Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Các yếu tố tác động đến pháp luật trong quản lý công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.39 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Phần I: Mở đầu .................................................................................................. 1
Phần II: Nội dung .............................................................................................. 2
1. Khái quát những vấn đề chung về pháp luật trong quản lý công .............. 2
1.1 Khái niệm và đặc điểm của pháp luật ................................................. 2
1.1.1 Khái niệm về pháp luật ................................................................ 2
1.1.2 Đặc điểm của pháp luật ................................................................ 2
1.2 Vai trị của pháp luật trong quản lý cơng ................................................2
2. Các yếu tố tác động đến pháp luật trong quản lý công ................................4
2.1 Sự lãnh đạo của Đảng................................................................................4
2.2. Sự phát triển của kinh tế thị trường ........................................................5
2.3 Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Nhà nước ......................... 6
2.4 Các yếu tố truyền thống và đạo đức.................................................... 7
2.5 Hội nhập quốc tế và cách mạng khoa học công nghệ ......................... 8
2.6 Trình độ dân trí và năng lực đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy
quản lý công ...................................................................................................... 9
2.7 Các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết ......................... 10
2.8. Các yếu tố khác ................................................................................ 10
Phần III: Kết luận ............................................................................................ 11


1
Phần I: Mở đầu
Trong xã hội cần có một trật tự nhất định và sự điều chỉnh nhất định đối
với các quan hệ xã hội - quan hệ giữa người với người trên các lĩnh vực. Các
quy phạm xã hội ở nước ta hiện nay rất đa dạng bao gồm các quy phạm chính
trị do các cơ quan, tổ chức của Đảng ban hành; các quy phạm do các tổ chức
chính trị - xã hội ban hành; các quy phạm đạo đức, phong tục, tôn giáo và
pháp luật. Trong các quy phạm đó, pháp luật là những quy tắc xử sự chung
nhất, phổ biến nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Cũng như bản chất của Nhà nước, pháp luật mang bản chất giai cấp và


xã hội. Ý chí của giai cấp thống trị được Nhà nước thể chế hóa thành pháp
luật và nhờ có pháp luật ý chí của giai cấp thống trị trở thành ý chí của Nhà
nước. Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nên
pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân, nơng dân, tầng lớp trí thức và
những người lao động khác trong xã hội. Đó là pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật thể hiện và bảo vệ lợi ích của số đông nhân dân trong xã hội. Thông
qua pháp luật, ý chí của nhân dân trở thành ý chí của Nhà nước. Pháp luật
khơng chỉ mang tính giai cấp và tính xã hội mà pháp luật còn phản ánh hiện
thực xã hội và các quy luật khách quan của đời sống xã hội.
Trong mối liên hệ, tác động qua lại giữa pháp luật và quản lý cơng,
pháp luật có vai trị vô cùng quan trọng, trở thành cơ sở cao nhất cho tồn bộ
các hoạt động quản lý cơng. Pháp luật quy định và tác động quy định đến tất
cả các đối tượng và hoạt động trong quản lý công, từ chủ thể quản lý, đối
tượng quản lý, nội dung, mục đích và các nguồn lực trong quản lý cơng.
Vậy có những yếu tố nào tác động đến pháp luật trong quản lý công?
Mức độ, phạm vi và cách thức tác động của các yếu tố đó đến pháp luật như
thế nào? Qua quá trình học tập và nghiên cứu học phần “Pháp luật trong quản
lý công”, tôi xin lựa chọn đề tài “Các yếu tố tác động đến pháp luật trong
quản lý công” làm bài tiểu luật kết thúc học phần. Việc hiểu rõ những yếu tố
tác động đến quản lý công và cách thức tác động của chúng đến hệ thống
pháp luật trong quản lý cơng góp phần tạo ra những tác động thúc đẩy, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đồng thời hạn chế những rủi ro, các tác động tiêu
cực mà các yếu tố mang lại cho hoạt động xây dựng, ban hành và thực thi
pháp luật quản lý công hiện nay.


