Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận môn quản lý cán bộ vấn đề nắm bắt dư luận xã hội trong quá trình quản lý của cán bộ chủ chốt cấp huyện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.16 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Dư luận xã hội là một loại thiết chế xã hội đặc biệt với nghĩa là dư luận xã
hội bao gồm cả các bộ máy tổ chức truyền thông đại chúng với các quy định liên
quan. Dư luận xã hội có khả năng tạo ra những hệ giá trị, những quy tắc và những
chuẩn mực có thể tạo dựng, kiến tạo, củng cố, duy trì, ủng hộ, phê phán, xoá bỏ
những hệ giá trị, quy tắc và chuẩn mực cũ lạc hậu lỗi thời. Cán bộ lãnh đạo quản lý
cần có kỹ năng khai thác đồng thời hai loại khả năng này, đặc biệt là khả năng kiến
tạo xã hội của dư luận xã hội. Trong công cuộc đổi mới hiện nay cần tạo ra dư luận
xã hội nhằm thực hiện mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Dư luận xã hội là nguồn thông tin công cộng rất cần cho việc phát
hiện vấn đề và những phương án giải quyết vấn đề.
Nói về vai trò của Dư luận xã hội trong hoạt động quản lý, V.I. Lênin chỉ rõ:
“chúng ta chỉ có thể lãnh đạo tốt nếu chúng ta biết thể hiện chính xác những gì mà
nhân dân lo nghĩ’ Như vậy, dù muốn hay khơng muốn, phần lớn các chính trị gia,
các nhà nghiên cứu triết học đều nhận thấy vai trò hết sức quan trọng của DLXH
trong việc quản lý, điều hành xã hội. Theo chuyên gia phân tích về quản trị truyền
thông, trong điều kiện Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước của
dân, do dân và vì dân nên cần nhận thức và sử dụng có hiệu quả dư luận xã hội với
tính chất như là một cơng cụ đặc biệt của q trình lãnh đạo, quản lý đất nước.
Hiện nay, kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội của cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các địa
phương, đặc biệt là cấp huyện cần được coi là một tiêu chuẩn cần thiết để đánh giá
năng lực lãnh đạo, quản lý. Thậm chí, việc quan tâm, tiếp cận và nắm bắt dư luận
xã hội thực chất là thước đo về mức độ “gần dân, bám sát thực tiễn” của cán bộ.
Xuất phát từ vai trò hết sức quan trọng của dư luận xã hội trong lãnh đạo,
quản lý, nên tôi đã chọn “Vấn đề nắm bắt dư luận xã hội trong quá trình quản lý
của cán bộ chủ chốt cấp huyện hiện nay”, làm bài thu hoạch hết môn.


NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận về Dư luận xã hội với lãnh đạo, quản lý
1.1. Định nghĩa xã hội học về dư luận xã hội


Thuật ngữ: Dư luận xã hội là từ ghép của Public Opinion, trong đó Public có
nghĩa là cơng chúng, cơng cộng, cơng khai và Opinion có nghĩa là kiến, quan
niệm, quan điểm của cá nhân, đám đông, công chúng. Dư luận xã hội được hiểu là
ý kiến chung của đám đông, của dân chúng, của xã hội và trong nhiều trường hợp
dư luận xã hội là ý kiến của nhân dân.
Trong đời sống xã hội, dư luận xã hội là tiếng nói cơng khai của quần chúng
nhân dân về những vấn đề công cộng. Trong xã hội phân chia thành giai cấp thống
trị và giai cấp bị trị thì tiếng nói của nhân dân bao giờ cũng là tiếng nói ngợi ca cái
đẹp, chân, thiện, mỹ và phê phán cái xấu, cái ác và bảo vệ lợi ích của nhân dân
chống lại lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy, mặc dù dư luận xã hội đã tồn tại rất
sớm và rất lâu trong lịch sử xã hội loài người, nhưng mãi đến thế kỷ của ánh sáng
khoa học, của cách mạng công nghiệp nó mới trở thành đối tượng nghiên cứu khoa
học.
Dưới góc độ triết học mác xít, dư luận xã hội là một bộ phận của ý thức xã
hội phản ánh thực tại xã hội. Luận điểm triết học này cho thấy nguồn gốc của dư
luận xã hội là cuộc sống thực của con người, là hành vi, hoạt động của những con
người đang sống, lao động và sinh hoạt. Dư luận xã hội phản ánh những gì xảy ra
trong đời sống thực. Do đó, có thể nói tồn bộ nội dung phản ánh của dư luận xã
hội đều bắt nguồn từ thực tiễn. Tuy nhiên, là một hình thức phản ánh xã hội, dư
luận xã hội có thể sao lại, chụp lại những gì có thật một cách sống động hoặc sơ
cứng, một cách tích cực hoặc tiêu cực, một cách chủ động hoặc thụ động và có thể
tồn diện đầy đủ hoặc phiến diện, thiếu sót, có thể đúng hoặc có thể sai. Điều này
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà các khoa học cụ thể như kinh tế học, tâm lý học
và xã hội học quan tâm nghiên cứu.


