Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Báo cáo "Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thi hành " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.2 KB, 7 trang )



§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
94 T¹p chÝ luËt häc




ThS. TrÇn Anh TuÊn *
ục đích của tố tụng dân sự là nhằm bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự trong vụ việc dân sự. Do vậy, để có thể
bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, đảm bảo việc xét xử của
toà án được đúng đắn thì pháp luật tố tụng dân sự
cần phải xây dựng được một cơ chế tố tụng thích
hợp. Để góp phần làm rõ cơ chế tố tụng theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS), bài
viết này đề cập một số vấn đề của chế định giám
đốc thẩm, tái thẩm dân sự.
1. Những điểm mới của chế định giám đốc
thẩm, tái thẩm
- Về tính chất của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự năm 1989 (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994
(PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động năm 1996
(PLTTGQCTCLĐ) được ban hành trước đây
không có những quy định mang tính định nghĩa
về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy vậy, các


quy định mang tính định nghĩa này của thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm đã được ghi nhận tại các
điều 282, 304 BLTTDS.
Quy định tại các điều 282, 304 BLTTDS đã
thể hiện được tính chất cơ bản của hai loại thủ
tục nói trên. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đều
là thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật trên cơ sở kháng nghị của
những người có thẩm quyền. Điểm khác biệt cơ
bản giữa hai thủ tục này là việc kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dựa trên những
căn cứ kháng nghị khác nhau. Từ điểm khác biệt
cơ bản này, dẫn tới sự khác nhau trong các quy
định về thời hạn kháng nghị và quyền hạn của
hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo khoản 1 Điều 76 PLTTGQCVADS thì
“Hội đồng giám đốc thẩm có thể xem xét toàn bộ
vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của
kháng nghị”. Quy định này cũng được áp dụng
cho thủ tục tái thẩm các vụ án dân sự. Trong khi
đó khoản 1 Điều 76 PLTTGQCTCLĐ quy định:
“Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ có thể
xem xét nội dung của vụ án liên quan đến phần
quyết định bị kháng nghị”. Vấn đề này không
được quy định trong PLTTGQCVAKT. Do vậy,
trong thực tiễn việc vận dụng các quy định về
phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với
các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình;
kinh doanh, thương mại; lao động là không

thống nhất.
BLTTDS hiện nay đã khắc phục được những
bất cập của các pháp lệnh trước đó và đã có quy
định thống nhất về phạm vi xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm đối với tất cả các tranh chấp về
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động. Theo Điều 296 và 310 BLTTDS
thì hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm “chỉ xem
M

* Giảng viên Khoa luật dân sự
Trường Đại học Luật Hà Nội


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 95

xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên
quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị”.
Ngoài ra, hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm có
quyền “xem xét phần quyết định của bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị
kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc
xem xét nội dung kháng nghị nếu phần quyết
định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi
ích của người thứ ba không phải là đương sự
trong vụ án”.
- Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Điều 71 PLTTGQCVADS đã quy định bốn

căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, đó là:
+ Việc điều tra không đầy đủ;
+ Kết luận trong bản án, quyết định không
phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật.
Điều 75 PLTTGQCVAKT và Điều 73
PLTTGQCTCLĐ chỉ quy định ba căn cứ để
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đó là:
+ Kết luận trong bản án, quyết định không
phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật.
Kế thừa các quy định này, BLTTDS quy
định việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
dựa trên ba căn cứ sau đây:
+ Kết luận trong bản án, quyết định không
phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật.
Việc BLTTDS quy định việc kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm dựa trên ba căn cứ
nêu trên mà không quy định dựa trên căn cứ
“việc điều tra không đầy đủ” là hoàn toàn hợp lý.
Bởi vì, “việc điều tra không đầy đủ” chỉ là một
trong những nguyên nhân dẫn tới “kết luận trong

bản án, quyết định không phù hợp với những
tình tiết khách quan của vụ án”. Thực chất đây là
trường hợp toà án trong quá trình giải quyết vụ
án đã có những sai lầm khi đánh giá về các tình
tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Còn căn cứ “Có
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” và “Có sai
lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật”
thực chất là trường hợp khi toà án tiến hành giải
quyết vụ việc đã có những sai lầm nghiêm trọng
trong việc vận dụng pháp luật về dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
và tố tụng dân sự.
- Về thời hạn kháng nghị
BLTTDS cũng đã có những quy định mang
tính thống nhất về thời hạn kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định về
dân sự, kinh doanh, thương mại và lao động.
Trước khi ban hành BLTTDS, thời hạn kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được pháp luật quy
định đối với các bản án, quyết định này là khác
nhau. Theo PLTTGQCVADS, thời hạn kháng
nghị giám đốc thẩm là 3 năm, kể từ ngày bản án,
quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật; thời
hạn kháng nghị tái thẩm là 1 năm, kể từ ngày
phát hiện được những tình tiết mới là căn cứ để
kháng nghị tái thẩm. Đối với việc kháng nghị
không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự nào thì
không bị hạn chế về thời gian. Theo các điều 77,
83 PLTTGQCVAKT thì thời hạn kháng nghị
giám đốc thẩm là 9 tháng, thời hạn kháng nghị

