Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.8 KB, 12 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3

Từ viết đầy đủ
Chủ nghĩa xã hội
Tư bản chủ nghĩa
Xã hội chủ nghĩa

Từ viết tắt
CNXH
TBCN
XHCN


2
Phần 1. MỞ ĐẦU
Vào những năm 40 của thế kỷ của thế kỷ XIX, trên cơ sở kế thừa thành
tựu nhận thức khoa học của lịch sử tư tưởng nhân loại, bằng việc phát hiện ra
những quy luật khách quan của sự vận động, biến đổi của toàn bộ thế giới vật
chất và lịch sử loài người, một học thuyết vĩ đại về sự giải phóng và phát triển
con người đã ra đời, chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ toàn thế giới
những con đường và biện pháp hiện thực để tự giải phóng khỏi ách áp bức, bóc
lột, bất cơng. Đó là chủ nghĩa Mác - một “công cụ nhận thức vĩ đại”. Sau khi đã
“nắm bắt thời đại bằng tư tưởng”, chủ nghĩa Mác đã thực hiện một cuộc cách
mạng vĩ đại trong nhận thức và cải tạo thế giới bằng việc đặt nền móng lý luận
về một chế độ xã hội mới. Lý luận trên tiếp tục được V.I. Lênin kiểm chứng, kế
thừa, nghiên cứu, sáng tạo và phát triển tạo nên những bước đột phá mới trong
chế độ xã hội loài người. Đó là chế độ XHCN - một chế độ khơng có áp bức,


bóc lột, bất cơng trong xã hội.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định rõ ràng và dứt khoát con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam, là con đường XHCN và luôn luôn
khẳng định: CNXH là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và Nhân dân Việt
Nam; đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng
Việt Nam. Nhận thức đúng đắn về những thời cơ, thách thức và những điều kiện
thuận lợi của xu thế phát triển thế giới, Đảng ta đã điều chỉnh, bổ sung và hoàn
thiện về lý luận trên con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Với thực tiễn sinh
động về những thành tựu phát triển của đất nước sau 25 năm đổi mới mà đặc
biệt là sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định “sự
phát triển tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1991 đến năm 2011” là đúng đắn, khoa
học và phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn thời đại.


3

Phần 2. NỘI DUNG
1. Chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cho đến nay, khi nghiên cứu các vấn đề lý luận về CNXH, nhiều nhà
nghiên cứu, nhiều học giả vẫn còn đang chưa có một cách hiểu phổ quát về khái
niệm CNXH là gì? Cho nên khi nghiên cứu và sử dụng thuật ngữ CNXH vẫn còn
nhầm lẫn, chưa hiểu hết về ý nghĩa thật sự của nó.
Với lập trường nghiên cứu CNXH là một trong ba bộ phận hợp thành của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói tới ba khía cạnh,
ba tư cách của CNXH trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Đó là CNXH như
một phong trào, một học thuyết và một chế độ. Cách nhìn CNXH như vậy rất
khoa học, đa chiều và toàn diện hơn.
Với phương diện tiếp cận CNXH là một phong trào, có thể hiểu CNXH là

một phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động chống lại
áp bức, bóc lột, bất cơng của giai cấp thống trị. Như vậy, khi tiếp cận theo nghĩa
này, CNXH bắt đầu từ rất sớm, từ khi xã hội bắt đầu phân chia giai cấp với sự
xuất hiện của áp bức, bóc lột, bất cơng trong xã hội. Và chính sự áp bức, bóc lột
tàn khốc của chế độ đã nảy sinh ra tư tưởng phản kháng. Trên thực tế, các cuộc
khởi nghĩa của nô lệ đã nổ ra để chống lại sự hà khắc của chế độ, chống lại sự
thống trị tàn bạo của giai cấp chủ nô để địi lấy quyền dân chủ, tự do, bình đẳng;
địi lại quyền con người cho chính giai cấp mình.
Như vậy, trong thời kỳ đầu của xã hội đã xuất hiện sự phản kháng, xuất
hiện các phong trào chống lại khuynh hướng đi ngược với nguyện vọng chính
đáng của quần chúng nhân dân. Đây chính là thực tiễn sinh động khi nghiên cứu
khái niệm XHCN dưới cách tiếp cận theo nghĩa là một phong trào.
Với cách tiếp cận theo nghĩa thứ hai, CNXH là một học thuyết, thì CNXH
là một trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao
động khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng. Khi xã hội xuất hiện áp bức, bóc lột, bất


