Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.01 KB, 16 trang )

lOMoARcPSD|9242611

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
…...0O0…..

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số 3:
Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung
và liên hệ với thực tiễn.

Họ, tên SV: Trần Mai Anh
Lớp: Triết học Mác Lênin (121
GĐ: 2021 – 2025

Hà Nội - 11/2021


lOMoARcPSD|9242611

MỞ ĐẦU
Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, triết học có đối tượng nghiên cứu khác nhau.
Song, tổng kết toàn bộ lịch sử triết học, Ph.Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản
lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và
tồn tại”, giữa ý thức và vật chất, giữa con người với giới tự nhiên. Đây là những
vấn đề nền tảng xuyên suốt mọi thuyết triết học trong lịch sử, quyết định sự tồn tại
và phát triển của triết học. Trong đó, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề
mà mọi nhà triết học, mọi học thuyết triết học ở tất cả thời kỳ lịch sử đều phải giải
quyết, dù trực tiếp hay gián tiếp. Từ đây, các nhà triết gia có thể đưa ra cái nhìn


chính xác về sự hình thành thế giới quan, phương pháp luận, xác định bản chất của
các trường phái và các hệ thống triết học.
Ứng dụng vào thực tiễn, vấn đề triết học về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức luôn là phương hướng cho mọi hoạt động, là cơ sở cho công cuộc xây
dựng và phát triển xã hội. Vì vậy, để tìm ra biện pháp giải quyết những vấn đề
phát sinh trong đời sống, tìm ra cách thức đạt được những mục tiêu đã đề ra, đồng
thời hạn chế căn bệnh chủ quan duy ý chí, khơng bám sát vào thực tế, tơ hồng hiện
thực để rồi có cái nhìn lệch lạc và phương hướng phát triển sai lệch, chúng ta cần
phải hiểu rõ bản chất về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Vậy mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức là gì? Tại sao mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức lại đóng một vai trị to lớn đến thế? Làm thế
nào để liên hệ tốt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức với thực tiễn đời
sống xã hội?
Từ những lý do nêu trên, trong quá trình học tập và tìm hiểu về bộ mơn Triết học
Mác – Lênin, em quyết định chọn đề tài: “Phân tích quan niệm duy vật biện chứng
về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận
chung và liên hệ với thực tiễn”. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng bởi vì vốn hiểu biết
cịn hạn hẹp nên bài làm khó có thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận
được sự góp ý quý báu của thầy để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


lOMoARcPSD|9242611

NỘI DUNG
1. Quan niệm về vật chất và ý thức.
1.1. Quan niệm về vật chất.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,

V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết
học dùng để thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”.
Định nghĩa của V.I.Lênin đã bao hàm các nội dung cơ bản:
 Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngồi ý
thức và khơng lệ thuộc vào ý thức.
Khi nói vật chất là một phạm trù triết học là muốn nói phạm trù này là sản phẩm
của sự trừu tượng hóa, khơng có sự tồn tại cảm tính. Tính trừu tượng của phạm trù
vật chất bắt nguồn từ cơ sở hiện thực, do đó, khơng tách rời tính hiện thực cụ thể
của nó. Nói đến vật chất là nói đến tất cả những gì đã và đang hiện hữu thực sự
bên ngoài ý thức của con người, là hiện thực chứ không phải là hư vơ và hiện thực
này mang tính khách quan chứ không phải hiện thực chủ quan.
Mọi sự vật, hiện tượng từ vi mô đến vĩ mô, từ những cái đã biết đến những cái
chưa biết, từ những sự vật “giản đơn nhất” đến những hiện tượng vô cùng “kỳ lạ”,
dù tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng đều là những đối tượng tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người, nghĩa là đều thuộc phạm trù vật chất,
đều là các dạng cụ thể của vật chất. Con người nói riêng hay cả xã hội lồi người
nói chung cũng là một dạng tồn tại của vật chất.
 Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì
đem lại cho con người cảm giác.
Theo V.I.Lênin, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách quan của mình
thơng qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện tượng cụ thể,
tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các “thực thể”. Mặc
dù, không phải mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới khi tác động lên
giác quan của con người đều được các giác quan con người nhận biết; song, nếu