Dưới góc độ kinh tế học, dư luận xã hội là hiện tượng thuộc về thị hiếu, nhu
cầu của các khách hàng đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định. Quan niệm
kinh tế học cho thấy rõ mấy điểm rất quan trọng sau đây: thứ nhất dư luận xã hội
có chủ thể, đó là nhóm khách hàng, thứ hai dư luận xã hội có đối tượng, đó là

những đặc điểm, tính chất của hàng hố, dịch vụ nhất định và thứ ba, dư luận xã
hội biểu hiện dưới hình thức của những trạng thái nhu cầu, thị hiếu và cả xu hướng
tiếp cận, kiểm soát và sử dụng những loại hàng hoá, dịch vụ nhất định. Điều này
mở ra hướng nghiên cứu thực nghiệm về dư luận xã hội trong lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh. Rất nhiều công ty và tổ chức doanh nghiệp thường xuyên tổ chức tiến
hành thăm dị dư luận xã hội tức là tìm hiểu thị hiếu khách hàng. Có thể nói dư
luận xã hội là một bộ phận không thể thiếu của nghiên cứu thị trường và
marketing.
Dưới góc độ tâm lý học, dư luận xã hội là trạng thái tâm lý phản ánh tâm tư,
nguyện vọng, thái độ và tình cảm của các nhân đối với những gì đang trực tiếp tác
động tới họ. Định nghĩa tâm lý học này nhấn mạnh các khía cạnh tâm lý cá nhân
của dư luận xã hội. Đối với xã hội học, cần ghi nhận mặt mạnh này của quan niệm
tâm lý học về dư luận xã hội nhưng cũng rất cần chú ý một điều cơ bản là dư luận
xã hội không phải là tổng hợp các ý kiến của từng cá nhân. Mà đối với xã hội học,
dư luận xã hội là ý kiến được nhiều người chia sẻ, đồng tình và cùng bày tỏ. Từ
quan niệm của tâm lý học đặt ra một câu hỏi rất quan trọng đòi hỏi xã hội học phải
trả lời, đó là làm thế nào mà một ý kiến của một cá nhân lại trở thành dư luận xã
hội?
Các cách tiếp cận khoa học khác nhau về dư luận xã hội đều thống nhất với
nhau ở một điểm cơ bản là: ngay cả khi dư luận xã hội đã chiếm vị trí nhất định
trong đối tượng nghiên cứu khoa học, nhưng dư luận xã hội vẫn có cuộc sống riêng
của nó, tức là nó có bản chất, vai trị và những quy luật riêng mà khoa học có mục
tiêu tìm tịi, nghiên cứu và phát hiện để có thể vận dụng trong thực tiễn.


Tuy nhiên, khoa học về dư luận không trực tiếp tạo ra dư luận, nó chỉ có thể
soi sáng dư luận, làm cho dư luận ý thức được mình hơn. Các tri thức khoa học có
thể được vận dụng vào để suy nghĩ, tìm tịi, phát hiện ra các biện pháp định hướng
hay điều tiết dư luận xã hội. Các cán bộ lãnh đạo, quản lý có thể dựa vào những
hiểu biết khoa học về dư luận xã hội để sử dụng dư luận xã hội làm công cụ tác

động vào các quá trình, hiện tượng xã hội nhằm đạt được mục tiêu xác định.
Quan niệm xã hội học về dư luận xã hội: Có thể tổng tích hợp các quan niệm
nêu trên để đưa ra định nghĩa xã hội học về dư luận xã hội như sau:
Dư luận xã hội là hiện tượng xã hội đặc biệt gồm phức thể các ý kiến phán
xét, đánh giá biểu thị quan niệm, thái độ và xu hướng hành động của nhóm xã hội
đối với những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của họ.
Dư luận xã hội không nhất thiết xuất hiện một cách trực tiếp từ các bằng
chứng, các sự vật hay sự kiện xã hội mà dựa vào sự hiểu biết, niềm tin, tình cảm và
nguyện vọng đối với những sự vật, hiện tượng xã hội. dư luận xã hội là sản phẩm
của các quá trình tâm lý-xã hội phức tạp của nhóm người, là sản phẩm của q
trình trao đổi, thảo luận trong xã hội.
Quan niệm xã hội học về dư luận xã hội là cơ sở cho khoa học và nghệ thuật
lãnh đạo, quản lý dư luận xã hội.Cán bộ lãnh đạo quản lý cần đối xử với dư luận xã
hội một cách khách quan, khoa học với nghĩa là phải nhìn thẳng vào sự thật rằng
cuộc sống có nhiều vấn đề và mỗi một nhóm người (cán bộ cơng nhân viên trong
và ngồi cơ quan và các nhóm xã hội khác nhau) đều có quyền và trách nhiệm bày
tỏ ý kiến của mình.
Một mặt, ý kiến của lãnh đạo, quản lý chỉ là một loại ý kiến (của cá nhân
hay tập thể) và nó chỉ có thể trở thành dư luận xã hội khi được nhóm xã hội nhất
định chia sẻ, đồng tình, ủng hộ.
Mặt khác, ý kiến của lãnh đạo, quản lý cũng là đối tượng của dư luận xã hội:
mọi người có quyền và trách nhiệm phán xét, khen chê cả ý kiến của lãnh đạo quản


lý! Do đó lãnh đạo quản lý cần có cách nghe (dựa vào các điều tra, nghiên cứu
khoa học ) để nắm bắt dư luận xã hội và nghệ thuật lắng nghe (kỹ năng kiềm chế
cảm xúc để khơng khó chịu khi nghe thấy điều nói thật, nói thẳng).
Để có thể sử dụng được dư luận xã hội làm công cụ quản lý xã hội cần hiểu
rõ các thành phần và cấu trúc của dư luận xã hội.
1.2. Thành phần và cấu trúc của Dư luận xã hội

