Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

MÔN học NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG về LUẬT dân sự, tài sản và THỪA kế bài THẢO LUẬN THỨ BA tài sản và QUYỀN đối với tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.63 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

MÔN HỌC NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ
LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ

BÀI THẢO LUẬN THỨ BA:
TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Họ và tên: Lương Ngọc Diễm
Mã sinh viên: 2153801015039
Lớp: AUF 46

1

download by :


*Khái niệm tài sản:
Tóm tắt Quyết định 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh
Hoà.
Giải quyết về việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án giữa
nguyên đơn ông Hai và bị đơn ông Phan Quốc Thái. Yêu câu ông Thái trả lại Giấy chứng
quyền sử dụng đất cấp ngày 23/7/1999 của UBND huyện Diện Khánh mang tên Lương Thị
Xàm cho ông Hai. Quyết định không chấp nhận kháng nghị ngày 12/5/2017 của VKSND
huyện Diện Khánh, tỉnh Khánh Hồ; khơng chấp nhận kháng cáo ngun đơn ơng Hai.
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Tóm tắt Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tồ án nhân dân huyện Long
Hồ tỉnh Vĩnh Long.
Xét xử vụ án “Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng” giữa ngun đơn là ơng Vó
Văn B và bà Bùi Thị H và bị đơn là bà Nguyễn Thị Thuỷ T. Năm 2012, sau khi sửa sang


nhà xong thì 10 ngày sau phát hiện mất giấy chứng nhận quyền sử dngj đất bị mất nên làm
đơn cớ mất. Sau khi làm đơn, UBND huyện Long Hồ cấp lại giấy chứng nhận quyển sử
dụng đất cho ông B, bà H, nhưng khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì khơng
được nhận do Uỷ ban nói có người tranh chấp. Hiện nay bà T là người giữ giấy chứng
nhận quyển sử dụng đất của ông B nà bà H, và chỉ chấp nhận trả lại khi nhận đủ số tiền
120.000.000 đồng. Quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn B và bà Bùi
Thị H. Buộc bà Nguyễn Thị Thuỷ T giao trả lại cho ông B và bà H giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất.
Tóm tắt Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre:
Xét xử về việc khiếu kiện: “Quyết định truy thu thuế” giữa người khởi kiện ông
Nguyễn Việt Cường và người bị kiện là Chi Cục trưởng Chi trưởng thành phố thành phố
Bến Tre và Cục trưởng Cục thuế tỉnh Bến Tre. Ơng Cường có đơn khởi kiện u cầu Toà
2

download by :


án huỷ Quyết định số 714/QĐ-CCT ngày 12/5/2016 của Cục trưởng Chi cục thuế thành
phố Bến tre à Quyết định số 1002/QĐ-CT ngày 18/5/2017 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh
Bến Tre. Lý do ông Cường phải nộp thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân khi mua
bán tiền kỹ thuật số. Quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ơng Nguyễn Việt Cường.
Tóm tắt Quyết định số: 05/2018/DS-GĐT ngày 10/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn là bà H và bị đơn là bà L – con của cụ Nguyễn Thanh T. Đầu năm
1976, cụ T được Quân đội cấp phép sở hữu, sử dụng căn nhà số 63 nhưng sau khi chết
khơng để lại di chúc, có lập giấy ủy quyền cho bà L trọn quyền giải quyết những việc có
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với căn nhà trên. Bà L đã mua hóa giá
căn nhà trên sau khi có sự đồng ý của tồn bộ các con cụ. Tuy nhiên sau đó bà L đã cho
thuê mà không bàn bạc với con cụ T. Bà H khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung là ngôi nhà
trên theo biên bản thoả thuận của Thanh tra Bộ Quốc phòng. Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án

xác định căn nhà trên thuộc quyền sở hữu của bà L và chồng. Bà H đề nghị giám đốc thẩm
bản án. Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh nhận định Tịa án cấp sơ thẩm và
phúc thẩm chưa làm rõ chế độ mua nhà của bà L và nhận định sai giấy ủy quyền của cụ T,
quyết định hủy Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân TP Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại.
Câu 1: Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời khi trả lời và cho ví dụ
minh hoạ về giấy tờ có giá.
Trong BLDS 2015 không quy định cụ thể vể giấy tờ có giá nhưng trong khoản 8
Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 và khoản 1 Điều 2 Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam 2010 đã nêu rõ “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ
giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá khác trong một thời
hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác.”.