2



lOMoARcPSD|9242611

nó tồn tại khách quan, hiện thực ở bên ngồi, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức
của con người thì nó vẫn là vật chất.
 Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, đến một thời
điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện tượng - hiện tượng vật chất và hiện
tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc
vào các hiện tượng tinh thần. Cịn các hiện tượng tinh thần lại ln ln có nguồn
gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì có được trong các hiện tượng tinh thần
ấy chẳng qua cũng chỉ là chép lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật, hiện tượng
đang tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan, nên về nguyên tắc, con người
có thể nhận thức được thế giới vật chất
1.2. Quan niệm về ý thức
Theo triết học Mác- Lênin: “Ý thức là một phạm trù được quyết định bởi phạm trù
vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con
người và có sự cải biến và sáng tạo”. Ý thức có mối quan hệ biện chứng với vật
chất.
Nói cách khác, hiểu theo nghĩa rộng, ý thức là toàn toàn bộ đời sống tinh thần của
con người bao gồm tri thức và đời sống tình cảm. Cịn hiểu theo nghĩa hẹp thì ý
thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo của thế giới khách quan vào bộ não của
con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới.
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
 Nguồn gốc tự nhiên:
Hoạt động của bộ óc người: Xét về nguồn gốc tự nhiên ý thức chỉ là thuộc tính
của vật chất; nhưng khơng phảỉ của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Ĩc người là khí quan vật
chất của ý thức. Ý thức là chức năng, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
óc người.
Giới tự nhiên: Trái đất hình thành trải qua q trình tiến hố lâu dài dẫn đến sự

xuất hiện con người. Đó cũng là lịch sử phát triển năng lực phản ánh của thế giới
vật chất từ thấp đến cao và cao nhất là trình độ phản ánh - Ý thức. Ý thức là sự
phản ánh thế giới hiện thực bởi bộ óc con người. Đó là hình thức phản ánh đặc
trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất.
3


lOMoARcPSD|9242611

Như vậy, sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người có
năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

 Nguồn gốc xã hội:
Nhân tố lao động: Ý thức được hình thành khơng phải do tác động thuần túy của
thế giới khách quan vào bộ óc người mà chủ yếu là do hoạt động thực tiễn của con
người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới. Nhờ tác động vào thế giới
mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú
và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Nhân tố ngôn ngữ: Cùng với lao động, ngôn ngữ có vai trị to lớn đối với sự tồn
tại và phát triển của ý thức. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là “vỏ vật
chất” của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức để ý thức tồn tại
với tư cách là sản phẩm xã hội - lịch sử. Ý thức là một hiện tượng có tính xã hội,
do đó khơng có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngơn ngữ thì ý thức khơng thể
hình thành và phát triển được.
1.2.2. Bản chất của ý thức.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất của thế giới hiện thực, mặc dù
khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng ln có mối liên hệ biện chứng. Do vậy,
muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối quan hệ qua lại với
vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của con người. Ý thức
có 4 bản chất cơ bản, đó là:

 Tính phụ thuộc vào thực tại khách quan
Về mặt bản chất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là q trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người. Đây là đặc tính
đầu tiên để nhận biết ý thức. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển” vào
trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong đó. Vậy nên có thể nói, ý
thức có bản chất phụ thuộc rất nhiều vào thực tại khách quan.
 Tính chủ quan
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, về nội dung mà ý thức phản
ánh là khách quan, cịn hình thức phản ánh là chủ quan. Ý thức là cái vật chất ở
4


lOMoARcPSD|9242611

bên ngồi “di chuyển” vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong
đó.
Trong ý thức của chủ thể, sự phù hợp giữa tri thức và khách thể chỉ là tương đối,
biểu tượng về thế giới khách quan có thể đúng đắn hoặc sai lầm, và cho dù phản
ánh chính xác đến đâu thì đó cũng chỉ là sự phản ánh gần đúng, có xu hướng tiến
dần đến khách thể.
 Tính sáng tạo
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tính chất năng động, sáng
tạo của sự phản ánh được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm – sinh lý của con
người trong việc định hướng tiếp nhận, chọn lọc, xử lý và lưu giữ thơng; ở q
trình con người tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại... trong đời sống tinh
thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mơ
hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
 Tính xã hội
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của

ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy
luật tự nhiên mà còn (chủ yếu là) của các quy luật xã hội, được quy định bởi nhu
cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với
tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

2.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan niệm duy vật biện chứng.
2.1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt
là của triết học hiện đại”.

 Thứ nhất, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng.
Nói cách khác, giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau
thông qua hoạt động thực tiễn của con người; trong đó vật chất giữ vai trị quyết
định, vật chất quyết định ý thức và ý thức cũng tác động trở lại, tạo ảnh hưởng lên
vật chất.
5


lOMoARcPSD|9242611



Thứ hai, vật chất quyết định ý thức.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức.
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khía

cạnh sau:
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con
người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một q trình
phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con
người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thửc - một thuộc
tính của bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu
của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước
con người; vật chất là cái có trước, cịn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ
nhất, cịn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và
là nguồn gốc sinh ra ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách
quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận
động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức
mới có nội dung của ý thức. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt
động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung
mà ý thức phản ánh. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều
sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội
dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội
tới văn minh, hiện đại.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính khơng tách rời trong bản chất của ý thức.
Sự phản ánh của con người là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực
tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự vật,
hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế
giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có
tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức,
6



lOMoARcPSD|9242611

trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo
và sáng tạo trong phản ánh.
- Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Sự vận
động, biến đổi không ngùng của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết
định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người. Cùng với mỗi bước
phát triển của sản xuất, tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời
sống tinh thần của con người ngày càng phong phú.
Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được
biểu hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sổng vật chất đối với đời
sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển
của kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất
thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.

 Thứ ba, Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra
đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ
thuộc một cách máy móc vào vật chất. Vì vậy, ý thức một khi ra đời thì có tính độc
lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Hoạt động thực tiễn đó khơng phải là hoạt động bản năng như
lồi vật mà là hoạt động xã hội và là hoạt động có sự tham gia và chi phối của
nhân tố ý thức, đặc biệt là nhân tố tri thức. Nó quyết định sự thành cơng hay thất

bại, quyết định tính hiệu quả hay không hiệu quả của các hoạt động thực tiễn làm
cải biên khách quan. Vì vậy, vai trị của ý thức đối với vật chất luôn luôn cần được
phân tích thơng qua hoạt động thực tiễn và được thể hiện qua 3 điểm cơ bản:
- Từ ý thức con người xác định phương hướng của thực tiễn. Mọi hoạt động của
con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trị của ý thức khơng phải trực tiếp tạo ra
hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại
khách quan từ đó xác định mục tiêu, đề ra phương hướng.
7


lOMoARcPSD|9242611

- Từ ý thức xây dựng phương pháp cho thực tiễn cải tạo khách quan. Trên cơ sở
phương hướng đã xác định, con người xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp,
biện pháp, công cụ để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định.
- Ý thức là cơ sở sáng tạo ra “giới tự nhiên nhân tính hóa”. Nhờ hoạt động thực
tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hồn cảnh vật chất, thậm chí cịn
tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Cịn tự bản thân
ý thức thì khơng thể biến đổi được hiện thực.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực và
tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với quy luật
khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong q trình
thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực
của ý thức; còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách
quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con
người đã đi ngược lại với các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng
tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận.
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động, sáng

tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy
vật biện chứng xây dựng nên nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối
với hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó là: Trong việc
giải quyết mọi vấn đề của nhận thức và thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế
khách quan, tơn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách
quan của vật chất, có thái độ tơn trọng đối với hiện thực khách quan, mà căn bản
là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quyết
định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, xã hội. Trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu,
chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật
chất hiện có. Phải tơn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không
làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận
thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối
tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó khơng có. Nhận thức, cải tạo sự
8