tái thẩm là 1 năm, kể từ ngày bản án, quyết định


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
96 T¹p chÝ luËt häc

của toà án có hiệu lực pháp luật. Theo Điều 75
PLTTGQCTCLĐ thì “Thời hạn kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm là 6 tháng, kể từ ngày
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; nếu
việc kháng nghị có lợi cho người lao động thì
thời hạn đó là một năm”.
Như vậy, theo PLTTGQCVAKT và
PLTTGQCTCLĐ thì thời hạn kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm đều được tính từ ngày bản án,
quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật.
Trong khi đó, PLTTGQCVADS có phân biệt
mốc tính thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm và
tái thẩm.
BLTTDS, đã khắc phục những hạn chế của
các pháp lệnh nêu trên đồng thời quy định một
thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
chung, thống nhất áp dụng cho tất cả các tranh
chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động. Theo Điều 288 và Điều
308 BLTTDS thì thời hạn kháng nghị giám đốc
thẩm là ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định
của toà án có hiệu lực pháp luật; thời hạn kháng
nghị tái thẩm là một năm, kể từ ngày người có
thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để

kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
- Việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định
kháng nghị
Các văn bản pháp luật về thủ tục được ban
hành trước đó không có quy định về việc thay
đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị sau khi
người có thẩm quyền đã tiến hành kháng nghị
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Khắc
phục những bất cập này, lần đầu tiên các quy
định về việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định
kháng nghị đã được ghi nhận tại Điều 289 và
Điều 310 BLTTDS.
Theo các quy định của BLTTDS thì người
đã kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền
thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị, nếu
chưa hết thời hạn kháng nghị; có quyền rút một
phần hoặc toàn bộ quyết định kháng nghị trước
khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc
thẩm, tái thẩm. Các quy định này là một điểm
mới so với các quy định tại các văn bản pháp luật
trước đó.
Qua các vấn đề nêu ở trên có thể thấy rằng
các quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
trong BLTTDS đã có nhiều sửa đổi, bổ sung và
tiến bộ so với các văn bản pháp luật trước đó.
Tuy vậy, việc vận dụng các quy định này trong
thực tiễn cũng đặt ra những vấn đề đòi hỏi các cơ
quan có thẩm quyền cần phải có những nghiên
cứu và hướng dẫn bổ sung cho phù hợp.
2. Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi

hành các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
- Về tính chất của thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm
Hiện nay, Điều 282 BLTTDS chỉ đề cập thủ
tục giám đốc thẩm với tính chất là thủ tục “xét lại
bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ
án”. Quy định tại Điều 282 BLTTDS không đề
cập thủ tục giám đốc thẩm với tính chất là thủ tục
xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu
lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện
sai lầm của toà án khi nhận định về những tình
tiết, sự kiện của vụ việc.
Chúng tôi cho rằng bản chất của thủ tục
giám đốc thẩm là việc xét xử lại vụ việc mà bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án
bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm
pháp luật trong việc giải quyết. Những sai lầm,


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 97

thiếu sót của toà án khi giải quyết vụ việc có thể
ở hai dạng cơ bản là sai lầm về các tình tiết, sự
kiện của vụ việc hoặc sai lầm nghiêm trọng khi
áp dụng pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và pháp luật tố