2
Phần II: Nội dung
1. Khái quát những vấn đề chung về pháp luật trong quản lý công
1.1 Khái niệm và đặc điểm của pháp luật

1.1.1 Khái niệm về pháp luật
Pháp luật dưới góc độ luật học được hiểu như là hệ thống các quy tắc
xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý
chí giai cấp thống trị, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp
giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo
lập trật tự, kỷ cương, ổn định và phát triển xã hội.
Về cơ bản, quan niệm trên phản ánh đầy đủ bản chất giai cấp và tính xã
hội của pháp luật. Tuy nhiên, trong một thế giới không ngừng vận động và
phát triển như hiện nay, khái niệm và đặc điểm của pháp luật cần tiếp cận ở
nhiều khía cạnh khác nhau, mang tính mềm dẻo hơn.
Khi xem xét đầy đủ các khía cạnh, bản chất của pháp luật, có thể khái
quát cách hiểu chung nhất về pháp luật: Pháp luật là hệ thống các quy phạm
có tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, phù hợp í chí,
lợi ích chung của nhân dân, được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các
phương pháp, hình thức quản lý khác nhau nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội hướng tới mục đích bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của con người.
1.1.2 Đặc điểm của pháp luật
Pháp luật có những đặc trưng riêng mà các loại quy phạm xã hội khác
khơng có. Bản chất của luật pháp phản ánh bản chất của Nhà nước đặt ra nó.
Nhà nước kiểu nào thì pháp luật kiểu đó. So với các hiện tượng xã hội khác,
pháp luật mang các đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật có tính tính quy phạm phổ biến;
Thứ hai, pháp luật có tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức;
Thứ ba, pháp luật có tính cưỡng chế;
Thứ tư, pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước.
1.2 Vai trị của pháp luật trong quản lý cơng
Hiệu lực, hiệu quả của quản lý công chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
trong đó khơng thể khơng kể đến vai trò của pháp luật. Năng lực, chất lượng
của nền quản lý công biểu hiện ở sự kết hợp hài hòa các yếu tố thể chế, tổ



3
chức bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức; sự ủng hộ của nhân dân đối với nhà
nước. Sự tín nhiệm của dân đối với cơ quan nhà nước càng lớn thì hoạt động
quản lý của bộ máy nhà nước càng dễ dàng đạt được mục tiêu. Đồng thời, đặc
điểm tổ chức và nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị, hiệu lực quản lý
của bộ máy nhà nước phụ thuộc vào nội dung, phương thức lãnh đạo của
Đảng, sự phân công rành mạch giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
và giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Trong hoạt động quản lý công phải
dựa trên hành lang quy định của hiến pháp và pháp luật. Pháp luật quy định,
tác động đến mọi yếu tố của nền quản lý công từ chủ thể quản lý, quy trình
quản lý, mục tiêu quản lý, các phương thức, cơng cụ của quản lý cơng.
Vai trị cụ thể của pháp luật đối với nền quản lý công thể hiện ở các nội
dung sau:
Thứ nhất, pháp luật quyết định về tổ chức bộ máy nhà nước. Pháp luật
quy định về cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục thành
lập, sáp nhập, giải thể và các quy định cụ thể về cơ chế vận hành, hoạt động
cũng như các mối quan hệ của hệ thống bộ máy nhà nước. Ở nước ta, Hiến
pháp qua các thời kỳ là luật cơ bản nhất và có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Trong Hiến pháp có những quy định chung nhất về tổ chức bộ máy nhà nước
từ trung ương đến chính quyền địa phương. Trên cơ sở đó, hệ thống các văn
bản luật, quy phạm pháp luật được xây dựng để quy định chi tiết các các nội
dung về thành lập, cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của từng tổ chức, đơn
vị. Ví dụ: Hiện nay hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương đều có quy định cụ thể như Luật Tổ chức Chính phủ 2015, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2019, ….
Thứ hai, pháp luật quyết định hoạt động bộ máy nhà nước nhà nước
thông qua hệ thống các quy định về thẩm quyền, hình thức, phương thức hoạt