lOMoARcPSD|9242611

vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất phát từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó
với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó.
Bên cạnh đó, cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí, chủ
nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan – đó là
những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy
ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược,
sách lược. Nếu không tôn trọng thực tế khách quan thì sẽ bị rơi vào bệnh chủ
quan, để lại hậu quả nghiêm trọng.
Mặt khác, trong mọi mặt của đời sống xã hội, chúng ta cần phải phát huy tính
năng động chủ quan. Trong đó từ “phát huy” là một từ ghép, là sự kết hợp của hai

từ “phát” và “huy”. Cụ thể, “phát” là “phát hiện”, tìm kiếm những tri thức cũ gắn
liền với thực tiễn, có liên quan đến cải tạo vật chất mà ta đang cần giải quyết. Còn
“huy” là “huy động”, thực tế con người cần phải huy động và cải tạo những tri
thức cũ, những vật chất cũ phù hợp để từ đó giải quyết vấn đề. Tóm lại, “phát
huy” ở đây là việc con người vận dụng một cách dáng tạo những kiến thức, những
hiểu biết sẵn có để tạo ra một kiến thức mới, một phương pháp mới nhằm giải
quyết vấn đề đang gặp phải. Vậy cần phải phát huy tính năng động chủ quan như
thế nào?
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trị tích cực, năng động, sáng tạo
của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích
cực, năng động sáng tạo ấy. Điều này địi hỏi con người phải coi trọng vai trò của
ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần phải giáo dục và nâng cao
trình độ tri thức khoa học, tơn trọng tri thức khoa học, tích cực học tập, nghiên cứu
để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó trở thành tri thức,
niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Thêm vào đó, phải
củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, tồn cầu
hố hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ,
đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Ngồi ra, cần lên án, phê phán, chống lại tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi
chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo trong cuộc sống.

9


lOMoARcPSD|9242611

Để thực hiện ngun tắc tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng
động chủ quan, chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ

lợi ích, phải biết kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải
có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong
nhận thức và hành động của mình.

3. Liên hệ thực tiễn.
Từ cơ sở lí luận ở trên, em xin phép vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức vào phân tích q trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta.
Sau năm 1954, miền Bắc hồn tồn giải phóng, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Trong giai đoạn này với đặc điểm một nước nơng nghiệp lạc hậu, trình độ
lực lượng sản xuất cịn thấp kém, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, Đảng chủ trương
đẩy mạnh khôi phục kinh tế, đẩy mạnh hợp tác hố trong nơng nghiệp, lấy kinh tế
hợp tác xã làm trọng tâm, mở rộng quy mô hợp tác xã (1966-1975) trong nông
nghiệp từ nhỏ đến lớn. Tuy nhiên, do chưa có kinh nghiệm trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nên trong giai đoạn này, chúng ta tuyệt đối hoá việc cải tạo quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa theo mơ hình Liên Xơ cho kinh tế miền Bắc trong khi
trình độ lực lượng sản xuất cịn thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật không được đảm
bảo, đội ngũ cán bộ quản lý không được đào tạo bài bản, khơng đáp ứng được nhu
cầu cao đó, vì thế khơng thúc đẩy năng suất lao động phát triển, gây trở ngại cho
sự phát triển kinh tế.
Sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, nền kinh tế miền Bắc vẫn còn
nhiều nhược điểm, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, mặt khác còn bị chiến
tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ tàn phá nặng nề. Ở miền Nam,
sau 20 năm chiến tranh, nền kinh tế bị đảo lộn và suy sụp, nơng nghiệp nhiều vùng
hoang hố, lạm phát trầm trọng… Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại
đề ra những chỉ tiêu kế hoạch năm 1976-1980 quá cao về xây dựng cơ bản và phát
triển sản xuất vượt quá khả năng của nền kinh tế, như năm 1975, phấn đấu đạt 20
triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu ha khai hoang, 1 triệu 200 ha rừng
mới trồng… 10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng… Đặc biệt là đề ra việc