4
cơng thì nảy sinh các tư tưởng phản kháng chống lại chế độ và mơ ước xây dựng
một chế độ xã hội mà con người ở đó sống tự do, bình đẳng, khơng cịn tình
trạng người bóc lột người. Các nhà tư tưởng nhân đạo hay gọi chung là các nhà
tư tưởng XHCN muốn xây dựng một xã hội mới đồng thời lên án chế độ xã hội
đương thời. Như vậy, với nghĩa này, tư tưởng XHCN cũng đã có từ khi xã hội
phân chia giai cấp và xuất hiện nhà nước.
Ở nghĩa thứ ba, CNXH là một chế độ. Đó là một chế độ xã hội tốt đẹp, là
giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Với nghĩa này,
CNXH là chính là một chế độ xã hội tốt đẹp được xây dựng trên thực tế gắn với
công lao của C. Mác và Ph. Ăngghen khi biến CNXH từ không tưởng trở thành
khoa học và công lao của V.I. Lênin khi đưa CNXH từ góc độ lý luận, học
thuyết khoa học trở thành thực tiễn sau sự kiện cách mạng tháng Mười Nga năm

1917 - một trong những sự kiện lớn và vĩ đại nhất của thế kỷ XX. Bởi vì, với
thắng lợi vĩ đại ấy, lần đầu tiên trong lịch sử giai cấp công nhân và nhân dân lao
động đã giành được chính quyền từ tay các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột và
một điều quan trọng là chính giai cấp cơng nhân đã sử dụng chính quyền đó để
xây dựng một chế độ xã hội mới đó là chế độ XHCN, chế độ cộng sản chủ nghĩa
mà trước hết là thời kỳ quá độ đi lên xây dựng CNXH.
Về bản chất, trên thế giới chưa có nước nào đạt tới CNXH một cách đầy
đủ kể cả thời kỳ phát triển đỉnh cao nhất của Liên Xô, mà các nước chủ yếu vẫn
đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Một thực tiễn phải công nhận, mặc dù
chưa được là CNXH đầy đủ trên tất cả các mặt từ chính trị, kinh tế, văn hóa, tử
tưởng, xã hội,… nhưng những thành tựu của CNXH kể cả trong thời kỳ đỉnh cao
của Liên Xơ cho đến sự đóng góp của các quốc gia cịn lại ngày hơm nay đã và
đang khẳng định được giá trị hiện thực của CNXH so với các chế độ xã hội
trước; khẳng định sự khác biệt về chất của CNXH với các chế độ áp bức, bóc
lột, bất cơng trong các giai đoạn xã hội trước; và CNXH thực sự khẳng định
rằng là chế độ do nhân dân và vì nhân dân. Đó chính là một xã hội tốt đẹp mà
loài người khát khao vươn tới.


5
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên CNXH bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và
từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách
mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước
thì cả nước cùng tiến hành cách mạng XHCN, quá độ lên CNXH.
Thực chất quá độ lên CNXH ở Việt Nam là quá độ bỏ qua chế độ TBCN
đi lên CNXH. Đảng ta cũng đã chỉ rõ thực chất của sự bỏ qua đó: “Con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc

biệt là khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại”.
2. Bước phát triển về lý luận của Đảng
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là qua
hơn 35 năm đổi mới đất nước, nhận thức của Đảng và Nhân dân ta về CNXH và
con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ. Đặc biệt, trong giai đoạn 1991 - 2011
càng khẳng định sự đúng đắn của bước chuyển quan trọng về tư duy lý luận của
Đảng.
Trước thời kỳ đổi mới đất nước, Việt Nam ta áp dụng một cách máy móc,
rập khn mơ hình xây dựng CNXH theo kiểu tập trung, bao cấp phù hợp với
từng giai đoạn lịch sử nhất định, do đó đã bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm, làm
kìm hãm sự phát triển của đất nước. Đảng đã kịp thời tự phê bình và chỉ ra những
nguyên nhân cần phải khắc phục, đó là bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí, giáo
điều, chưa nắm vững hoàn cảnh, đặc điểm thực tiễn đất nước, chưa nhận thức rõ
quy luật khách quan. Đảng đã từng bước đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy
kinh tế, từng bước sửa đổi cơ chế chính sách cho phù hợp, phát huy tính tích cực
của các thành phần kinh tế, của cơ chế thị trường, chú trọng lợi ích của người lao


6
động, sửa đổi cách thức quản lý nặng về tập trung, hành chính, bao cấp cản trở
những động lực của sự phát triển.
Đại hội IV năm 1976, nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường phát
triển của cách mạng nước ta mới dừng lại ở mức độ định hướng. Đến Nghị quyết
Trung ương 6 khóa IV (8 - 1979) đã tạo nên bước đột phá đầu tiên. Với bản lĩnh,
trí tuệ, phẩm chất của một đảng cách mạng vì dân tộc, vì nhân dân, Đảng đã dũng
cảm tiến lên thực hiện công cuộc đổi mới đất nước tại Đại hội VI (năm 1986) mà
đột phá đầu tiên là đổi mới tư duy về CNXH và con đường lên CNXH với
phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, “nói đúng sự thật”, tôn trọng và hành