động của các cơ quan nhà nước. Pháp luật còn quy định các nhân tố, hoạt
động trong quản lý công như: chủ thể quản lý (điển hình là Luật Cán bộ,
Cơng chức và Luật Viên chức hiện hành), đối tượng quản lý, mơi trường quản
lý, nội dung quản lý, mục đích quản lý, nguồn lực trong quản lý công. Pháp
luật định vị phạm vi hoạt động của quản lý công. Lĩnh vực nào quản lý công
thực hiện, lĩnh vực nào xã hội hóa, lĩnh vực tư nhân thực hiện. Đồng thời,
pháp luật còn quy định điều kiện, ràng buộc đối với tồn bộ q trình thực
hiện mục tiêu của nền quản lý công.
Thứ ba, pháp luật là một trong những công cụ do Nhà nước ban hành để
quản lý xã hội. Tuy nhiên, pháp luật do Nhà nước ban hành song pháp luật


4
cũng là phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước. Chính vì thế có ngun
tắc chung nhất là: cán bộ, cơng chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho
phép.
Pháp luật quy định về việc kiểm soát quản lý nhà nước thông qua hệ
thống các quy định về các chủ thể kiểm soát, thẩm quyền, phương thức và hệ
quả pháp lý của hoạt động kiểm soát nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước
của hệ thống các cơ quan nhà nước được quy định cụ thể, làm căn cứ để các
cơ quan nhà nước triển khai thực hiện cũng như xác lập cơ chế trách nhiệm và
kiểm soát hoạt động của các cơ quan.
Thứ tư, trong quản lý công, ngồi cơ quan nhà nước cịn có sự tham gia
của các chủ thể khác trong xã hội, công dân. Pháp luật quy định về sự tham
gia của xã hội và công dân vào hoạt động quản lý công như: chủ thể thamg
gia, hình thức tham gia, các đảm bảo cho sự tham gia của xã hội và công dân.
2. Các yếu tố tác động đến pháp luật trong quản lý công
Trong nền quản lý công hiện nay, pháp luật trở thành cơng cụ hàng đầu,
quan trọng và có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, pháp luật cũng chịu sự tác động,
ảnh hưởng của những yếu tố nhất định.

2.1 Sự lãnh đạo của Đảng
Chính trị và pháp luật đều là những bộ phận thuộc thượng tầng kiến trúc
và có mối quan hệ qua lại với nhau. Đảng với tư cách là một yếu tố cơ bản
cấu thành của hệ thống chính trị, là lực lượng lãnh đạo, thực hiện quyền thống
trị về chính trị của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động để xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”
và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn.
Đường lối chính trị của Đảng giữ vai trị chi phối đối với pháp luật. Nói khác
đi, pháp luật có nhiệm vụ phải thể chế hóa các chủ trương, quan điểm chính
trị của Đảng. Đặc biệt, pháp luật trong quản lý công là pháp luật của quyền
lực hành pháp, nơi thể hiện đậm đặc và trực tiếp nhất quyền lực chính trị nên
cũng chính là nơi phản ánh quyền lực chính trị một cách rõ nét nhất.
Hiến pháp 2013 đã quy định Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội ( Khoản 1, Điều 4, Hiến pháp 2013). Pháp luật Việt
Nam là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
của nhân dân lao động, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng là những định hướng mang tính chất chiến


5
lược liên quan đến vấn đề đối nội và đối ngoại, ln giữ vai trị chỉ đạo đối
với nội dung, phương hướng xây dựng pháp luật ở Việt Nam. Chính vì thế,
các quy định pháp luật phải thế chế hố các đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng; việc tổ chức thực hiện quy định pháp luật trong quản lý cơng phải
đảm bảo tn thủ sự lãnh đạo của Đảng.
Ví dụ: Ngồi việc ban hành các Cương lĩnh chính trị để lãnh đạo Nhà
nước cụ thể hóa sự lãnh đạo của Đảng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát
triển của cách mạng, của đất nước, như “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (năm 1991) và “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm
2011), Đảng còn ban hành nghị quyết chung cho từng khóa (Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc, thường 5 năm một lần) và nhiều nghị quyết
chuyên đề của từng khóa,… Trên cơ sở đó, Quốc hội ban hành Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định thẩm quyền ban hành văn bản
pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật đó được ban hành trên cơ sở cương lĩnh chính trị, các nghị
quyết của Đảng.
2.2. Sự phát triển của kinh tế thị trường
Cơ sở kinh tế quy định nội dung của pháp luật. Khi nền kinh tế có
những thay đổi thì sớm muộn cũng kéo theo sự thay đổi của pháp luật, bởi vì
pháp luật là hình thức ghi nhận sự biến đổi của các quan hệ kinh tế, phản ánh
trình độ phát triển của kinh tế. Kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986,
nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới, Đảng và
Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế chịu sự quyết định của quy
luật cung cầu, quy luật cạnh tranh theo sự định hướng của nhà nước. Pháp luật
phải xây dựng hành lang pháp lý để định hướng cho các thành phần kinh tế,
quan hệ kinh tế phát triển đúng hướng. Bên cạnh những thành tựu về sự phát
triển kinh tế - xã hội thì nền kinh tế thị trường vẫn cịn có nhiều mặt hạn chế,
khuyết tật. Điều này đặt ra vấn đề đòi hỏi hệ thống pháp luật cần phải tiếp tục
được hồn thiện. Pháp luật khơng đi ngược lại với nền kinh tế thị trường mà
là phương tiện đảm bảo bình đẳng giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Sau thời gian dài đổi mới, chúng ta đã xây dựng được một số luật tạo
khung pháp luật cho phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa; chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các doanh
nghiệp, thương gia, quyền tự do kinh doanh và tự do hợp đồng, các cơ chế