tụng dân sự. Do vậy, quy định về tính chất của
thủ tục giám đốc thẩm như Điều 282 BLTTDS là
chưa đầy đủ và không lột tả được hết bản chất
của thủ tục giám đốc thẩm. Mặt khác, quy định
này cũng không thể hiện đầy đủ các căn cứ
kháng nghị theo Điều 283 BLTTDS. Theo chúng
tôi, Điều 282 BLTTDS về tính chất của thủ tục
giám đốc thẩm cần được sửa đổi như sau:“ Giám
đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của
toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng
nghị vì phát hiện có sai lầm của toà án khi nhận
định về những tình tiết, sự kiện của vụ án hoặc
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc
giải quyết vụ án”.
- Về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
Các quy định về phạm vi xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm trong BLTTDS là chưa thật sự
hợp lý, cần phải mở rộng phạm vi xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm đối với toàn bộ bản án, quyết
định như đã từng quy định trong
PLTTGQCVADS trước đây. Quy định của
BLTTDS hiện nay về phạm vi xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm có thể dẫn tới những bất cập trong
việc áp dụng. Cụ thể là đối với trường hợp
những người có thẩm quyền chỉ tiến hành kháng
nghị đối với một phần bản án, quyết định thì một
vụ án có thể bị kháng nghị và xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm nhiều lần gây kéo dài thời gian
giải quyết vụ án.
- Về thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm

Theo khoản 4 Điều 291 BLTTDS thì những
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về
cùng một vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của các
cấp toà án khác nhau được quy định tại khoản 1
và khoản 2 Điều 291 thì toà án có thẩm quyền
cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án. Theo
chúng tôi, quy định tại khoản 4 Điều 291
BLTTDS về thẩm quyền giám đốc thẩm, tái
thẩm là không rõ ràng có thể dẫn tới những cách
hiểu và vận dụng khác nhau. Theo cách quy định
này có thể dẫn tới cách hiểu là toà án có thẩm
quyền cấp trên có thể giám đốc thẩm toàn bộ vụ
án mà không bị giới hạn bởi nội dung kháng nghị
theo quy định về phạm vi xét xử tại Điều 296
BLTTDS. Do vậy, cần phải có những giải thích,
hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
- Về căn cứ kháng nghị
Một vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng
các quy định của BLTTDS về thủ tục giám đốc
thẩm là trường hợp nào được coi “Có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng” là căn cứ để kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Điều 283
BLTTDS không quy định cụ thể về vấn đề này.
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào Điều 299 BLTTDS
có thể coi việc vi phạm nghiêm trọng về thủ tục
tố tụng là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm khi :
+ Việc thu thập chứng cứ và chứng minh
chưa thực hiện đầy đủ hoặc không theo đúng quy
định tại Chương VII của BLTTDS;

+ Thành phần của hội đồng xét xử sơ thẩm
hoặc phúc thẩm không đúng quy định của
BLTTDS hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về
thủ tục tố tụng.
Vấn đề là ở chỗ cần phải hiểu “có vi phạm
nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng” là như thế
nào? Theo chúng tôi, những vi phạm nghiêm
trọng khác về thủ tục tố tụng có thể được hiểu là
toà án khi tiến hành giải quyết vụ việc đã vi


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
98 T¹p chÝ luËt häc

phạm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự
như nguyên tắc hoà giải, nguyên tắc xét xử công
khai, nguyên tắc độc lập xét xử, nguyên tắc về
tiếng nói chữ viết trong tố tụng dân sự hoặc vi
phạm các quyền tố tụng cơ bản của đương sự
như quyền tham gia phiên toà; xác định sai thẩm
quyền của toà án, xác định sai tư cách đương sự
v.v Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần phải
hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để tránh cách
hiểu và vận dụng khác nhau trong thực tiễn.
Theo Điều 304 của BLTTDS thì tái thẩm là
xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết
mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản
nội dung của bản án, quyết định mà toà án, các
đương sự không biết được khi toà án ra bản án,

quyết định đó. Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ
“có những tình tiết mới được phát hiện có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết
định mà toà án, các đương sự không biết được
khi toà án ra bản án, quyết định đó” là chưa
chính xác và mâu thuẫn với quy định về căn cứ
kháng nghị theo khoản 1 Điều 305 BLTTDS.
Bởi vì, theo khoản 1 Điều 305 BLTTDS thì bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi “mới phát
hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà
đương sự đã không thể biết được trong quá trình
giải quyết vụ án”. Xét về thuật ngữ thì việc “các
đương sự không biết được” và việc “đương sự đã
không thể biết được” là hoàn toàn khác nhau.
Mặt khác, việc sử dụng thuật ngữ “đương sự đã
không thể biết được” cũng không thật sự rõ ràng.
Từ đó, có thể dẫn tới cách hiểu tình tiết mới được
phát hiện phải là tình tiết mà nhiều đương sự
không thể biết, thậm chí là toàn bộ các đương sự
trong vụ việc không thể biết mới được coi là căn
cứ để kháng nghị tái thẩm. Còn trường hợp tình
tiết mới được phát hiện mà chỉ có một đương sự
không thể biết thì không coi là căn cứ để kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm. Cách hiểu này có thể
dẫn tới việc những người có thẩm quyền kháng
nghị tái thẩm sẽ không tiến hành kháng nghị khi
phát hiện những tình tiết mới của vụ việc mà chỉ
có một đương sự trong vụ việc không biết được
những tình tiết này. Chẳng hạn, nhiều người thừa