Thành phần của dư luận xã hội
Mặc dù các hình thức biểu hiện của dư luận xã hội rất phong phú, đa dạng và
phức tạp, nhưng vẫn có thể phát hiện ra được ba thành phần cơ bản của dư luận xã
hội. Đó là: (i) thành phần nhận thức bao gồm tri thức, hiểu biết, thông tin, giao
tiếp. Với thành phần này dư luận xã hội ln có khả năng cho ta biết chuyện gì xảy
ra, sự kiện gì diễn ra. (ii) thành phần thái độ bao gồm các trạng thái xúc cảm, cảm
xúc, tình cảm, các nhu cầu, động cơ, tâm tư, nguyện vọng. Với thành phần này dư
luận xã hội luôn bao hàm tình cảm ví dụ như u hay ghét, quan tâm chú ý hay thờ
ơ không chú ý, ủng hộ hay phản đối. (iii) thành phần hành vi biểu hiện ra dưới hình
thức các xu hướng hành động, cư xử, thế ứng xử, sự sẵn sàng hành động theo một
kiểu nhất định nào đó. Với thành phần này dư luận xã hội ln phản ánh xu hướng
hành động ví dụ hành động sẵn sáng bỏ phiếu ủng hộ hay phản đối, sàng sàng lên
tiếng khen ngợi hay phê phán.
Việc phân biệt và nắm chắc ba thành phần này của dư luận xã hội là
rất cần thiết và quan trọng đối với lãnh đạo, quản lý. Bởi vì nắm bắt được thơng tin
hay nghe người khác nói ra một điều gì đó, ví dụ “nhất trí, đồng ý” là cần thiết
nhưng chưa đủ. Cần phải quan sát để hiểu thái độ gắn với câu nói đó là gì? và thực
chất xu hướng hành động gắn liền với thơng tin đó là gì, họ sẽ ủng hộ hay sẽ phản
đối. Nếu không nắm chắc cả ba thành phần của dư luận xã hội, rất có thể lãnh đạo
quản lý chỉ đạt được ý kiến, lời nói sng, lời hứa hẹn mà trên thực tế công việc lại
khác hẳn. Ngay cả khi đạt lãnh đạo, quản lý tạo được thái độ tôn trọng từ cấp dưới


hay của người dân thì như thế có lẽ vẫn chưa đủ. Bởi vì vấn đề là hành động, cấp
dưới hay người dân có sẵn sàng nghe theo và làm theo với với năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao hơn không. Lãnh đạo, quản lý không chỉ cần lời nói ủng hộ,
thái độ ủng hộ mà rất cần những công việc được thực hiện, những việc làm thiết
thực để biến lời nói và thái độ thành hiện thực.
Cấu trúc của dư luận xã hội
Trên cấp độ vi mô, các thành phần của dư luận xã hội có cấu trúc phức tạp

gồm các mối liên hệ biện chứng như sau. Dư luận xã hội có thành phần cấu trúc
bên trong gồm sự hiểu biết, thái độ và xu hướng hành động. Các thành phần này có
mối liên hệ quy định lẫn nhau: từ tình cảm đến hành động, từ nhận thức đến hành
vi và ngược lại tạo thành một chỉnh thể có tính hệ thống.
Các mối liên hệ của ba thành phần này có xu hướng tạo thành phức thể
thống nhất của của các yếu tố có thể mâu thuẫn, đối lập nhau, ví dụ, mâu thuẫn
giữa lời nói và việc làm, giữa suy nghĩ và tình cảm. Xét từ góc độ tâm lý cá nhân,
con người ln tìm mọi cách để thiết lập mối quan hệ thống nhất, dung hoà lẫn
nhau giữa yếu tố nhận thức, thái độ và hành vi của bản thân để tránh sự mất cân
bằng tâm lý. Các nhà khoa học đã phát hiện ra nhiều cơ chế tự vệ tâm lý có khả
năng thiết lập trạng thái cân bằng, ổn định, thống nhất của các yếu tố nhận thức,
thái độ và hành vi cá nhân. Từ góc độ nhóm xã hội, dư luận xã hội là hiện tượng xã
hội không tránh khỏi những mâu thuẫn giữa các luồng ý kiến, thái độ và hành vi.
Tuy nhiên, cơ chế đơn giản nhất để đảm bảo sự thống nhất, ổn định, cân bằng của
dư luận xã hội là cơ chế số đông: ý kiến nào được đa số ủng hộ, chia sẻ thì ý kiến
đó chiếm vị thế chủ đạo của dư luận xã hội. Những ý kiến của thiểu số thường chịu
áp lực của số đông và thường phải tồn tại trong im lặng.
Cấu trúc dư luận xã hội luôn tuân theo quy luật cân bằng động, nghĩa là một
yếu tố này thay đổi sẽ kéo theo thay đổi ở các yếu tố còn lại. Theo quy luật này, dư
luận xã hội dễ bị thay đổi do có những thay đổi ở thành phần, yếu tố hành vi. Nói