3

download by :


“Giấy tờ có giá” theo khoản 1 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP thì “giấy tờ có
giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối điếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc,
chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và
được phép giao dịch.”
Và theo khoản 1, khoản 2 Điều 2 Thơng tư 01/2012/TT-NHNN thì giấy tờ có giá
được chia thành 2 loại:
1. Giấy tờ có giá dài hạn là giấy tờ có giá có thời hạn một năm từ một năm trở lên kể từ
khi phát hành đến khi đến hạn thanh tốn.
2. Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm kể từ khi phát hành
đến khi đến hạn thanh tốn.
Ví dụ: hối phiếu địi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, hợp đồng góp vốn đầu tư.
Câu 2: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận

sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá khơng? Quyến định số 06 và Bản án số 39 có cho câu
trả lời khơng? Vì sao?
Trong thực tiễn thì “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” khơng là giấy tờ có giá bởi vì chỉ có những loại giấy tờ được quy định trong khoản 1
Điều 11 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP thì mới được coi là giấy tờ có giá.
Quyết định 06 đã cho thấy “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” không là giấy tờ có giá là vì tại [2] phần XÉT THẤY “giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng
quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá”.
Câu 3: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản khơng? Quyết định số 06 Bản án số 39 có cho câu trả
lời khơng? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử thì “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhậnsở
hữu nhà ở” không được xem là tài sản.

4

download by :


Và trong quyết định số 06 có câu trả lời đó. Tại [2] phần XÉT THẤY có chỉ rõ
“Theo Điều 105 BLDS 2015 quy định vè tài sản như sau: “1. Tài sản là vât, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và
động sản tương lai có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”I; Điều
115 BLDS 2015 “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản
khác”. Căn cứ khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013: “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác
lập quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của
người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu hà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với
đất”. Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở

chỉ là văn bản chứng đựng thôn gtin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền,
không phải là tài sản”. Bởi vì chứng khơng thoả mãn bất kỳ dấu hiệu nào trong xác định
loại tài sản là “vật, tiền, giấy tờ có giá hay quyền tài sản”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về h[\ng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn tư khái
niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm v\i pháp luật n[\c ngồi);
Tịa án đã căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành để khẳng định “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà” khơng phải là giấy tờ có
giá, do đó, nó không trở thành tài sản. Tuy nhiên, theo em, hướng giải quyết trong quyết
định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 liên quan đến “Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản là chưa hồn tồn hợp lý.
Lý do thứ nhất việc Tịa án nhân dân tối cao xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài sản là chưa phù hợp. Căn cứ vào Điều
163 BLDS 2005, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà” khơng phải là giấy tờ có
giá, tuy nhiên có thể coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu
nhà là vật. Bởi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà tồn tại
dưới một vật nhất định, có hình dạng nhất định, là tờ giấy; nằm trong khả năng
5

download by :


chiếm hữu của con người, có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; có giá trị sử dụng, được dùng để chứng minh quyền sử
dụng đất hợp pháp của chủ sở hữu. Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng
nhận sở hữu nhà không thể tham gia vào giao dịch trao đổi, mua bán không làm mất đi bản
chất tài sản của giấy.
Lý do thứ hai là việc Tòa án nhân dân tối cao coi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài sản sẽ dẫn tới nhiệu hệ quả khó giải

thích được về mặt lý luận và thực tế, đồng thời nhận thức làm làm ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của người sử dụng đất. Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, quyền
sở hữu và từng nội dung riêng lẻ của quyền sở hữu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
định đoạt chỉ có thể thực hiện được trên các đối tượng là tài sản, việc coi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không phải là tài sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp
của người sử dụng đối với loại giấy tờ này.
Từ đó sẽ dẫn tới việc Tịa án khơng có cơ sở để thừa nhận việc bảo hộ quyền chiếm
hữu và sử dụng hợp pháp đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận
sở hữu nhà một khi có vấn đề xảy ra như tranh chấp.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là loại giấy tờ có ý nghĩa quan trọng. Thực tiễn
xét xử hiện nay không coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một tài sản, tuy nhiên
quan này tỏ ra thiếu cơ sở pháp lý và thực tiễn.
Câu 5: Nếu áp dụng BLDS nam 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản khơng? Vì sao?
Căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015 quy định:
“1. Tài sản là tiền, vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2.Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện có hoặc là tài sản hình thành trong tương lai.”
Căn cứ vào Điều 115 BLDS quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu đất và quyền
tài sản khác.”
6

download by :