10


lOMoARcPSD|9242611

xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí và đặt
nhiệm vụ hồn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.
Những chủ trương sai lầm đó cùng với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp
đã tác động xấu tới nền kinh tế, ảnh hưởng không tốt đến đời sống của nhân dân…
Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế đề ra chỉ đạt khoảng 50%-60% mức đề
ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội tăng bình qn
1,5%, cơng nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%.
Vậy nguyên nhân của những sai phạm đó đến từ đâu? Trên thực tế, trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tịi, xây dựng
đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng
Đảng đã phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan:
Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành
phần; đẩy mạnh quá mức việc xây dựng cơng nghiệp nặng; duy trì cơ chế quản lý
tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền
tệ, tiền lương. Bên cạnh những khuyết điểm chủ yếu nêu trên, cũng có những
nguyên nhân khách quan như hậu quả của nhiều năm chiến tranh, bối cảnh quốc
tế…Song chủ yếu là do chúng ta phạm sai lầm chủ quan, những sai lầm đó cùng
với trì trệ trong cơng tác tổ chức cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt
tiêu nhiều động lực phát triển.
Tình hình nền kinh tế nước ta trước đổi mới đã cho thấy rõ tác động tiêu cực của ý
thức (Ở đây là các chủ trương chính sách về quản lí) đối với vật chất (là nền kinh
tế) và thấy tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có cơng cuộc đổi
mới. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sẽ để lại
hậu quả khơn lường và sớm muộn bị đào thải.
Vì vậy trước tình hình ngày càng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế xã

hội ở nước ta Đảng và nhà nước ta đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình lấy ý
kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân, và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế.
Đại hội lần thứ VI của Đảng là dấu mốc quan trọng đánh dấu cơng cuộc đổi mới
tồn diện đất nước, trong đó có sự đổi mới nhận thức và vận dụng quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đại hội đã rút
ra bốn kinh nghiệm lớn, trong đó có kinh nghiệm: Phải luôn xuất phát từ thực tế,

11

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

tôn trọng và hành động theo qu luật khách quan. Đảng đã đề ra đường lối, mở ra
bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tại Đại hội lần thứ VI, trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan: đã có những biểu hiện nóng vội, muốn xố bỏ ngay thành phần kinh
tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc
doanh, chú trọng cải tạo mặt sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải
quyết vấn đề tổ chức và phân phối. Thêm vào đó, Đảng ta đã tự phê bình một cách
nghiêm khắc, đã phân tích đúng ngun nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế
xã hội, đề ra các định hướng mới đặc biệt là đổi mới kinh tế, đã thực hiện mục tiêu
của ba chương trình kinh tế: lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất,
hình thành nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại của kinh tế
tiểu tư sản, sản xuất hàng hoá và kinh tế tư bản tư nhân, đổi mới cơ chế quản lí
kinh tế, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hố- tiền tệ.
Nhìn từ định hướng đường lối, mục tiêu, cho đến nội dung, giải pháp cụ thể phát
triển kinh tế - xã hội được nêu tại Đại hội VI, Đảng ta đều nhấn mạnh đến tầm

quan trọng khách quan của quy luật, đánh dấu sự đổi mới trong nhận thức mới của
Đảng ta về xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo đinh hướng xã
hội chủ nghĩa. Và đến Đại hội Đại Biểu tồn Quốc lần thứ VII, cơng cuộc đổi mới
đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, đặc biệt là về đổi mới kinh
tế. Tuy nhiên, khơng vì thế mà chủ quan với những thành tựu đã đạt được, Đại hội
VII cũng chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết, đặc biệt về mặt kinh tế đó là: lạm
phát cịn cao, nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tăng
lên…
Rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn phương pháp luận
duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới,
tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện đổi mới trong lĩnh vực chính trị.
Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương
hoá, thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở rộng, nguồn vốn đầu tư nước
ngồi tăng mạnh…Khoa học cơng nghệ có bước phát triển. Lĩnh vực văn hố – xã
hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện một bước.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững.

