toán cho cụ
Bảng số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm xét xử
sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết
số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao”.
Căn cứ vào điểm b2 tiểu mục 2.1 mục 2 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ16

HĐTP thì bà Hương phải thanh tốn theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị
trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm tức 1.697.760.000đ.
2.5. Hướng như trên tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?

Với hướng như trên, Tịa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. Đó là
Quyết định Giám đốc thẩm số: 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ án tranh chấp
nhà đất và địi nợ”.17
Tóm tắt bản án:
-

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Lai.

-

Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân.

-

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

16 Điểm b2 tiểu mục 2.1 mục 2 phần II Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP: “[…] Trong trường hợp có đủ căn cứ
xác định việc mua bán chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất là hợp pháp và công nhận hợp đồng mua bán nhà
đất giữa các bên thì phải lấy giá nhà, đất thoả thuận trong hợp đồng trừ đi số tiền nợ gốc và lãi; trường hợp còn
thiếu bên mua chưa trả đủ thì phần cịn thiếu (tính theo tỷ lệ % giá trị nhà đất) bên mua phải thanh toán cho bên bán
theo giá thị trường tại địa phương ở thời điểm xét xử sơ thẩm lại.”

17 Xem thêm về bản án này trong: Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), chú thích cuối trang thứ 223, tr.350-351.

download by :


13

+


Bà Trần Thị Minh.

+

Ơng Hồng Minh Khoa.

- Diễn biến vụ việc:
+

Năm 1994, bà Lai cho ông Xuân vay 11.500.000đ (giấy ghi nợ không ghi rõ

ngày tháng năm nhưng hai bên đều thống nhất thời gian cho vay là năm 1994).
+
+

Ngày 12/02/1996, bà Lai cho ông Xuân vay tiếp 128.954.000đ.

Ngày 08/8/1996, hai bên thống nhất số tiền nợ (lẫn lãi) là 188.600.000đ, đồng

thời thỏa thuận chuyển nhượng căn nhà số 19 Chu Văn An cho bà Lai với giá
188.600.000đ. Do vợ chồng ơng Xn khơng thanh tốn nợ và khơng giao nhà mà vẫn
quản lý ngôi nhà nên bà Lai vẫn tính lãi của số tiền 188.600.000đ.
+
Ngày 05/8/1997, vợ chồng ơng Xuân và vợ chồng bà Lai tiếp tục chốt nợ gốc
và lãi từ 188.600.000đ lên 250.000.000đ; hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất với giá 250.000.000đ.
+

Sau khi lập hợp đồng, bà Lai vẫn tính lãi số tiền 250.000.000đ trong thời gian


02 tháng thành 6.000.000đ để cộng dồn vào số tiền 44.000.000đ bà Lai đã cho ông
Xuân vay vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ.
- Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
+ Vụ tranh chấp phải giải quyết cả hai quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà
đất.
+
Xác minh, thu thập các chứng cứ chứng minh rằng liệu thủ tục làm giấy tờ
mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có theo quy trình pháp luật quy định
hay khơng.
+

Trường hợp xác định được việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất là hợp pháp

và bên mua chưa trả đủ tiền thanh toán thì phần cịn thiếu sẽ được tính thơng qua giá trị
của tài sản chuyển nhượng tại thị trường địa phương tại thời điểm xét xử18. Đây chính
18 Quyết định số 09/HĐTP-DS: “[…] Trong trường hợp có đủ căn cứ xác định việc mua bán chuyển nhượng nhà và
quyền sử dụng đất là hợp pháp và công nhận hợp đồng mua bán nhà đất giữa các bên thì phải lấy giá nhà, đất thoả
thuận trong hợp đồng trừ đi số tiền nợ gốc và lãi; trường hợp còn thiếu bên mua chưa trả đủ thì phần cịn thiếu (tính
theo tỷ lệ % giá trị nhà đất) bên mua phải thanh toán cho bên bán theo giá thị trường tại địa

download by :


14

là nội dung của tiền lệ cho hướng giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.

phương ở thời điểm xét xử sơ thẩm lại.”


download by :


15

VẤN ĐỀ 03
CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN
3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận?
Chuyển giao quyền yêu
Cơ sở pháp lý

Giống nhau

cầu
Điều 365 – Điều 370 BLDS
2015
Có ít nhất ba chủ thể.
- Đều dẫn tới hậu quả pháp lý là làm thay đổi chủ thể trong
quan hệ nghĩa vụ, theo đó, chấm dứt tư cách chủ thể của
chủ thể đã chuyển giao, xác lập tư cách chủ thể cho người
nhận chuyển giao.
-

Đối tượng
có quyền
chuyển giao

Đều được thể hiện bằng văn bản hoặc lời nói.

Khơng được chuyển giao khi quyền yêu cầu/nghĩa vụ

gắn liền với nhân thân của bên chuyển giao.
Bên có quyền là người có
Bên có nghĩa vụ là người
quyền chuyển giao.
thực hiện việc chuyển giao.
Việc chuyển giao quyền yêu Việc chuyển giao nghĩa vụ
cầu không cần sự đồng ý của bắt buộc phải được bên có
bên có nghĩa vụ.
quyền đồng ý.