Căn cứ vào khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013: “giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà
nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khac gắn liền với đất hợp
pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền tài sản khác gắn liền

với đất.”
Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
khong phải là tài sản vì nó khơng phải là vâth, tiền, giất tờ có giá và quyền tài sản mà nó
chỉ là văn bản chứng đựng thơng tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không
phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá nhằm bảo vệ quyền lợi về tài sản của
chủ thể. Trường hợp nếu chủ thể bị mất giấy chứng nhận thì có thể u cầu cấp lại và
khơng làm ảnh hưởng gì đến quyền lợi của chủ sở hữu.
Câu 6: Suy của anh/chị về h[\ng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.
Trong Bản án số 39, Toà án chỉ nhận định “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là
chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất nên thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật dân sự.” là hợp lý. Tồ án đã dựa vào vai trị của giấy chứng nhận để
xác nhận giấy chứng nhận có liên quan về tài sản.
Câu 7: Bitcoin là gì?
Bitcoin là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi Satoshi Nakamoto dưới dạng
phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009. Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị
kết nối Internet mà không cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào.
Bitcoin có cách hoạt động khác hẳn so với các loại tiền tệ điển hình, như khơng có
một ngân hàng trung ương nào quản lý và hệ thống hoạt động dựa trên một giao thức
mạng ngang hàng trên Internet. Sự cung ứng Bitcoin là tự động, hạn chế, được phân chia
theo lịch trình định sẵn dựa trên các thuật tốn. Bitcoin được cấp tới các máy tính “đào”
Bitcoin để trả công cho việc xác minh giao dịch Bitcoin và ghi chúng vào cuốn sổ cái
7

download by :


được phân tán trong mạng ngang hàng, thông qua công nghệ blockchain. Cuốn sổ cái này
sử dụng Bitcoin là đơn vị kế tốn. Mỗi Bitcoin có thể được chia nhỏ tới 100 triệu đơn vị

nhỏ hơn gọi là satoshi. Bitcoin là loại tiền mã hóa điển hình nhất, ra đời đầu tiên và được
sử dụng rộng rãi nhất trong thương mại điện tử. Các doanh nghiệp có xu hướng mn
thanh tốn bằng Bitcoin để giảm thiểu chi phí.
Câu 8: Theo Tba án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
Trong Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Toà án tỉnh Bến Tre đã nêu
quan điểm như sau: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ,
phương tiện thanh toán hợp pháp, đồng thời Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày
17/10/2014 caut Chính phủ quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
phát hành, cung ứng và sử dụng phương tiện thanh tốn khơng hợp pháp như Bitcoin và
các loại tiền ảo tương tự.”.
Tồ án cũng khơng cơng nhận Bitcoin là tài sản theo luật Việt Nam. Vì “Cho đến
thời điểm hiện nay, chưa có bất cứ mơt văn bản quy phạm pháp luật nào quy định tiền kỹ
thuật số (tiền ảo) là hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ơt
Việt Nam.
Câu 9: Pháp luật n[\c ngồi có coi Bitcoin là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết.
Trên thực tế, pháp luật ở một số nước đã công nhận Bitcoin là tài sản:1
Vào tháng 10 năm 2015, Toà án Công lý của Liên minh Châu Âu đã ra phán quyết
rằng “Việc trao đổi tiền tệ truyền thống lấy các đơn vị tiền ảo Bitcoin được miễn thuế”.
Năm 2013, Bộ Tài chính Hoa Kỳ phân loại Bitcoin như là một loại tiền ảo phi tập trung có
thể chuyển đổi. Uỷ ban Giao dịch Hàng hoá Tương lai, CFTC, đã phân loại Bitcoin là một
loại hàng hoá vào tháng 9 năm 2015. Ngoài ra con nhiều nước như Thái Lan, Đức, Anh,
Nhật Bản,… cũng hợp pháp hoá tiền ảo Bitcoin và xem Bitcoin như tài sản và có thể dùng
quy đổi thành tiền, làm phương tiện thanh toán.
1 Nguồn: Wikipedia

8

download by :