12

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

Với sự thành công của công cuộc đổi mới hơn mười năm (1986 -1995), chúng ta
càng có cơ sở để khẳng định rằng, công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta là
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển khách quan của lịch sử.
Trước đây, Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan: nóng vội trong cải tạo chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành
phần: đẩy mạnh quá mức việc xây dựng cơng nghiệp nặng; duy trì cơ chế quản lý

kinh tế tập trung quan liêu bao cấp; có nhiều chủ trương sai lầm trong việc cải
cách giá cả, tiền tệ, tiền lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều
khuyết điểm nghiêm trọng. Quán triệt nguyên tắc khách quan khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí là nhiệm vụ của Đảng, toàn nhân dân ta, nhiệm vụ này chỉ được
thực hiện nếu chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa
học.
Như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo
ngày càng được cụ thể hoá và đi vào chiều sâu được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng
và hăng hái thực hiện, chính vì Đảng ngày càng nắm vững và vận dụng đúng đắn
sáng tạo phương pháp luận triết học toàn diện Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong cơng cuộc đổi mới
nhằm tăng trưởng nền kinh tế là rất rõ ràng.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự nghiệp rất khó và phức tạp,
có thể coi nó như một cơng cuộc kháng chiến trường kỳ của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta. Chúng ta phải quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng thành thạo phép duy vật biện chứng
vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế.
Để xây dựng nền kinh tế bền vững, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi
chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế
khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Và nếu khơng tơn trọng
khách quan thì sẽ bị rơi vào bệnh chủ quan, để lấy hậu quả khơn lường.
Ngồi ra, trong q trình đổi mới cần phát huy tính năng động sáng tạo, tích cực
học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học, áp dụng những tri thức khoa học
trong xây dựng nền kinh tế đất nước bền vững, phồn vinh để sánh vai với các
cường quốc năm châu.

13

Downloaded by tran quang ()



lOMoARcPSD|9242611

KẾT LUẬN
Tóm lại, mối quan hệ vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng, trong đó vật
chất có trước, ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định ý thức.
Tuy nhiên, ý thức khơng hề thụ động mà cịn có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Trên cơ sở quan điểm về bản chất của vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện
chứng xây dựng nên một nguyên tắc cơ bản chung, đó là: Trong hoạt động nhận
thực và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng
thời phải phát huy tính năng động chủ quan.
Liên hệ với thực tế, trong nhận thức và hành động, con người phải xuất phát từ
thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách,
kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở; phải tìm ra những
nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
Đồng thời phải phát huy tính năng động chủ quan, tích cực học tập, nghiên cứu để
làm chủ tri thức. Thêm vào đó phải phịng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy
ý chí - đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho
hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát
cho chiến lược, sách lược...Mặt khác cũng cần chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem
thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động…trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn.
14

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611


Áp dụng vào công cuộc phát triển kinh tế, cần vận dụng thành thạo phép duy vật
biện chứng vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế nhằm tăng trưởng nền kinh tế
quốc dân, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam cất cánh, để từ đó nâng cao hơn
nữa vị trí Việt Nam trên chiến trường quốc tế, góp phần củng cố hơn nữa sự ổn
định về chính trị của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[GS. TS. Phạm Văn Đức (chủ biên) - Giáo trình Triết học Mác Lênin – NXB
Chính trị Quốc gia]
[PGS.TS. Nguyễn Viết Thơng (tổng chủ biên) – Giáo trình Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác Lênin – NXB Chính trị quốc gia – Sự thật]
[Công ty Luật Dương Gia – Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong
nền kinh tế nước ta hiện nay – Nguồn tham khảo: Internet]
[ThS. Lê Hữu Lợi – Quá trình đổi mới nhận thức của Đảng ta trong việc giải quyết
mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qua các kỳ
Đại hội – Nguồn tham khảo: Internet]

15

Downloaded by tran quang ()



×