cash khác, hành động hay việc làm thay đổi thường sẽ kéo thay sự thay đổi ở nhận
thức và cuối cùng là ở tình cảm và tồn bộ dư luận xã hội. Điều này cũng xảy ra
đối với ý kiến của cá nhân.
Sử dụng dư luận xã hội làm công cụ quản lý ở đây có nghĩa là sử dụng các
thành phần của dư luận xã hội: thành phần nhận thức, thành phần thái độ và thành
phần hành vi. Cán bộ lãnh đạo quản lý cần cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ,
kịp thời để nâng cao nhận thức cho các nhóm người tham gia quản lý xã hội. Việc
độc quyền thơng tin, bưng bít thơng tin là yếu tố kích thích tin đồn xuất hiện và

hạn chế các hành vi tham gia quản lý của các bên.
Cần tạo ra thái độ tích cực, tạo ra bầu khơng khí cởi mở, thẳng thắn để tiếp
nhận cái mới, ủng hộ cái mới có như vậy mới có thể thực hiện được hoạt động phù
hợp.
Công cụ dư luận xã hội bao gồm cả yếu tố hành động: cần hướng dẫn cách
làm việc, cần tạo ra các thủ tục tham gia ý kiến, cần tạo ra cơ chế khuyến khích
hành động phù hợp.
Trên cấp độ vĩ mô, dư luận xã hội là ý kiến chung được nhiều người, nhiều
cá nhân, nhiều nhóm xã hội chia sẻ và bày tỏ công khai, tranh luận công khai. Cấu
trúc dư luận xã hội bao giờ cũng chịu sự chi phối của yếu tố lợi ích, vị thế xã hội.
Dư luận xã hội cịn có nghĩa là ý kiến của cơ quan có quyền lực trong xã hội
– công luận đối với vấn đề xã hội được phát biểu công khai về những vấn đề xã
hội. Trên các phương tiện thông tin đại chúng ngày nay vẫn xuất hiện các cụm từ
“Công luận thế giới phản đối chiến tranh” hay “Người phát ngôn Bộ ngoại giao X
tuyên bố”. Đây là loại dư luận xã hội – cơng luận chính thức về những vấn đề nhất
định.
Dư luận xã hội là sự phản ánh chủ quan (bằng nhận thức, thái độ và xu
hướng hành vi) của nhóm người nhất định đối với những vấn đề xã hội. Ví dụ dư
luận xã hội của các tài xế thường xuyên lái xe qua một trạm thu phí BOT nhất định


nào đó. Dư luận xã hội khơng phải là tổng số các ý kiến của cá nhân. Nhưng một ý
kiến của một cá nhân có thể trở thành dư luận xã hội trong những hồn cảnh, tình
huống và điều kiện nhất định. Ví dụ, một ý kiến của một cá nhân nói trúng và nói
đúng tâm tư, nguyện vọng của nhiều người khác, thì ý kiến đó được những người
này chia sẻ, đồng tình và trở thành “dư luận xã hội”.
Lãnh đạo, quản lýdư luận xã hộicó nghĩa là biến ý kiến đúng đắn của một cá
nhân, của một số ít người bao gồm cả ý kiến của bản thân và tập thể lãnh đạo quản
lý thành dư luận xã hội của cả đơn vị, tổ chức để có thể thực hiện. Muốn vậy trước
hết lãnh đạo quản lý phải có ý kiến đúng đắn, thái độ tích cực và hành vi hợp lý.

1.3. Chức năng của dư luận xã hội
Dư luận xã hội xuất hiện để thoả mãn một số nhu cầu quan trọng của xã hội.
Trong số đó có các nhu cầu thơng tin, giao tiếp, đặc biệt là nhu cầu kiểm soát xã
hội, điều chỉnh hành vi, định hướng hoạt động và bày tỏ thái độ, tình cảm của con
người. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra nhiều chức năng của dư luận xã hội như
chức năng nhận thức, giáo dục tư tưởng, kiểm soát, quản lý, dự báo, v.v. Có thể
tóm tắt một số chức năng cơ bản như sau:
Chức năng nhận thức: Dư luận xã hội có chức năng phản ánh thực tại xã hội
với các hiện tượng, sự kiện, vấn đề, quá trình xã hội. Xã hội có nhu cầu nhận biết
và dư luận xã hội có chức năng đáp ứng nhu cầu nâng cao hiểu biết về sự vật, hiện
tượng xảy ra. Nhờ chức năng này mà chỉ cần lắng nghe dư luận xã hội là có thể
biết được chuyện gì, vấn đề gì đang được xã hội quan quan tâm, chú ý, bàn luận.
Chức năng định hướng và điều chỉnh hành vi: Chức năng này gắn liền với
chức năng kiểm soát hành vi của con người trong xã hội. Dư luận xã hội kiểu trọng
nam khinh nữ luôn đề cao giá trị con trai nên đã định hướng cho nhiều cặp vợ
chồng sinh con trai. Nhưng nhờ dư luận xã hội bình đẳng giới, coi con gái cũng
như con trai nên đã điều chỉnh hành vi kế hoạch hóa gia đình của các cặp vợ
chồng, cụ thể là không lựa chọn thai nhi theo giới tính.