Phần lớn các quốc gia còn lại (bao gồm Việt Nam) đều để Bitcoin trạng thái quản
lý hoặc không rõ ràng. Chỉ có duy nhất 3 quốc gia cấm giao dịch Bitcoin, bao gồm:
Bangladesh, Bolivia, Ecuador.
Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về quan đidm của Tba án đối v\i Bitcoin trong mối
quan hệ v\i khái niệm tài sản ở Việt Nam.
Về khái niệm “tài sản”: “Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất
hoặc tiêu dùng”.
Căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có
thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện

và tài sản hình thành trong tương lai.”
Như vậy, về cơ bản, một đối tượng trong thế giới khách quan được coi là tài sản khi
nó nằm trong sự kiểm sốt, chi phối, nắm giữ được của con người. Nói cách khác, tài sản
có một số đặc điểm như: Thuộc sở hữu của một chủ thể nhất định; Đáp ứng một lợi ích
nhất định của con người (lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần); Mang tính giá trị (giá trị
và giá trị sử dụng).
Đồng tiền Bitcoin mang những ưu điểm vượt trội và là một khởi đầu cho một xu
thế mới trên phạm vi toàn cầu. Song Bitcoin vẫn tiềm tàng rất nhiều nhược điểm đến từ
tuổi đời non trẻ chưa tới 10 năm của nó, nhiều trong số đó là tiền đề để các hệ thống pháp
lý xem xét và nhận định đây có thực sự là “tài sản” hay khơng: Bitcoin có thể bị mất nếu
xảy ra vấn đề về ổ cứng, dữ liệu bị nhiễm virus hay các tập tin bị hỏng thì Bitcoin sẽ bị
mất và không cách nào khôi phục được; Bitcoin luôn biến động khó lường mà sự biến
động của đồng Bitcoin vượt xa mức độ biến động của các đồng tiền truyền thống; Bitcoin
chứa đựng rủi ro lỗ hổng kỹ thuật do nó là một hệ thống cơng nghệ máy tính; Số lượng
Bitcoin được thiết kế có giới hạn với 21 triệu bitcoin và dự kiến tới năm 2040 sẽ được
“đào” hết.
9


download by :


Xét đến quan điểm của Tòa án, khung pháp lý về tiền kỹ thuật số, hay còn gọi là
tiền ảo, đang được hồn thiện, hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào xác định tiền
kỹ thuật số, tiền ảo là hàng hóa. Theo đó, Tịa án nhận định Bitcoin không phải là tài sản
theo luật pháp Việt Nam. Mặc dù quan điểm này phần nào đề cập đến việc các khung pháp
lý liên quan đến Bitcoin đang được xây dựng và việc công nhận Bitcoin và các loại tiền ảo
khác là loại tiền tệ hợp pháp có thể sẽ được diễn ra, việc phán đốn của Tịa án về việc có
xem loại tiền mã hóa này là tài sản, hàng hố hay khơng trong thời điểm nêu trên vẫn là
một vấn đề đáng cân nhắc. Bởi dưới sức ép của các thách thức liệt kê trên, vẫn chưa thể
khẳng định luật pháp Việt Nam sẽ thực sự xem Bitcoin là tài sản hợp pháp. Vì những lý do
trên, quan điểm của Toà án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt
Nam là hợp lý.
Câu 11: Quyền tài sản là gì?
Theo lý thuyết của Harold Demsetz (1967), quyền tài sản được hiểu là tập hợp của
rất nhiều quyền và lợi ích, trong đó có các quyền cơ bản như quyền kiểm sốt việc sử dụng
tài sản, quyền thụ hưởng lọi nhuận thu được từ việc sử dụng tài sản, các quyền chuyển
nhượng, thế chấp tài sản. Về mặt pháp lý, quyền tài sản được quy định như sau: “Quyền
tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản.”. (Điều 115)
Từ những phân tích và cơ sở pháp lý nêu trên thì có thể đưa ra định nghĩa về quyền
tài sản như sau: Quyền tài sản là một dạng tài sản đặc thù, khơng tồn tại dưới dạng vật
chất hữu hình là một loại quyền dân sự có nội dung kinh tế, có thể trị giá được bằng tiền,
do chủ thể có quyền tự mình thực hiện hoặc yêu cầu người khác thực hiện nhằm thoả mãn
nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của người có quyền.
Câu 12: Có quy định nào cho phép kheng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản khơng?
Khơng có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là

quyền tài sản.