Khác

Người chuyển giao quyền
nhau Nguyên tắc yêu cầu phải thông báo bằng
chuyển giao
văn bản cho bên có nghĩa vụ
về việc chuyển giao quyền

Hiệu lực

yêu cầu, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác.
Trường hợp quyền yêu cầu

Biện pháp bảo đảm chấm

của biện


thực hiện nghĩa vụ có biện

dứt khi nghĩa vụ có biện

download by :


16

pháp bảo
đảm
3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh tốn
cho bà Tú?
Thơng tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú là:
“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người
trực tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và theo biên
nhận ngày 27/4/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền
615.000.000đ. Phía bà Phượng khơng cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa
thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4
năm 2004, do phía bà Loan, ơng Thạnh và bà Ngọc khơng có tiền trả cho bà Tú để trả
vốn vay ngân hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngồi để có tiền trả cho
ngân hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.”
3.3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ơng Thạnh là:
“Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay
số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ
vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc,

bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt,
làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng
vay tiền đã ký.”
3.4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Toà án?
Đánh giá của Toà án về nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là có căn cứ.

download by :


17

Theo quy định tại khoản 1 Điều 370 BLDS 2015 quy định về việc chuyển giao
nghĩa vụ thì “bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu
được bên có quyền đồng ý”. Mặc dù trong BLDS 2015 không cho biết sự đồng ý này
cần được thể hiện theo hình thức nào, tuy nhiên, theo một số nhà bình luận thì sự đồng
ý này có thể được thể hiện theo bất kỳ hình thức nào, khơng phụ thuộc vào hình thức
của thỏa thuận chuyển giao nghĩa vụ giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa
vụ. Nhận thấy, vào ngày 12/05/2005, bà Ngọc ký hợp đồng vay với bà Tú trên vốn vay
là 465.000.000đ và tiền lãi theo thoả thuận 1,3%/tháng, thế chấp tài sản là diện tích đất
toạ lạc tổ 34, khóm Châu Long 6, phường Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc. Tương tự, Bà Tú
cũng đã lập hợp đồng vay với vợ chồng bà Loan, ông Thạnh trên vốn vay
150.000.000đ. Bởi các lẽ trên, ta thấy rằng bà Tú đã đồng ý việc bà Phượng chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ơng Hạnh.
3.5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách nhiệm
đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Điều 283, Điều 370 BLDS 2015.
Từ góc độ văn bản, BLDS 2015 không quy định rõ liệu người có nghĩa vụ ban
đầu có cịn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ khơng thực hiện

nghĩa vụ được chuyển giao hay không, mà chỉ quy định là “khi được chuyển giao nghĩa
vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”. Để làm sáng tỏ điều này, ta xét
hai trường hợp sau:
(1)

Trường hợp người có nghĩa vụ ban đầu vẫn cịn trách nhiệm đối với người có

quyền: hệ quả pháp lý của trường hợp này sẽ giống như hệ quả của quy định “khi được
bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực
hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba
khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”. Như vậy, quy định chuyển giao
nghĩa vụ và quy định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba sẽ không độc lập với
nhau.
(2)

Trường hợp người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm đối với

người có quyền: hệ quả pháp lý là sẽ chấm dứt trách nhiệm của người có nghĩa vụ ban

download by :


18

đầu với người có quyền, đồng thời người thế nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm độc lập
trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền. Như vậy thì mới có sự khác
nhau giữa hai chế định chuyển giao nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ thông qua người
thứ ba.
Mặc dù BLDS hiện hành chưa có quy định rõ về đề này, tuy nhiên, thực tiễn xét
xử cho thấy, Tồ án đã giải phóng cho người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi các bên có

thoả thuận khác. Sở dĩ như thế là vì hai chế định trên vốn đã có nhiều điểm tương đồng,
ví dụ được bên có quyền đồng ý, do người thứ ba thực hiện nghĩa vụ, đều là sự thỏa
thuận giữa bên có quyền và người thứ ba, v.v.. Chúng ta có thể hiểu rằng, mặc dù pháp
luật chưa quy định minh thị, nhưng các nhà làm luật đã ngầm nhận định rằng người có
nghĩa vụ không chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
3.6. Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu
có cịn trách nhiệm đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà
anh/chị biết.
Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn
trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có
trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta khơng thấy sự khác nhau giữa chuyển
giao nghĩa vụ với “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do vậy, để
chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự
thông qua người thứ ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có
nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có bên có thoả thuận khác.”19
Tác giả đưa ra những ví dụ cụ thể như hướng giải quyết của Trọng tài trong vụ
việc Công ty Việt Nam và cơng ty Hồng Kơng hay quyết định của Tồ án cấp sơ thẩm
trong Bản án số 913/2006/DS-PT ngày 06-09-2006 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ
19 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.642.

download by :