Chức năng giải toả tâm lý-xã hội: Dư luận xã hội ln phản ánh tâm tư,
nguyện vọng và tình cảm của các các nhân. Do vậy, có thể thơng qua dư luận xã
hội có thể chia sẻ, bày tỏ tình cảm hoặc thể hiện các bức xúc, nhờ vậy mà giải tỏa
tâm lý – xã hội.
Từ các chức năng cơ bản gắn liền với cấu trúc ba thành phần của dư luận xã
hội này có thể phát hiện và khai thác các chức năng khác của dư luận xã hội như
chức năng thực tiễn, chức năng giáo dục tư tưởng, chức năng dự báo của dư luận
xã hội.
1.4. Phân loại và đặc điểm của dư luận xã hội
Phân loại dư luận xã hội

Dựa vào chủ thể của dư luận xã hội có thể phân biệt dư luận xã hội của các
giai tầng xã hội, các nhóm xã hội như dư luận xã hội của cơng nhân, nơng dân, trí
thức hay dư luận xã hội của các tiểu thương.
Dựa vào tính chất kênh truyền tin có thể phân biệt dư luận xã hội chính thức
và dư luận xã hội phi chính thức, dư luận xã hội chính thống và dư luận xã hội phi
chính thống.
Dựa vào các phương tiện truyền thơng đại chúng có thể phân biệt dư luận xã
hội trên các phương tiện truyền thơng chính thức của nhà nước và dư luận xã hội
trên các phương tiện truyền thông của các cá nhân, tổ chức ngồi nhà nước. Ví dụ
dư luận xã hội xuất hiện trên các mạng xã hội qua các trang facebook của các cá
nhân và các tổ chức.
Dựa vào tổ chức có thể phân biệt dư luận xã hội bên trong tổ chức và dư
luận xã hội bên ngồi tổ chức.
Dựa vào phạm vi khơng gian có thể phân biệt dư luận xã hội quốc tế, dư
luận xã hội trong nước, dư luận xã hội địa phương.
Đặc điểm của dư luận xã hội


Dư luận xã hội dưới hình thức nào và thuộc loại nào cũng đều có một số đặc
điểm cơ bản như sau:
Tính cơng chúng: Dư luận xã hội ln ln là ý kiến của cơng chúng có
nghĩa là của nhiều người, đơng người, vơ số người thậm chí là của đại chúng
(mass). Dư luận xã hội có thể xuất phát từ ý kiến của một cá nhân nhưng đó là ý
kiến được nhiều người nghe, chia sẻ, bày tỏ.
Tính cơng khai nói tới hình thức biểu hiện của dư luận xã hội. Dư luận xã
hội luôn luôn là ý kiến được phát biểu, bày tỏ dưới nhiều hình thức khác nhau cho
nhiều người, đông người, công chúng cùng biết. Theo lý thuyết “vịng xốy của sự
im lặng” của Elisabeth Noelle – Neumann đưa ra năm 1972, dư luận xã hội có thể
được hiểu là ý kiến được nói cơng khai mà khơng sợ bị trừng phạt.
Tính trao đổi nói tới cơ chế nảy sinh, vận hành của dư luận xã hội .Thơng

qua sự tương tác, trao đổi thơng tin, tình cảm mà dư luận xã hội được hình thành,
biểu hiện và thực hiện các chức năng của nó. Trao đổi là cho dư luận xã hội lan
truyền từ người này sang người khác, từ nhóm này sang nhóm khác, từ nơi này
sang nơi khác. Trao đổi làm cho dư luận xã hội có thể bị biến đổi, bị thêm bớt, bị
phân hóa và có thể bị tan biến.
Tính lợi ích nói tới bản chất, nội dung và ý nghĩa của dư luận xã hội. Dư
luận xã hội luôn luôn phản ánh lợi ích của cá nhân, nhóm xã hội. Dư luận xã hội
đồng thời là một hình thức, cách thức, hình thức, phương tiện, cơng cụ để bảo vệ
lợi ích của nhóm người trong xã hội.
Tính thống nhất và mâu thuẫn: Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến,
các loại trạng thái và các xu hướng hành động khác nhau, mâu thuẫn nhau hoặc đối
lập nhau của các nhóm xã hội. Ví dụ, có thể tìm thấy trong bất kỳ một dư luận xã
hội nào các luồng ý kiến đồng tình và phản đối, quan tâm và thờ ơ, yêu – ghét và
giữa hai luồng ý kiến mâu thuẫn này là luồng ý kiến trung gian, “ba phải”, trung
dung.