động theo quy luật khách quan… trên cơ sở đó, lý luận về CNXH và con đường
đi lên CNXH ở Việt Nam từng bước được hình thành, hồn thiện.
Đại hội VII (năm 1991), trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm đầu của đổi
mới đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH làm sáng tỏ hơn nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và
con đường đi lên CNXH, không chỉ dừng lại ở nhận thức định hướng, định tính
mà từng bước đạt tới trình độ định hình, định lượng. Đảng khẳng định: Xã hội
XHCN mà nhân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có
một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển tồn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; có
mối quan hệ hữa nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Đồng thời, Cương lĩnh 1991 đã xác định sáu đặc trưng của xã hội XHCN và
bảy phương hướng xây dựng CNXH ở nước ta. Những đặc trưng và phương
hướng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về CNXH, vừa
thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến đặc điểm của thời đại. Nội dung của
Cương lĩnh đánh dấu bước tiến quan trọng trong nhận thức lý luận của Đảng về


7
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Lần đầu tiên Đảng đã trình bày
một cách có hệ thống, toàn diện những vấn đề cơ bản về CNXH và phương
hướng đi lên CNXH, những định hướng có tính nguyên tắc bảo đảm cách mạng
nước ta không đi chệch hướng XHCN.
Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 nước ta
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, nước
ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Tình hình quốc tế tiếp tục diễn

biến nhanh chóng, phức tạp. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn
nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố bất trắc, khó lường. Thực hiện chủ trương và
kế thừa, phát triển những nhận thức mới của Đảng, kết hợp với kết quả tổng kết
20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm
2011) thông qua và ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) gọi tắt là Cương lĩnh
năm 2011 đã bổ sung và hoàn thiện thành tám đặc trưng của xã hội XHCN mà
nhân dân ta xây dựng. Trong đó, một số nội dung của các đặc trưng đã được làm
sáng tỏ hơn so với Cương lĩnh 1991. Điều này thể hiện như sau:
Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, nhấn mạnh vị trí của dân chủ. Nội dung dân chủ đặt lên trước
cơng bằng, văn minh. Tồn thể nhân dân làm chủ chứ không chỉ là nhân dân lao
động làm chủ. Tôn trọng quyền làm chủ, quyền con người, coi con người là
trung tâm của chiến lược phát triển là chủ thể phát triển.
Thứ ba, nhận thức mới đầy đủ hơn về quan hệ sản xuất gồm 3 yếu tố: chế
độ sở hữu tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ, phương thức phân phối sản
phẩm. Việc nhấn mạnh “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” với lực lượng sản
xuất hiện đại là phản ánh đúng quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu, đặc trưng của CNXH, những nhiệm vụ
của sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH tại Đại hội XI,


8
đặc biệt là kế thừa bảy phương hướng cơ bản phản ánh con đường quá độ lên
CNXH ở Cương lĩnh 1991, Đảng ta đã xác định tám phương hướng đòi hỏi toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta càng nêu cao tinh thần cách mạng tiến cơng, ý
chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt
qua thách thức xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng hồng hơn.

Trong q trình thực hiện các phương hướng cơ bản, trong Cương lĩnh
năm 2011, Đảng yêu cầu phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt tám
mối quan hệ lớn: giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN;
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã
hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập, tự do và hội
nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ;…
Khơng phiến diện, cực đoan và duy ý chí.
Đồng thời, trong q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi mới đất nước, nhận thức
của Đảng về con đường quá độ đi lên CNXH ở nước ta có những đổi mới sâu sắc:
một là, Đảng đã nhận thức rõ hơn về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời
kỳ quá độ lên CNXH, từ đó xác định rõ mục tiêu tổng quát và mục tiêu chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ. Đó là, trong thời kỳ quá độ sẽ tồn tại nhiều hình
thức kinh tế - xã hội có tính chất q độ; hai là, Đảng nhận thức đầy đủ hơn về
cách thức bỏ qua chế độ TBCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Việc “bỏ qua chế
độ TBCN” được giải thích rõ về hai phương diện: Thứ nhất, bỏ qua chế độ TBCN
là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng TBCN”. Thứ hai, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa
học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại”. Nếu trước đây thường nói, nước ta quá độ lên CNXH “bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN” thì từ Đại hội lần thứ XI trong các văn kiện chính thức của Đảng và
Nhà nước diễn đạt là: Nước ta quá độ lên CNXH “bỏ qua chế độ TBCN”. Đại hội


9
XI đã khẳng định đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức
tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.