10

download by :


Căn cứ vào Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng
đất và các quyền tài sản khác.”
Từ quy định này có thể thấy, theo quan điểm của những nhà luật học soạn thảo
BLDS 2015, quyền tài sản chỉ cịn mang một đặc điểm duy nhất “có thể trị giá được bằng
tiền” - tức là bất kỳ quyền nào đem lại giá trị kinh tế cho con người sẽ được coi là quyền
tài sản. Những nhà soạn thảo BLDS 2015 cho rằng bản chất của quyền tài sản chỉ cần nhìn
nhận ở góc độ giá trị kinh tế của nó, tức là trị giá được bằng tiền, việc có được chuyển
giao hay khơng được chuyển giao trong giao dịch dân sự chỉ nhằm mục đích xác định
những quyền tài sản nào sẽ là đối tượng của các giao dịch dân sự chứ đó khơng phải là đặc
điểm của quyền tài sản.
Câu 13: Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tba án nhân dân tối cao theo h[\ng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Đoạn [1] của phần nhận định của Quyết định số 5 cho thấy Toà án nhân dân tối cai
theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản.
“Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 BLDS 1995, quyền thuê, mua hoá giá
nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế
của cụ T.”
Câu 14: Suy nghĩ của anh/chị về h[\ng giải quyết của Tba án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ v\i khái niệm tài
sản)?
BLDS qua các thời kỳ đều có quy định khẳng định “quyền tài sản” là một loại “tài
sản” (căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015) và đưa ra định nghĩa “quyền tài sản là quyền trị

giá được bằng tiền” (căn cứ vào Điều 115 BLDS 2015), có thể chuyển giao trong giao
dịch dân sự.
Tuy nhiên, quyền tài sản bao gồm những quyền gì thì pháp luật dân sự nói chung
mới liệt kê một số loại quyền cụ thể như quyền sử dụng đất, quyền đòi nợ, quyền sở hữu
trí tuệ, v.v. Để có cơ sở xác định quyền mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước có phải là
11

download by :


quyền tài sản hay khơng thì phải căn cứ vào định nghĩa là quyền đó có giá trị được bằng
tiền hay không. Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao đã chỉ ra rằng quyền thuê, quyền mua hóa giá nhà cũng là loại quyền tài sản (trị giá
được bằng tiền) và có thể được chuyển giao cho các thừa kế. Đây là lập luận có giá trị làm
rõ những quy định của pháp luật cịn có cách hiểu khác nhau, có giá trị hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật trong xét xử.
Vì vậy, theo em, em cho rằng lập luận trong quyết định của giám đốc thẩm về vấn
đề pháp lý nêu trên đã đáp ứng được các tiêu chí tuân thủ pháp luật và hợp lý.
*Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số: 111/2013/DS-GĐT ngày 9/9/2013 của Toà án
nhân dân tối cao.
Nguyên đơn là cụ Dư Thị Hảo và bị đơn là Nhữ Thị Vân. Nhà số 2 Hàng Bút, quận
Hoàn Kiếm, TP Hà Nội là tài sản riêng của cụ Hảo có bằng khốn điền thổ. Năm 1954, cụ
vào Sài Gịn vào giao nhà lại cho con là vợ chồng ơng Chính, bà Châu quản lý. Đến năm
1968, vợ chồng ơng Chính đi công tác nên cho ông Nhữ Duy Hải thuê nhà, có giấy tờ
nhưng bị mất sau đó. Sau khi ơng Hải mất, cháu ông Hải là chị Nhữ Thị Vân tiếp tục sử
dụng đến nay. Năm 2001, chị Vân bán nhà cho chị Dương Thị Ngọc Lan, anh Nguyễn
Hồng Sơn. Đến năm 2004, cụ Hảo khởi kiện yêu cầu chị Vân trả lại căn nhà. Căn cứ vào
khoản 1 Điều 247 BLDS 2005, Toà án nhân dân tối cao xác định chị Vân đã thực hiện việc
chiếm hữu ngay tình, liên tục và công khai.