6
khuyến khích và đảm bảo đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực xã hội đã từng bước được xác lập. Hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng
có nhiều sự thay đổi tích cực nhằm phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tếxã hội của đất nước như xác nhập hợp lí các thành phần kinh tế và các cơ chế
quản lí kinh tế, các loại hình kinh doanh; tạo điều kiện phát triển đồng bộ,
quản lí có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế
cạnh tranh lành mạnh; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.
Hiện nay, do những biến động và phát triển khó lường của nền kinh tế
thị trường, hệ thống pháp luật cũng phải thường xuyên được rà soát, điều
chỉnh, bổ sung để kịp thời điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh trong xã hội,
trong nền kinh tế thị trường.
2.3 Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Nhà nước
Pháp quyền là phạm trù thuộc khoa học chính trị - pháp lý, xuất hiện
khá sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại và thực tiễn xây dựng thể chế nhà
nước ở nhiều quốc gia cả phương Đông và phương Tây. Nhà nước pháp
quyền là mơ hình quản lý xã hội trong đó pháp luật là nguyên tắc tối thượng,
mọi chủ thể trong xã hội phải tuân theo pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp
luật phải được xử lý nghiêm minh. Nhà nước pháp quyền đề cập đến mối
quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, pháp luật phải phù hợp với ý chí của
nhân dân, tơn trọng, mở rộng và bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân. Đồng thời, để đảm bảo yêu cầu thượng tôn pháp luật, pháp luật
trong nhà nước pháp quyền về mặt hình thức phải thống nhất, khả thi và minh
bạch. Trong đó Hiến pháp là đạo luật gốc, mọi văn bản pháp luật ban hành
trên cơ sở Hiến pháp và không được trái Hiến pháp. Với định hướng, mục
tiêu, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, đòi hỏi pháp luật
trong hành chính nhà nước phải hồn thiện cả nội dung và hình thức để đáp
ứng các yêu cầu trên.
Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, những tư tưởng về nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện và ghi nhận
trong các văn kiện, văn bản của Đảng và nhà nước. Trong đó, Hiến pháp năm
2013, Đạo luật cơ bản của Nhà nước và của nhân dân là văn bản ghi nhận
khoa học và đầy đủ nhất các đặc trưng của nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Theo đó, “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân” (Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013).


7
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng và Nhà
nước ta đề ra có tính phương pháp luận cho tồn bộ q trình tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta trong giai đoạn tiếp tục đổi
mới và trong suốt cả thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Nhờ đó,
trong q trình đổi mới hệ thống pháp luật, chúng ta đã nỗ lực bảo đảm
nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm làm cho pháp luật nước ta thật sự
là những đại lượng bình đẳng, cơng bằng, phản ánh được lại ích của các giai
tầng xã hội, các nhóm dân cư, trong đó Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến
nhóm xã hội bị thiệt thời, cần có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, của xã
hội như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, cư dân vùng sâu, vùng xa,
người già, người cô đơn không nơi nương tựa…
Quan điểm điều chỉnh pháp luật đó đến lượt nó địi hỏi sự đổi mới một
cách căn bản quy trình xây dựng chính sách và pháp luật nhằm khắc phục triệt
để cơ chế xây dựng pháp luật thiên về phản ánh lợi ích bộ, ngành, dành sự
thuận lợi cho cơ quan quản lý Nhà nước, đẩy sự khó khăn cho nhân dân, cho
các doanh nghiệp. Chính cơ chế đó đã dẫn đến việc trình và ban hành các dự
án Luật, Pháp lệnh, Nghị định kém chất lượng, khó đi vào cuộc sống, vì nhân
dân khơng chấp nhận các quy định được đưa ra một cách áp đặt. Sự thừa nhận
và thực hiện các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi
hỏi sự thượng tôn pháp luật trong đời sống xã hội và thực thi pháp luật trên