Các đặc điểm, tính chất khác: dư luận xã hội có nhiều đặc điểm, tính chất
khác như tính biến đổi ví dụ dư luận xã hội có thể nhanh chóng biến đổi từ chỗ đa
số phản đối sang đa số ủng hộ. Đồng thời dư luận xã hội có tính ỳ rất lớn thể hiện ở
chỗ chậm thay đổi ví dụ dư luận xã hội về vị thế giới, vai trò giới.
1.5. Phương pháp nắm bắt và điều tra dư luận xã hội
Phương pháp nắm bắt dư luận xã hội
Đây là phương pháp tiếp cận, tìm hiểu, lắng nghe dư luận xã hội của quần
chúng nhân dân và dư luận xã hội của cán bộ, đảng viên. Mỗi người mỗi ý và có
thể có nhiều ý kiến khác nhau, do vậy cần biết cách thu thập, tập trung các ý kiến
và phân tích, so sánh để rút ra những ý kiến đúng đắn để có thể đưa ra quyết định
giải quyết vấn đề. Phương pháp nắm bắt dư luận xã hội này được Hồ Chí Minh nêu
rõ và gồm các bước cụ thể như sau: (i) Thu thập các loại ý kiến của các tầng lớp xã
hội khác nhau về những vấn đề nhất định, (ii) So sánh kỹ, phân tích kỹ các nội

dung của các loại ý kiến thu được, (iii) Phát hiện ra mâu thuẫn trong các ý kiến,
Phân biệt cái đúng và cái sai trong các ý kiến, Lựa chọn ý kiến đúng trong số các ý
kiến đã có, (iv) Đem ý kiến đúng đã được lựa chọn cho người dân bàn bạc, so sánh
và giải quyết vấn đề. Trong các bước nắm bắt dư luận xã hội, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh bước cuối cùng rất quan trọng mang tính thực tiễn rất cao, đó là “Đem ý kiến
đúng đã được lựa chọn đến với người dân để họ so sánh, bàn bạc, lựa chọn lại”.
Điều đó, có nghĩa là, nắm bắt được dư luận xã hội vẫn chưa đủ, điều cần thiết là
phải làm cho dân giác ngộ và tham gia bày tỏ ý kiến, bàn bạc, lựa chọn, quyết
định, và thực hiện.
Trên thực tế phương pháp nắm bắt dư luận xã hội có thể được thực hiện
thông qua việc tiếp xúc, gặp gỡ và hỏi chuyện các cá nhân có liên quan. Trong
trường hợp này tốt nhất là nên tìm gặp những người thạo tin, những “thủ lĩnh dư
luận xã hội” ở cơ quan, tổ chức, cộng đồng. Trong thời đại công nghệ thông tin
hiện nay, việc nắm bắt thơng tin có thể được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả


thông qua việc tiếp cận các phương tiện truyền thông đại chúng như nghe đài, xem
tivi, đọc báo chí và lướt mạng, truy cập các trang tin và tìm thơng tin đại chúng.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng không phải dễ dàng bởi có q nhiều thơng tin
đại chúng để có thể tìm chọn được thơng tin cần thiết.
Phương pháp điều tra dư luận xã hội
Đây là phương pháp điều tra xã hội học được áp dụng để thu thập, xử lý và
phân tích các ý kiến cá nhân nhằm làm rõ dư luận xã hội về những vấn đề nhất
định cần phải giải quyết.
Phương pháp điều tra dư luận xã hội, một mặt, đòi hỏi phải áp dụng tất cả
các quy tắc, các bước và các kỹ thuật điều tra xã hội học. Cụ thể là cần xác định rõ
vấn đề cần điều tra, xây dựng giả thuyết khoa học, chọn mẫu, chọn phương pháp
và xây dựng công cụ thu thập dữ liệu, thực hiện việc thu thập dữ liệu, xử lý và
phân tích các dữ liệu thu được, viết báo cáo và công bố kết quả điều tra.
Mặt khác, phương pháp điều tra dư luận xã hội đòi hỏi phải tính đến đặc thù

của mục tiêu và đối tượng điều tra về dư luận xã hội. Điều này thể hiện rõ qua các
loại câu hỏi được dùng để điều tra dư luận xã hội. Ví dụ, có thể đặt câu hỏi xem
người trả lời đồng ý hay không đồng ý, ủng hộ hay không ủng hộ đến mức nào đối
với một chính sách, một quyết định nhất định nào đó.
Một đặc trưng cơ bản của điều tra dư luận xã hội là kết quả của điều tra chủ
yếu nói về ý kiến đối với một sự vật, hiện tượng nhất định chứ không phải kết quả
về sự vật, hiện tượng đó. Ví dụ, một kết quả điều tra dư luận xã hội về phòng,
chống HIV/AIDS ở một xã nào đó cho biết có đến 80% số người trả lời “có thái độ
kỳ thị, phân biệt đối xử với người sống chung với HIV/AIDS” thì điều này cũng
khơng có nghĩa là xã đó có nhiều hay ít người sống chung với HIV/AIDS. Lãnh
đạo, quản lý cần tham khảo các kết quả điều tra dư luận xã hội về vấn đề nhất định
nào đó để có thể tìm ra biện pháp cụ thể khuyến khích luồng ý kiến tích cực và
kiềm chế luồng ý kiến tiêu cực. Ví dụ dựa vào kết quả điều tra vừa nêu có thể cần