19

Chí Minh. Bên cạnh đó, tác giả một lần nữa khẳng định, “khi có chuyển giao nghĩa vụ

theo thoả thuận thì người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm với người có
quyền đối với nghĩa vụ hay phần nghĩa vụ được chuyển giao” thông qua hướng giải
quyết của Toà giám đốc thẩm trong Quyết định số 361/2009/DS-GĐT ngày 13-8-2009
của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao.
Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài, “trên cơ sở thỏa thuận, với sự đồng ý của bên
có quyền, người thứ 3 thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành người có nghĩa vụ
mới hay cịn gọi là người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ chấm dứt tồn bộ mối quan
hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có
quyền chỉ được phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã
chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên
có nghĩa vụ.”20 Bên cạnh đó, khi đặt hai chế định chuyển giao nghĩa vụ và thực hiện
nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba lên bàn cân so sánh, tác giả nhận định “đối với
với việc uỷ quyền, người được uỷ quyền không thể trở thành một bên chủ thể độc lập
trong quan hệ nghĩa vụ chính mà người này chỉ được thực hiện nghĩa vụ theo sự uỷ
quyền của người uỷ quyền, nhân danh người uỷ quyền và vì lợi ích của người uỷ
quyền.”21
3.7. Đoạn nào của bản án cho thấy Toà án theo hướng người có nghĩa vụ
ban đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn của bản án cho thấy Tồ án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu khơng
cịn trách nhiệm đối với người có quyền:
“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và
ơng Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh
nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã
ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh tốn nợ cho bà là khơng có căn
cứ chấp nhận”;

20 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Đỗ Văn Đại, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.64.


21 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), tlđd (20), tr.64.

download by :


20

“Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía
bà Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà Phượng giấy
chứng minh Hải quan.”
3.8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
3.8.1. Xét về điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý.
Sự đồng ý của bên có quyền là điều kiện cần thiết để chuyển giao nghĩa vụ theo
thoả thuận có giá trị pháp lý, cũng như để bảo đảm quyền lợi của bên có quyền. Khơng
chỉ pháp luật nước ta mà pháp luật nước ngoài cũng xây dựng chế định tương tự để quy
định về vấn đề này. Ví dụ:
Điều 9.2.3 Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Việc chuyển giao nghĩa vụ theo
thoả thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải có sự đồng ý
của người có quyền”.
Khoản 1 Điều 12:101 Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng quy định: “với sự
đồng ý của người có quyền và người có nghĩa vụ, người thứ ba có thể cam kết thay thế
người có nghĩa vụ”.
3.8.2. Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan.
“Thực tế cho thấy, quy định trong các hệ thống luật tương đối khác nhau. Ở
châu Âu, một số nước quy định người có nghĩa vụ ban đầu được giải phóng hồn tồn
nhưng một số nước lại quy định ngược lại theo hướng người thứ ba là người có nghĩa
vụ bổ sung.
Theo Bộ nguyên tắc Unidroit (Điều 9.2.5): “Người có quyền có thể giải phóng
nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu”. Như vậy, người có quyền có thể giải phóng

hồn tồn nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu. “Người có quyền cũng có thể quyết
định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là người có nghĩa vụ trong trường hợp người có
nghĩa vụ mới khơng thực hiện đúng nghĩa vụ của mình”. Điều đó có nghĩa là người có
quyền có thể lựa chọn một khả năng khác, đó là chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ
mới, nhưng người có quyền bảo lưu quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu.
Vẫn theo Bộ nguyên tắc Unidroit: “Trong mọi trường hợp khác, người có nghĩa vụ ban

download by :


21

đầu và người có nghĩa vụ mới phải liên đới chịu trách nhiệm”. Quy định tại điều này
thể hiện rõ là giải pháp cuối cùng cũng là giải pháp được áp dụng trong trường hợp
người có quyền khơng có quyền quyết định nào. Nói cách khác, nếu người có quyền
khơng nêu rõ ý định giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu cũng khơng quyết định là
người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải chịu trách nhiệm liên đới về
việc thực hiện nghĩa vụ.
Tuy nhiên, theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng thì việc chuyển giao nghĩa
vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu (Điều 12:10): “người có nghĩa vụ ban đầu
khơng còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ””22
3.9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tồ án.
Theo tơi, hướng giải quyết trên của Tồ án là hợp lý.
Thứ nhất, việc Toà xác định đã có hành vi pháp lý là chuyển giao nghĩa vụ theo
thoả thuận là có căn cứ. Nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng (bên có nghĩa vụ) đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh (bên thế nghĩa vụ) và có sự chấp thuận
của bà Tú (bên có quyền). Cụ thể là “Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập
hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh
vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005.”. Như vậy, “khi được chuyển giao nghĩa

vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”23.
Thứ hai, Tồ án đã đưa ra “câu trả lời” cho câu hỏi khi có chuyển giao nghĩa vụ
theo thoả thuận, bà Phượng có được giải phóng hay khơng. Tồ án cho rằng “Như vậy,
kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, và Loan và ơng Thạnh thì
nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ
của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc
bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh tốn nợ cho bà là khơng có căn cứ chấp
nhận” và “Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận.
Phía bà Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà Phượng
giấy chứng minh Hải quan”. “Câu trả lời” cho thấy bà Phượng khơng cịn bị
22 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.641-642.
23 Khoản 2 Điều 370 BLDS 2015.

download by :


×