thực tế. Đó chính là lý do của việc tiến hành cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật. Tư duy được hình thành và củng
cố trên nền tảng tư tưởng pháp quyền chính là tư duy thực tiễn, lấy việc thực
hiện và bảo đảm lợi ích của xã hội, của con người làm thước đo hiệu quả của
pháp luật. Sự thừa nhận các giá trị pháp quyền phổ biến là cơ sở quan trọng
cho việc xây dựng và thực hiện các nguyên tắc pháp lý trong quá trình hội
nhập quốc tế. là bảo đảm pháp lý quan trọng cho việc tham gia và thực hiện
các cam kết quốc tế.
2.4 Các yếu tố truyền thống và đạo đức
Ngoài việc ban hành ra những luật mới, nhà nước còn thừa nhận những
phong tục, tập quán có sẵn, phù hợp với ý chí của nhà nước thành pháp luật
(tập quán pháp). Nói cách khác, có thể xem xét các yếu tố truyền thống như
phong tục, tập quán, đạo đức... đều có ảnh hưởng đến việc xây dựng và thực
thi pháp luật.
Phong tục tập quán là những gì đã quen thuộc, là những thói quen đã
thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày, được
mọi người công nhận và làm theo. Ở Việt Nam, các phong tục, tập quán được


8
biểu hiện cụ thể ở từng nơi, tạo nên bản sắc rất riêng của từng vùng miền. Một
xã hội dù hiện đại đến đâu cũng luôn chịu sự chi phối của phong tục, tập
quán, bởi vì, chúng là những phương án xử sự đã ăn sâu vào nếp nghĩ của con
người qua nhiều thế hệ. Do đó, những tập quán này có thể tác động tích cực
hoặc tiêu cực đến pháp luật.
Với ưu điểm gần gũi với đời sồng cộng đồng, là những thói quen đã
được hình thành từ lâu đời và được mọi người làm theo nên những phong tục
tập quán được nâng lên thành pháp luật rất dễ đi vào đời sống, nhân dân cũng
dễ dàng thực hiện hơn.
Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay, có rất nhiều điều luật

chịu ảnh hưởng của phong tục, tập quán như: Khoản 1 Điều 28 BLDS năm
2005, quy định: “Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của
cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau
thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc
của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ”. Ngoài ra,
vào dịp tết Nguyên Đán cổ truyền hoặc ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng
năm, học sinh, sinh viên, công chức nhà nước, công nhân… đều được nghỉ.
Yếu tố đạo đức cũng vậy, đặc biệt đối với xã hội Phương Đông như
Việt Nam. Pháp luật và đạo đức là hai hệ thống tắc xử sự quan trọng nhất của
mỗi xã hội. Giữa chúng ln có mối quan hệ tương tác rất mật thiết. Pháp luật
ghi nhận và bảo vệ các giá trị đạo đức. Ngược lại, đạo đức lại là tiền đề, là cơ
sở để pháp luật đi vào cuộc sống và được thực hiện.
2.5 Hội nhập quốc tế và cách mạng khoa học công nghệ
Trong xu thế tồn cầu hố, hội nhập quốc tế và cách mạng khoa học
công nghệ, mọi lĩnh vực của đời sống chính trị - kinh tế - xã hội đều chịu sự
ảnh hưởng. Pháp luật (cả về nội dung và hình thức) cũng khơng nằm ngồi sự
tác động, khi cơ sở hạ tầng chịu ảnh hưởng. Tồn cầu hố thúc đẩy q trình
hình thành xã hội thơng tin và kinh tế tri thức, cạnh tranh về kinh tế - thương
mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ,
nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao,... giữa các nước ngày càng quyết
liệt hơn buộc Nhà nước phải khơng ngừng tự đổi mới, hồn thiện quy định
pháp luật để đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình mới. Mặt khác, hội nhập
quốc tế khơng chỉ dừng trong lĩnh vực kinh tế - văn hoá - xã hội mà cũng hội
nhập ngay trong lĩnh vực xây dựng, ban hành pháp luật thông qua việc tham
gia ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế. Khoản 5 Điều 5 Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật 2015 quy định nguyên tắc xây dựng và ban hành văn
bản quy phạm pháp luật “Bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ


9

môi trường, không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
Đồng thời, trước những yêu cầu, địi hỏi khơng ngừng của cách mạng
khoa học cơng ghệ, pháp luật trong quản lý nhà nước cũng phải luôn vận
động thay đổi. Khi mà người máy đầu tiên trên thế giới được cấp quyền công
dân, những vấn đề liên quan đến quốc tịch, quyền công dân, sẽ đặt ra đối với
việc ban hành pháp luật. Khi cuộc cách mạng 4.0, tự động hoá trong các lĩnh
vực, chúng ta sẽ ứng dụng thành tựu cách mạng trong xây dựng, ban hành và
thực hiện pháp luật như nào? Những vấn đề này cần phải giải đáp và hiện hữu
trong tư duy pháp lý, trong linh hồn pháp luật thực định.
2.6 Trình độ dân trí và năng lực đội ngũ cán bộ, công chức trong
bộ máy quản lý công
Cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước là những người thực thi công
vụ trong bộ máy nhà nước. Cán bộ, công chức là một mắt xích quan trọng,
khơng thể thiếu của nền cơng vụ, là chủ thể quan trọng trong q trình thực
hiện các mục tiêu quản lý phát triển xã hội. Đội ngũ này có nhiệm vụ tổ chức
thực thi chính sách, pháp luật, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm
bảo hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước. Chính vì thế, trình độ dân trí
và năng lực đội ngũ cán bộ, công chức là một trong những nhân tố có ảnh
hưởng đến việc ban hành và tổ chức, thực hiện pháp luật trong nền công vụ.
Chất lượng pháp luật phụ thuộc rất lớn vào năng lực chuyên môn của đội ngũ
cán bộ, công chức tham mưu soạn thảo luật ở các Bộ, ngành - các đơn vị chủ
trì chính trong việc soạn thảo các dự thảo văn bản pháp luật. Thực tế trong hệ
thống pháp luật ở nước ta thời gian qua đã có nhiều văn bản quy phạm pháp
luật được ban hành nhưng không đảm bảo được tính khả thi, tính hiệu lực và
hiệu quả khi đưa vào thực tiễn cuộc sống xã hội, nhiều văn bản quy phạm
pháp luật mang nhiều khiếm khuyết về hình thức và nội dung,… Ví dụ vào
năm 2003 Bộ Công an ban hành Thông tư số 02/2003/TT-BCA (C11) trong
đó có qui định: “… Mỗi người chỉ được đăng ký 1 xe mô tô hoặc xe gắn
máy”. Thông tư này đã dẫn đến sự tranh cãi của người dân do chưa phù hợp

với hiến pháp và pháp luật, hạn chế quyền sở hữu của công dân được qui định
tại điều 58 Hiến pháp năm 1992, và khoản 1, điều 221 của Bộ luật dân sự năm
1995. Hay vào năm 2013, Bộ Y tế và Bộ Giao thông vận tải cùng nhau xây
dựng dự thảo “Thông tư liên tịch quy định tiêu chuẩn sức khỏe người lái xe,
khám sức khỏe định kỳ đối với người lái xe ô tô và quy định về cơ sở y tế
khám sức khỏe của người lái xe” trong đó có những quy định tiêu chuẩn gây
phản ứng dữ dội từ dư luận như “ngực lép”, thấp bé, nhẹ cân… không được