Câu 1: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tba án kheng định gia đình chị Vân
đf chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 nam và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
kheng định này của Tba án?
Đoạn mà Toà án đã khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm:
“Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên
tục, cơng khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS về xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm
12

download by :


đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm
hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này...”.”
Căn cứ vào khoản 1 Điều 247 BLDS 2005 quy định: “Người chiếm hữu, người
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong
thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ
sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
Điều này…”
Đây là việc tranh chấp khơng có căn cứ pháp luật cụ thể là đã làm mất giấy tờ thuê
nhà. Mà theo lời chị Vân thì gia đình chị đã ở nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954 tới lúc bị
khởi kiện là năm 2004 tức là 50 năm, đã trên 30 năm. Cịn theo lời ơng Chính thì đã cho
gia đình chị Vân th từ năm 1968 tới lúc khởi kiện là năm 2004 tức là 36 năm, cũng đã
trên 30 năm. Vậy trong cả 2 trường hợp thì gia đình chị Vân đều chiếm hữu nhà đất có
tranh chấp, ở đây là nhà số 2 Hàng Bút và trên 30 năm nên khẳng định trên của Tòa án là
hợp lý.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tba án kheng định gia đình chị Vân
đf chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 nam và cho biết suy nghĩ của

anh/chị về kheng định này của Tba án?
Đoạn mà Toà án đã khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm:
“Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên
tục, cơng khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS về xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối
với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này...”.”

13

download by :


Căn cứ vào Điều 190 BLDS 2005 có quy định: “Việc chiếm hữu tài sản được thực
hiện trong một khoảng thời gian mà khơng có trang chấp về tài sản đó là chiến hữu liên
tục, kể cả tài sản được giao cho người khác chiếm hữu”.
Khẳng định này của Tòa án là phù hợp với pháp luật hiện hành vì căn cứ theo Điều
180 BLDS 2015 quy định là “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu
có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.” Và theo Điều 189
BLDS 2005 có quy định về việc chiếm hữu khơng có căn cứ nhưng ngay tình cho trường
hợp: “Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ luật này là
chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật. Người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài
sản đó là khơng có căn cứ pháp luật.”
Việc gia đình chị Vân thuê căn nhà từ gia đình cụ Hảo thực chất là chuyển giao
quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự nên để được xem là chiếm hữu có căn cứ
pháp luật thì phải phù hợp với khoản 3 Điều 183 BLDS 2005: “Người được chuyển giao
quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật.”

Hợp đồng cho thuê nhà ở theo Điều 492 BLDS 2005 phải được thành lập thành văn
bản, nếu thời hạn thuê từ sáu tháng trở lên thì phải có cơng chứng hoặc chứng thực và phải
đăng kí, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc khơng có căn cứ nào cho biết
chính xác thời điểm ông Hải cho thuê căn nhà số 2 Hàng Bút cho thấy tại thời điểm th
khơng có văn bản nào được xác lập giữa hai bên. Nói cách khác, hợp đồng cho thuê căn
nhà số 2 Hàng Bút là không phù hợp với quy định cùa pháp luật. Vì vậy, việc chiếm hữu
căn nhà số 2 Hàng Bút của gia đình chị Vân là khơng có căn cứ pháp luật. Hơn nữa, chị
Vân hồn tồn có thể biết được việc chiếm hữu này là khơng có căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, Quyết định này khơng hợp tình vì những lý do sau đây:
Thứ nhất xét về thời điểm, hợp đồng cho thuê nhà giữa ông Hải và ông Chính được
xác lập vào giai đoạn trước năm 1975, tức là trước khi nước ta ra đời Bộ luật Dân

14

download by :


sự đầu tiên vào năm 1995 và Pháp lệnh về hợp đồng Dân sự năm 1991. Thứ hai, gia đình
chị Vân vẫn đóng tiền thuê nhà đầy đủ cho tới thời điểm ông Hải mất, vào năm 1995.
Xét thấy việc yêu cầu hợp đồng cho thuê căn nhà số 2 Hàng Bút được lập thành văn
bản và có cơng chứng theo quy định của pháp luật hơn 30 năm sau là không sát với thực
tiễn. Hơn nữa, chị Vân nhận thức được rằng tồn tại hợp đồng cho thuê nhà giữa gia đình
chị và ơng Chính qua việc thừa nhận việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền thuê nhà trong suốt
thời gian ơng Hải cịn sống.
Vì những lý do trên, quyết định của Tịa án về việc gia đình chị Vân chiếm hữu
ngay tình căn nhà số 2 Hàng Bút chỉ phù hợp với pháp luật hiện hành chứ chưa hợp tình,
hợp lý với BLDS 2005.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tba án kheng định gia đình chị Vân
đf chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 nam và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về kheng định này của Tba án?