đặt ra vấn đề lãnh đạo, quản lý sao cho có thể giảm bớt tình trạng kỳ thị, phân biệt
đối xử với người sống chung với HIV/AIDS ở địa phương.
2. Nắm bắt dư luận xã hội trong quá trình quản lý của cán bộ chủ chốt
cấp huyện hiện nay
2.1. Thực trạng việc nắm bắt dư luận xã hội trong hoạt động lãnh đạo,
quản lý cấp huyện
Theo các chuyên gia về quản trị truyền thông quốc tế, sự bùng nổ của
internet, mạng xã hội và các phương tiện thông tin điện tử trực tuyến ngày càng
mạnh mẽ đặt ra yêu cầu cần quan tâm phù hợp và nghiên cứu kỹ lưỡng đối với dư
luận xã hội nhằm phục vụ cho công tác quản lý, lãnh đạo, điều hành của đất nước.
Tại Việt Nam, trong những năm qua, vấn đề dư luận xã hội cũng đã nhận
được nhiều sự quan tâm, song chưa thực sự trở thành một cơng cụ chính thức trong
hoạt động lãnh đạo, quản lý. Thực tế trong hoạt động lãnh đạo, quản lý điều hành ở
Việt Nam hiện đang tồn tại hai thái cực:
Thứ nhất, cán bộ lãnh đạo quản lý, đặc biệt là cán bộ, quản lý cấp huyện đôi

khi thờ ơ, vô cảm trước dư luận xã hội.
Thứ hai, đôi khi chạy theo dư luận xã hội mà khơng phân tích, đánh giá đúng
bản chất của vấn đề. Từ đó, cán bộ quản lý khơng đưa ra được quyết định lãnh đạo
hoặc quản lý đúng đắn, kịp thời.
Theo một số kết quả nghiên cứu của Viện Dư luận Xã hội, việc nắm bắt dư
luận xã hội của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cấp huyện hiện đang
được thực hiện thơng qua các kênh khác nhau. Chẳng hạn, nắm bắt dư luận xã hội
thông qua phản ánh của hệ thống mạng lưới cộng tác viên; qua báo cáo nhanh
(thường là báo cáo hằng tuần); thông qua các cuộc họp, tiếp xúc quần chúng, cử
tri; qua tiếp cận bằng sự trải nghiệm của cá nhân, nhất là dùng các phương pháp
điều tra xã hội học...


Tuy nhiên, phần lớn cán bộ, quản lý chưa được đào tạo một cách bài bản về
những kiến thức, kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội, do vậy, mức độ hiểu biết về dư
luận xã hội của phần lớn cán bộ đang ở mức độ bình thường. Chẳng hạn, tại 9 chỉ
báo mà tác giả nghiên cứu nhằm đo lường mức độ hiểu biết của cán bộ lãnh đạo,
quản lý về dư luận xã hội, phần lớn các ý kiến khẳng định có mức độ hiểu biết và
kiến thức về dư luận xã hội ở mức độ bình thường, với tỷ lệ ý kiến khẳng định từ
40% đến 55,2%.
Ví dụ, 55,2% có hiểu biết ở mức độ bình thường về các yếu tố ảnh hưởng
đến dư luận xã hội; các quan điểm tiếp cận về dư luận xã hội (55,0%); các kênh
tiếp cận nắm bắt dư luận xã hội (54,6%)...
Trong bối cảnh hiện nay, việc cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là
cấp huyện có quan tâm và có kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội cần phải được xem
là một tiêu chuẩn cần thiết để đánh giá năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ.
Trong khi đó, tỷ lệ ý kiến khẳng định mức độ hiểu biết tốt về dư luận xã hội
còn rất thấp (từ 6,7% đến 36,2%).Chẳng hạn, có 36,2% cán bộ cho biết họ có nhận
thức tốt về vai trị của dư luận xã hội trong lãnh đạo, quản lý; Có 35,8% số cán bộ
cho biết có nhận thức tốt về nội dung, bản chất của dư luận xã hội;



Chỉ có 6,7% số cán bộ cho biết họ có hiểu biết tốt về giải pháp nâng cao vai
trò của dư luận xã hội trong lãnh đạo, quản lý. Ngoài ra, số liệu khảo sát còn cho
biết, nhiều vấn đề, nội dung liên quan đến dư luận xã hội vẫn cịn có tới 10% ý
kiến khẳng định: Chưa hề được tiếp cận (Bảng 1).
Trong bối cảnh hiện nay, việc cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là
cấp huyện có quan tâm và có kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội cần phải được xem là
một tiêu chuẩn cần thiết để đánh giá năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ. Bởi vì,
quan tâm, tiếp cận và nắm bắt dư luận xã hội thực chất thước đo về mức độ “gần
dân”, “bám sát thực tiễn” của cán bộ.
Khơng những vậy, nó cịn thể hiện vấn đề dân chủ hóa, cũng như điều kiện
góp phần cho các chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ngày
càng đi vào cuộc sống hơn. Với tư cách là chủ thể quản lý, cán bộ quản lý cấp
huyện phải thực hiện chức năng mà bất cứ người quản lý nào cũng phải làm đó là
thực hiện các chức năng chỉ dẫn hoạt động như: lập kế hoạch, ra quyết định, tổ
chức thực hiện quyết định và kiểm tra, kiểm soát thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch
về lĩnh vực quản lý do mình phụ trách.
Cán bộ quản lý cấp huyện là người quản lý cấp trung gian, là cầu nối từ cấp
Trung ương, qua tỉnh tới cấp xã, tạo nên một bộ máy lãnh đạo liên tục, nhất quán
trong bộ máy hành chính. Cán bộ quản lý cấp huyện cũng góp phần triển khai các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với từng người dân và ngược lại,
mọi nguyện vọng của nhân dân đều được họ tiếp thu, xử lý và phản ánh kịp thời
lên cơ quan quản lý cấp trên.
2.2. Nhận xét, đánh giá việc nắm bắt dư luận xã hội trong quá trình lãnh
đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt
Thực tiễn cho thấy, hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp huyện mang tính chất
rất phức tạp, chuyên biệt do chính vị trí, chức năng và điều kiện thực tiễn địa
phương quy định bởi đặc điểm của đối tượng quản lý với các ngành nghề khác