10
lái xe máy trên 50cm3,… Ngồi ra, cịn nhiều những văn bản quy phạm được
ban hành nhưng đều bị dư luận phản ứng dữ dội. Từ đó có thể thấy năng lực
tham mưu xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cán bộ, cơng
chức cịn nhiều hạn chế.
Mặt khác, khi xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ, quyền
của người dân trong xây, dựng ban hành pháp luật càng được đề cao. Hay nói
cách khác, người dân tham gia ngày càng nhiều vào quy trình xây dựng và
ban hành pháp luật. Vì thế, trình độ dân trí ảnh hưởng lớn đến chất lượng
pháp luật trong quản lý nhà nước.
2.7 Các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết
Xu hướng tồn cầu hóa, hội nhập sâu rộng và tồn diện hiện nay dẫn
đến mối quan hệ ngày càng sâu sắc giữa các quốc gia. Sân chơi chung quốc tế
cũng đồng thời yêu cầu, bắt buộc các thành viên trong đó phải tuân thủ những
quy định chung nhằm đảm bảo tính trật tự, ổn định và an tồn cho chính các
quốc gia đó. Điều đó cũng có nghĩa là các quốc gia đó phải tham gia các công
ước, điều ước quốc tế.
Công ước quốc tế là văn bản ghi rõ những việc cần tuân theo và những
điều bị cấm thi hành, liên quan đến một lĩnh vực nào đó, do một nhóm nước
thoả thuận và cùng cam kết thực hiện, nhằm tạo ra tiếng nói chung, sự thống
nhất về hành động và sự hợp tác trong các nước thành viên.

Các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia như: Công ước của
Liên Hợp Quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980), Cơng ước về bn
bán quốc tế về các giống lồi động thực vật có nguy cơ bị đe dọa, 1973
(20/1/1994), Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (25/7/1994) có ảnh
hưởng khơng nhỏ tới nội dung của pháp luật Việt Nam hiện nay, bởi các điều
luật trong hệ thống pháp luật phải phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia kí kết. Hệ thống pháp luật vừa phải dựa trên chủ trương,
chính sách của Đảng, phù hợp với các quan hệ xã hội và tình hình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, vừa phải điều chỉnh để đáp ứng và thỏa mãn các
yêu cầu của pháp luật quốc tế.
2.8. Các yếu tố khác
Ngồi những yếu tố chính kể trên, có thể xem xét một số yếu tố khác
như: dư luận xã hội, phương tiện thơng tin đại chúng, vai trị giám sát, phản
biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cũng là những yếu
tố có sự tác động mạnh mẽ đến xây dựng, ban hành, thực thi pháp luật trong
nền quản lý công.


11
Phần III: Kết luận
Từ những phân tích có thể thấy, mối quan hệ giữa pháp luật và quản lý
công là mối quan hệ tác động qua lại hai chiều, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.
Pháp luật quy định, chi phối các hoạt động quản lý công, là công cụ cơ bản
nhất của quản lý nhà nước và đồng thời, thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước
cũng tác động trở lại, yêu cầu hệ thống pháp luật phải thực hiện những điều
chỉnh, thay đổi, bổ sung thêm các nội dung quy định để điều chỉnh các quan
hệ xã hội mới nảy sinh.
Từ thực tiễn hoạt động xây dựng, ban hành, thực thi pháp luật trong
quản lý công ở nước ta, có thể thấy nội dung của pháp luật Việt Nam hiện nay
chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khác nhau. Mặc dù mỗi yếu tố đều có

cách thức tác động, mức độ, phạm vi tác động đến hệ thống pháp luật không
giống nhau nhưng chung quy lại, yêu cầu chung khi khi xây dựng hệ thống
pháp luật, chúng ta cần phải có cái nhìn thật tồn diện, tổng thể về các nhân tố
ảnh hưởng đến nội dung pháp luật, đồng thời phải có quan điểm lịch sử cụ thể
trong công tác nghiên cứu pháp luật, nắm bắt kịp thời sự vận động, phát triển
của kinh tế xã hội để tiến hành sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Có như
vậy thì pháp luật mới phát huy hết vai trị, tác dụng của mình, là động lực để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống văn minh con người,
thực sự là công cụ hữu hiệu nhất để nhà nước quản lý xã hội đạt hiệu lực, hiệu
quả, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, văn minh”.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. />2. Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính ban hành kèm theo Quyết
định số 2720/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 28 tháng 12
năm 2018
3. Tài liệu học tập Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
XIII của Đảng.
4. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam các năm 2009,
2013



×