kế trong vụ án chia thừa kế biết là có một bản di
chúc nhưng cố tình giấu đi để yêu cầu chia thừa
kế theo pháp luật, gây bất lợi cho người thừa kế
được định đoạt di sản theo di chúc, trong khi đó
bản thân người này cũng không biết được là
người có di sản đã có di chúc định đoạt tài sản
cho mình. Nếu coi đây là trường hợp “Kết luận
trong bản án, quyết định không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án” để kháng
nghị giám đốc thẩm thì có thể gây bất lợi cho
đương sự ngay tình “không thể biết” được các
tình tiết đó vì lý do đã hết thời hạn kháng nghị
giám đốc thẩm. Bởi lẽ, thời hạn kháng nghị giám
đốc thẩm được quy định là ba năm nhưng lại
được tính từ ngày bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật. Do vậy, cần phải có những hướng
dẫn về vấn đề này theo hướng coi là căn cứ để
kháng nghị tái thẩm khi “mới phát hiện được tình
tiết quan trọng của vụ án mà một trong các
đương sự hoặc các đương sự trong vụ việc dân
sự đã không thể biết được trong quá trình giải
quyết vụ việc”.
- Về việc phát hiện căn cứ kháng nghị và thời
hạn kháng nghị
Hiện nay, các quy định tại Điều 284 và Điều
306 BLTTDS chỉ dừng lại ở chỗ ghi nhận quyền
phát hiện và thông báo những vi phạm pháp luật,
những tình tiết mới của vụ việc của đương sự, cá



§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 99

nhân, cơ quan, tổ chức cũng như nghĩa vụ của
viện kiểm sát, toà án trong việc phát hiện và
thông báo cho những người có thẩm quyền
kháng nghị các căn cứ kháng nghị, không có
những quy định về cơ chế để xử lý, giải quyết
những thông báo nhận được. Thiết nghĩ, quyền
phát hiện và thông báo những vi phạm pháp luật,
những tình tiết mới của vụ việc chỉ thực sự có ý
nghĩa nếu quy định một cơ chế rõ ràng, cụ thể
cũng như một thời hạn nhất định để những người
có thẩm quyền xử lý những thông tin thu nhận
được. Mặt khác, bản thân những người có thẩm
quyền kháng nghị cũng không thể tự mình xử lý
được toàn bộ những đơn từ khiếu nại, tố cáo. Do
vậy, cần phải có quy định cụ thể về bộ máy giúp
việc, cơ chế hoạt động, trách nhiệm của các thẩm
tra viên khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Ngoài ra, BLTTDS không có những quy
định về thời gian không tính vào thời hạn kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm do có những trở
ngại khách quan mà người có thẩm quyền kháng
nghị không thể tiến hành kháng nghị hoặc trường
hợp có căn cứ rõ ràng để kháng nghị tái thẩm mà
những người có thẩm quyền vẫn không kháng
nghị mặc dù biết rõ các căn cứ này. Do vậy, nếu
không có những hướng dẫn bổ sung về thời gian
không tính vào thời hạn kháng nghị giám đốc

thẩm, tái thẩm sẽ dẫn đến những bất cập trong
việc áp dụng, không đảm bảo được sự công bằng
và quyền lợi hợp pháp của các đương sự.
Theo quy định của BLTTDS thì thời hạn
kháng nghị tái thẩm là một năm, kể từ ngày
người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn
cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Như vậy,
việc kháng nghị hay không kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm hiện nay là phụ thuộc vào việc người
có thẩm quyền kháng nghị biết hay không biết
các căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Và việc người
có thẩm quyền kháng nghị biết hay không biết
các căn cứ để kháng nghị tái thẩm chủ yếu lại
phụ thuộc vào việc thẩm tra viên có đề xuất việc
kháng nghị hay không. Do vậy, cần phải xây
dựng một cơ chế phối hợp giữa các thẩm tra viên
và người có thẩm quyền kháng nghị cũng như
trách nhiệm của họ đối với việc không kháng
nghị các bản án, quyết định của toà án mặc dù rõ
ràng có căn cứ để tiến hành kháng nghị. Quy
định này cùng với các quy định về thời gian
không tính vào thời hạn kháng nghị sẽ góp phần
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, đảm
bảo công bằng xã hội.
- Việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định
kháng nghị
BLTTDS hiện nay không có những quy định
về thủ tục giải quyết trong trường hợp người đã
kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị trước khi mở
phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm, tái