nhau (nông, lâm, ngư nghiệp..); các vấn đề nhân sự và nguồn nhân lực địa
phương…
Trên thực tế, không một người cán bộ quản lý nào lại có thể chuẩn bị sẵn và
đầy đủ các phương án để giải quyết mọi tình huống phát sinh đó. Vì vậy, địi hỏi
người cán bộ quản lý chủ chốt cấp huyện phải có sự nhạy bén, sáng tạo, quyết đốn
trong những hồn cảnh cụ thể để đưa ra quyết định lãnh đạo đúng đắn, phù hợp với
quy định của pháp luật.
Dư luận xã hội giúp người cán bộ, lãnh đạo địa phương phát hiện những
khiếm khuyết, bất cập, kẽ hở trong đường lối chính sách pháp luật, trên cơ sở đó,
đưa ra những khuyến cáo với các cơ quan chức năng để bổ sung, hồn thiện hoặc
điều chỉnh. Thơng qua kết quả điều tra dư luận xã hội, cán bộ quản lý sẽ biết được
người dân suy nghĩ và phản ứng như thế nào trước những quyết sách hoặc những
trăn trở, băn khoăn của người dân trước những vấn đề của địa phương hay của
quốc gia…
Đặc biệt, việc nghiên cứu dư luận xã hội còn giúp nhà quản lý, lãnh đạo phát
hiện và giải quyết các điểm nóng, giải tỏa những căng thẳng xung đột xã hội tiềm
tàng. Thông qua việc tham khảo dư luận xã hội, những nhà hoạch định chính sách
sẽ tìm kiếm cách trung hòa ý nguyện của người dân với những mục tiêu chính sách
của Nhà nước, hoặc ít nhất họ cũng tính đến dư luận xã hội trong những hoạch
định chính sách của họ, từ đó họ cố gắng tránh những quyết định mà họ tin rằng sẽ
nhận được sự phản đối mạnh mẽ từ phía dư luận xã hội.


KẾT LUẬN
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân,
do dân và vì dân, do vậy càng phải nhận thức và sử dụng có hiệu quả dư luận xã
hội với tính chất như là một cơng cụ đặc biệt của q trình lãnh đạo, quản lý đất
nước.
Việc quan tâm nắm bắt và sử dụng dư luận xã hội một cách thường xuyên và

thấu đáo trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình chính là một phương thức tốt
nhất để phát huy cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”
trong thực tế ở từng cơ quan, địa phương. Việc thực hiện thường xuyên các cuộc
điều tra dư luận xã hội của Đảng, Quốc hội Việt Nam cũng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc tăng cường dân chủ và trong việc tạo điều kiện cho người
dân có thể tham gia ý kiến vào những vấn đề quan trọng của đất nước.
Chính những văn bản pháp luật, chính sách được hình thành từ những ý
nguyện của người dân sẽ có khả năng áp dụng vào thực tiễn cao nhất. Điều đó
cũng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan công quyền ở Việt
Nam, đặc biệt là cấp huyện. Sự phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội của người dân
sẽ giúp các người lãnh đạo, quản lý kịp thời phát hiện những sơ hở, hạn chế, yếu
kém trong công tác lãnh đạo, quản lý của mình, trên cơ sở đó, kịp thời đề ra các
giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả hơn trong việc đưa ra các quyết định điều
hành của cán bộ, quản lý tại địa phương./


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Anh (2012), “Vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở
trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội;
2. Ban Tư tưởng- Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa- Thơng tin, Hội Nhà báo
Việt Nam (2002), Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa
VIII) về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
3. Chuyên đề 3: Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng với lãnh đạo,
quản lý, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
4. Lê Ngọc Hùng (2004), Xã hội học hành chính: Nghiên cứu giao tiếp và dư
luận xã hội trong cải cách hành chính, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội;
5. Đinh Xuân Lý (2010), Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở
nước ta thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6.Tài liệu tập huấn nghiệp vụ Dư luận xã hội, Viện nghiên cứu Dư luận xã
hội.
7. Nguyễn Thị Ưng (2016), “Vấn đề nắm bắt dư luận xã hội trong quá trình
quản lý của cán bộ chủ chốt”, Tạp chí Tài chính kỳ II tháng 9/2016;



×