Đoạn mà Toà án đã khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm:
“Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên
tục, cơng khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS về xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối
với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này...”.”
Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất là hợp lý.
Căn cứ theo Điều 190 BLDS 2005:
“Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện trong một khoảng thời gian mà khơng có
tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác
chiếm hữu.”
Và khoản 1 Điều 182 BLDS 2015:

15

download by :


“1. Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời
gian mà khơng có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa
được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án hoặc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm
hữu”.
Gia đình bà Vân có thể đã bắt đầu ở là vào năm 1968, từ đấy đến thời điểm khởi
kiện là năm 2004, tức là đã 36 năm liên tục. Trong 36 năm đấy phía ngun đơn có khai
kiện địi nhà nhưng do khơng có tài liệu pháp lý phùhợp để chứng thực, từ đó mà thiếu cơ
sở xác minh tranh chấp giữa hai bên. Như thế, các tình tiết trên đã cho thấy gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngơi nhà liên tục trên 30 năm là khơng có tranh chấp pháp lý. Từ đây

Tồ khẳng định gia đình chị Vân chiếm hữu liên tục nhà đất là hoàn toàn hợp lý.
Câu 4: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tba án kheng định gia đình chị Vân
đf chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30 nam và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về kheng định này của Tba án?
Đoạn mà Toà án đã khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm:
“Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên
tục, cơng khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS về xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối
với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này...”.”
Căn cứ vào Điều 191 BLDS 2005:
“Việc chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách
minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, cơng
dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.”
Và Điều 183 BLDS 2015:

16

download by :


“1. Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch,
không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, cơng dụng và
được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.
2.

Việc chiếm hữu khơng cơng khai khơng được coi là căn cứ để suy đốn về tình


trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 của Bộ luật này.”
Toà án khẳng định như vậy là hồn tồn hợp lý. Trước khi có tranh chấp thì gia
đình bà Vân đã hơn ba mươi năm chiếm hữu ngôi nhà số 2 Hàng Bút đã sử dụng để sinh
sống và sinh hoạt. Đồng thời có sửa chữa và cải tạo, nâng cấp ngôi nhà theo thời gian sử
dụng. Ngôi nhà đã được sử dụng đúng cơng dụng, tính năng và được người chiếm hữu là
gia đình chị Vân bảo quản, giữa gìn như tài sản của mình.
Câu 5: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tba án kheng định cụ Hảo không cbn
là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về kheng định
này của Tba án?
Đoạn mà Tồ án khẳng định cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh
chấp:
“Mặc dù phía ngun đơn khai có địi nhà với gia đình chị Vân từ sau năm 1975
nhưng khơng có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hồ giải tại Uỷ ban nhân dân phường
Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tồ án u cầu chị
Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì thực tế cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất nêu
trên.”
Việc Tịa án khẳng định cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp dựa
vào lời khai của nguyên đơn và bị đơn là chưa thuyết phục, vì những lý do sau:
Thứ nhất, nhà số Hàng Bút, quận Hồn Kiếm, Hà Nội có bằng khốn điền thổ số
25, tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày 4/1/1946. Dù cụ Hảo có vào Nam
sinh sống nhưng vẫn chưa từ bỏ quyền sở hữu đối với căn nhà đó, khơng có chứng minh
nào cho thấy cụ khơng cịn là chủ sở hữu căn nhà.
Thứ hai, năm 2004, cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản số 2 Hàng Bút cho
bà Nguyễn Thị Châu tồn quyền sở hữu (di chúc có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Kim
Chung). Di chúc có xác nhận của UBND xã là di chúc hợp pháp theo quy định của
17

download by :



Điều 655 BLDS 1995. Tại điểm b khoản 1 Điều 655 BLDS 1995 quy định nội dung không
trái pháp luật, hình thức di chúc khơng trái quy định của pháp luật.
Thứ ba, việc chị Vân bán căn nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng anh Sơn chị Lan là
không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành tại thời điểm bấy giờ. Cụ thể, Điều
433 BLDS 1995 quy định: “Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có
chứng nhận của Cơng chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền”. Giấy mua bán nhà giữa chị Vân và vợ chồng anh Sơn, chị Lan khơng hề có
xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nên khơng có giá trị về mặt pháp lý.