3. Thành tựu đất nước - minh chứng cho sự phát triển tư duy lý luận
của Đảng
Trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH do Đại hội VII thông qua năm 1991, tình hình thế giới, khu vực
diễn biến hết sức nhanh chóng, biến động phức tạp; trong nước xuất hiện rất
nhiều vấn đề mới. Trong q trình đó, Đảng đã từng bước nhận thức đúng đắn
và giải quyết có hiệu quả các vấn đề đó trên cơ sở quan điểm, đường lối đã được
xác định trong Cương lĩnh, tạo nên những thành tựu nổi bật cho đất nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN về cơ bản đã được hình thành
và ngày càng phát triển, huy động được các nguồn lực trong và ngoài nước cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, giữ
vững định hướng XHCN; Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp bị xóa bỏ,
quan hệ sản xuất từng bước được xây dựng và hồn thiện phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất; Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã từng bước
được thể chế hóa; Phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận; hội nhập ngày
càng sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực…
Văn hóa phát triển đa dạng, đúng hướng, gắn kết chặc chẽ với các lĩnh
vực của đời sống, góp phần giữ vững ổn định chính trị và tạo nên những thành
tựu về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; Giáo dục và đào tạo có
bước phát triển mạnh, mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng; Khoa học và
công nghệ ngày càng phục vụ tốt hơn yêu cầu phát triển đất nước; Xã hội có
bước phát triển khá, một số lĩnh vực đạt được những thành tựu quan trọng, thu
nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân được nâng lên, chênh lẹch thu nhập
giữa thành thị và nông thôn giảm, chỉ số phát triển con người khơng ngừng tăng
lên… đưa nước ta hồn thành phần lớn mục tiêu thiên niên kỷ cam kết trước
cộng đồng quốc tế.


10
Những thành tựu trên là minh chứng cho sự đổi mới tư duy và quá trình

phát triển lý luận của Đảng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam,
thể hiện rõ bản lĩnh chính trị kiên cường, sự kiên định con đường cách mạng đã
lựa chọn của Đảng và nhân dân ta là tiến lên CNXH.
PHẦN 3. KẾT LUẬN
Đảng ta đã khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30
năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước
đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn
diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh
thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín như ngày nay”. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo,
là kết quả của cả một quá trình đổi mới và phát triển tư duy lý luận về CNXH và
con đường đi lên CNXH của Đảng qua nhiều nhiệm kỳ, đặc biệt là thời kỳ từ
năm 1991 đến năm 2011 đánh dấu bước chuyển về tư duy lý luận của Đảng, làm
cơ sỏ nền tảng cho việc nhận thức ngày càng đúng đắn và khoa học về sự nghiệp
phát triển đất nước theo con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân
dân tin tưởng lựa chọn và xây dựng.
Trong giai đoạn hiện nay, trước những thách thức lớn của toàn cầu, ý chí
khát vọng của người dân Việt Nam vẫn là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH;
bảo vệ vững chắc nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, xây dựng và phát triển
đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các nước trên thế giới,
có vị thế xứng đáng trên bản đồ thế giới. Đồng thời, trước sự chống phá về mọi
mặt của các thế lực thù địch, một mặt chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống
lại các quan điểm sai trái, thù địch khi xuyên tạc, phủ nhận sự lựa chọn con
đường đi lên CNXH của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta; mặt khác
chúng ta phải ln kiên trì, kiên định với sự lựa chọn vĩ đại trên để đi đến thực


11

hiện thắng lợi mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một
nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2010), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011), Nxb. Sự thật, Hà Nội,
2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 84.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 69, tr. 70.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr. 25, tr. 36.
6. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội
khoa học, dành cho hệ cao cấp lý luận chính trị, Hà Nội, 2018.
7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Những vấn đề cơ bản về
Đảng cộng sản và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, 2018.
8. Nguyễn Phú Trọng, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", bài viết công bố ngày
16/5/2021.
9. PGS. TS Lưu Ngọc Khải, Bàn luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay - Khoa học và niềm tin, bài viết đăng trên Tạp chí Cộng
sản, ngày 03/7/2021.


12
10. PGS. TS Vũ Như Khôi, Đảng Cộng sản Việt Nam 25 năm lãnh đạo

công cuộc đổi mới đất nước, Nxb. Quân đôi nhân dân, Hà Nội, 2010.



×