thẩm. Vậy khi vận dụng trong thực tiễn, đối với
những trường hợp này, toà án cấp giám đốc
thẩm, tái thẩm có phải ra quyết định đình chỉ xét
xử giám đốc thẩm, tái thẩm hay không? Đặc biệt,
trong trường hợp xét thấy bản án, quyết định có
xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của
người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án
mà người có thẩm quyền kháng nghị đã rút toàn
bộ kháng nghị thì toà án cấp giám đốc thẩm, tái
thẩm sẽ phải giải quyết như thế nào cũng không
được đề cập. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền
cần nghiên cứu bổ sung các quy định về thủ tục
giải quyết trong trường hợp người đã kháng nghị
rút toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên toà
hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Về vấn đề giám đốc thẩm, tái thẩm đối với
việc dân sự


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
100 T¹p chÝ luËt häc

Trước kia, theo Nghị quyết số 03/ HĐTP
ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
PLTTGQCVADS thì đối với các việc về yêu cầu
tuyên bố một người là mất tích hoặc đã chết mà
người bị xác định là đã mất tích hoặc đã chết đó
lại quay trở về thì vụ việc sẽ được xét lại theo thủ
tục tái thẩm. Hiện nay, theo quy định của

BLTTDS thì yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố
một người mất tích hoặc đã chết lại thuộc thẩm
quyền của toà án cấp sơ thẩm. Ngoài ra, toà án
cấp sơ thẩm cũng có thẩm quyền giải quyết đối
với các yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
mất năng lực hành vi dân sự. Do vậy, có thể suy
luận việc xem xét lại theo thủ tục tái thẩm đối
với các loại việc này không được đặt ra. Tuy
nhiên, đối với các việc dân sự khác mà quyết
định về việc dân sự đã có hiệu pháp luật mà có
sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có tình
tiết mới thì có được kháng nghị để xem xét lại
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hay không ?
Theo quy định tại Điều 311 BLTTDS về
nguyên tắc giải quyết việc dân sự thì khi giải
quyết việc dân sự, toà án áp dụng những quy
định của Chương XX đồng thời áp dụng những
quy định khác của BLTTDS không trái với
những quy định của Chương này để giải quyết
những việc dân sự. Như vậy, các quy định tại
Điều 311 BLTTDS cũng không thể hiện rõ ràng
về việc có áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm đối với các việc dân sự hay không và nếu
có áp dụng thì sẽ được áp dụng đối với các loại
việc dân sự nào? Thiết nghĩ, các quyết định về
việc dân sự mặc dù đã có hiệu lực pháp luật vẫn
có thể có sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát
hiện có tình tiết mới làm thay đổi về cơ bản nội
dung vụ việc. Do vậy, cũng cần phải có những

hướng dẫn cụ thể về thủ tục xét lại các quyết định
giải quyết việc dân sự đã có hiệu lực pháp luật.
- Về những người tham gia phiên toà giám
đốc thẩm, tái thẩm
Theo Điều 292 và Điều 310 BLTTDS thì
phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm phải có sự
tham gia của viện kiểm sát cùng cấp. Khi xét
thấy cần thiết, toà án triệu tập những người tham
gia tố tụng và những người khác có liên quan
đến việc kháng nghị tham gia phiên toà. Hiện
nay, theo Điều 64 BLTTDS thì “Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được
tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu
toà án xét thấy cần thiết”. Như vậy, việc “xét
thấy cần thiết” có phải triệu tập đương sự, người
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự hay
không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của toà
án. Theo chúng tôi, để tạo điều kiện cho đương
sự có thể bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của
mình, đảm bảo sự công khai, minh bạch trong
việc giải quyết vụ việc theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm thì pháp luật nên quy định toà án
sẽ triệu tập các đương sự có liên quan tới vụ việc
và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các
đương sự đó tham gia phiên toà, trường hợp đã
được triệu tập mà vắng mặt thì toà án vẫn tiến
hành giải quyết vụ việc.
Trên đây là một số ý kiến rút ra từ việc
nghiên cứu chế định thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm trong BLTTDS. Rất mong được các cơ

quan có thẩm quyền lưu tâm tham khảo trong
việc hướng dẫn áp dụng BLTTDS./.

×