Câu 6: Theo anh/chị, gia đình chị Vân có đ[gc xác lập quyền sở hữu đối v\i nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu h[ởng quyền khơng? Vì sao?
Căn cứ theo các điều kiện xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì chị Vân được xác
lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng
quyền.
Theo Điều 236 BLDS 2015: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn 10 năm đối với động
sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt
đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Gia đình chị Vân đã ở tại nhà đất có tranh chấp trên từ năm 1954 đến năm 2004
(thời điểm cụ Hảo đưa khởi kiện ra Tồ u cầu chị Vân trả nhà) thì đã được 50 năm. Vì
vậy, theo quy định thì chị Vân đã chiếm hữu bất động sản trên 30 năm nên trở thành chủ
sở hữu của tài sản này nên gia đình chị được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh
chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền.
*Chuyển rủi ro đối với tài sản

18

download by :



Tóm tắt tình huống: Bà Dung có mua của bà Thuỷ 01 ghe xoài trị giá 16.476.250 đồng.
Tuy nhiên ghe xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hàng và bà Dung từ
chối thanh toán tiền mua với lý do đây là chuyện rủi ro.
Câu 1: Ai phải chịu rủi ro đối v\i tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Căn cứ vào Điều 162 BLDS 2015:
“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc chủ sở hữu của mình, trừ trường
hợp có thoả thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2.

Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi

quyền của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ luật
này, luạt khác có liên quan quy định khác.”
Như vậy, người phải chịu rủi ro đối với tài sản là chủ sở hữu và chủ thể có quyền
khác đối với tài sản trong phạm vi 41của mình.
Câu 2: Tại thời đidm cháy chg, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Căn cứ vào Điều 161 BLDS
“1. Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo quy
định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường hợp luật khơng có quy định thì thực
hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật không quy định và các bên không có
thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài
sản được chuyển giao.
Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện
hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.
2.

Trường hợp tài sản chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa


lợi, lợi tức thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Và Điều 441 BLDS 2015:
“1. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên
mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc luật có quy định khác.
19

download by :


2.

Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký

quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu
rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Tại thời điểm cháy chợ thì bà Dung đã nhận ghe xồi trước khi cháy. Hơn nữa, bà Dung và
bà Thuỷ chưa có thoả thuận giữa các bên về vấn đề rủi ro và luật cũng đã quy định tại
Điều 116 BLDS “trường hợp luật khơng quy định và các bên khơng có thỏa thuận thì thời
điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển
giao.” Thế nên bà Dung là chủ sở hữu của ghe xoài tại thời điểm cháy chợ.
Câu 3: Bà Dung có phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên khơng? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Căn cứ tại khoản 1 Điều 162 BLDS:
“1. Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện
theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường hợp luật khơng có quy định
thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật khơng quy định và các bên
khơng có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời
điểm tài sản được chuyển giao.
Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện

hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.”
Và Điều 440 BLDS 2015:
“1. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được
quy định trong hợp đồng.
2.

Trường hợp các bên chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản thì thời hạn thanh

tốn tiền cũng được xác định tương ứng với thời hạn giao tài sản. Nếu các bên khơng có
thỏa thuận về thời hạn giao tài sản và thời hạn thanh tốn tiền thì bên mua phải thanh toán
tiền tại thời điểm nhận tài sản.

20

download by :


3.

Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi trên

số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này.”
Bà Dung phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên bởi vì bà Dung đã nhận hàng và
việc chuyển giao đã hoàn tất. Thế nên bà Dung là chủ sở hữu ghe xoài trước khi sự cố
cháy chợ và phải chịu hoàn toàn rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT:
1. Bộ luật Dân sự số: 33/2005/QH11 ngày 14/6/2005 của Quốc hội.
2. Bộ luật Dân sự số: 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015 của Quốc hội.

B.TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT:
I. Giáo trình.
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Pháp luật về tài
sản, quyền sở hữu tài sản và thừa kế, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam. Thành phố
Hồ Chí Minh.
II.
1.

Báo/Tạp chí.
Nguyễn Minh Oanh, “Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí

Luật học số 1/2009.
2.

Đỗ Thành Cơng, “Vai trị của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề

kiện đòi giấy chứng quyền sử dụng đất”, in Đỗ Văn Đại (chủ biên).
21

download by :


22

download by :



×