Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vị trí và chức năng của gia đình. Liên hệ thực tiễn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.82 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về vị trí và chức năng của gia đình.
Liên hệ thực tiễn.

MÃ MƠN HỌC & MÃ LỚP: LLCT120405_21_2_32
NHÓM THỰC HIỆN: CHARLES FOURIER
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2022


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ 2, NĂM HỌC: 2021-2022
Nhóm Charles Fourier. Thứ 5 tiết 03, 04
Tên đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vị trí và chức năng của gia

đình. Liên hệ thực tiễn.
Họ và tên sinh viên

STT

Tỷ lệ %

MSSV


SĐT

hoàn
thành

1

100%

2

100%

3

100%

4

100%

5

100%

6

100%

7


100%

8

100%

Ghi chú:
-

Tỷ lệ % = 100%

-

Trưởng nhóm:
Nhận xét của giáo viên:

......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................

Ngày 26 tháng 05 năm 2022
Giáo viên chấm điểm

2


MỤC LỤC


3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Một xã hội được xem là thực sự phát triển khi mà các cá nhân, tập thể trong xã
hội đó hồn thiện về cả tư duy lẫn nhận thức. Điều này không thể khơng thể khơng kể
đến sự đóng góp của gia đình. Gia đình chính là một phần của xã hội. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng nói: “Gia đình là tế bào của xã hội”. Điều này luôn được chúng ta
khẳng định và trong mọi hồn cảnh thì quan điểm này cũng ln đúng. Cũng như tế
bào là thành phần chính cấu tạo nên mơ cơ thì sự liên kết của gia đình sẽ tạo nên một
xã hội. Theo Ăngghen, các mơ hình gia đình trong lịch sử ln gắn với phương thức
sản xuất và chế độ xã hội nhất định. Sự vận động, biến đổi của gia đình phụ thuộc
vào sự vận động và biến đổi của xã hội. Gia đình “là sản vật của một chế độ xã hội
nhất định, hình thức đó sẽ phản ánh trạng thái phát triển của chế độ xã hội đó”. Gia
đình chính là nơi đảm bảo vật chất, tinh thần để nuôi dưỡng mỗi cá nhân và là một
trong những giá trị cốt lõi của xã hội. Đối với sự phát triển của bất kỳ xã hội nào thì
sự phát triển của nền tảng gia đình sẽ ln quyết định đến sự thình vượng, giàu mạnh
của xã hội đó. Ngồi ra, gia đình khơng chỉ là một nơi chứ đựng đầy tình cảm mà còn
là một tổ chức kinh tế phong phú, phức tạp, nhiều biến động. Qua đó có thể thấy vị
trí, chức năng của gia đình là vấn đề đáng được quan tâm tới và đó cũng chính là lý
do mà nhóm Charles Fourier chọn đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về vị trí và chức năng của gia đình” làm đề tài cho bài tiểu luận cuối kỳ, từ đó có cái
nhìn và nhận thức đúng hơn về vị trí và chức năng của gia đình đặc biệt là trong xã
hội Việt Nam hiện nay.

4



5


2. MỤC TIÊU BÀI TIỂU LUẬN
-

Về mặt Lý thuyết:
Trình bày được những kiến thức cơ bản về quan điểm của chủ nghĩa Mác-

Lênin về vị trí, chức năng của gia đình: Khái niệm về gia đình, vị trí của gia đình, các
chức năng xã hội cơ bản của gia đình.
-

Về mặt liên hệ thực tiễn:
Làm rõ được chức năng xã hội của gia đình ở Việt Nam hiện nay.

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nhóm hướng đến là tồn bộ các gia đình ở Việt Nam và mở rộng với
thực tiễn trên thế giới. Đặt trong phạm vi từ quá khứ đến hiện tại, qua mỗi vùng lãnh
thổ, mỗi một địa phương, mỗi thành phần dân tộc khác nhau để cụ thể hố những định
hướng ấy thành các tiêu chí cụ thể nhất định để vận dụng liên hệ thực tiễn hiện nay.

6


7


CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN VỀ VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG

CỦA GIA ĐÌNH
1.1 Khái niệm về gia đình

Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trị quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, những chủ
đề nghiên cứu về gia đình ln thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, tuy nhiên hiện
nay có rất nhiều quan điểm về gia đình. Tùy theo phương pháp và cách tiếp cận, người ta
có thể đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về gia đình.
Theo C.Mác và Ăngghen, khi đề cập đến vấn đề gia đình, đã cho rằng: “Quan hệ
thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình của lịch sử: hằng ngày tái tạo đời sống của
bản thân mình, con người tạo ra những người khác, sinh sơi, nảy nở - đó là quan hệ
giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia đình.” Theo C.Mác và Ăngghen
Cơ sở hình thành của gia đình là những mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhânquan hệ chiều ngang ( vợ chồng), quan hệ huyết thống- quan hệ chiều dọc (cha,mẹ - con
cái… ( cha mẹ- con cái), Quan hệ nuôi dưỡng (cha mẹ nuôi - con nuôi). Những mối liên
hệ này tồn tại sự gắn bó, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và
tránh nhiệm của mỗi người, được quy định bởi pháp lý hoặc đạo lý.
Quan hệ hôn nhân là cơ sở, nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong gia
đình, là cơ sở pháp lí cho sự tồn tại của mỗi gia đình.
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng một dịng máu, nảy sinh từ
quan hệ hơn nhân. Đây là mối quan hệ tự nhiên, là yếu tố mạnh mẻ nhất gắn kết các
thành viên trong gia đình với nhau.

8


Gia đình là tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ hơn nhân và gia đình. Hơn nhân theo
ngun tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách
nhiệm ni dạy con thành những cơng dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và
chăm sóc ơng bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử
giữa các con.

Lịch sử nhân loại có những hình thức hơn nhân: tạp hơn, đối ngẫu, một vợ một chồng
thì cũng có các hình thức gia đình: tập thể, cặp đơi, cá thể và cũng có các loại gia đình:
một thế hệ, hai thế hệ và nhiều thế hệ.
Tóm lại, Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và
quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên
trong gia đình vì mục tiêu xây dựng gia đình bền vững
1.2. Vị trí của gia đình
1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội.

Theo như, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quyết định
trong lịch sử, quy cho đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng
bản thân sự sản xuất đó có hai loại. Một là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm,
quần áo, nhà ở và công cụ để sản xuất ra những thứ đó. Mặt khác là sản xuất ra bản
thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người
của một thời đại lịch sử nhất định và của một đất nước nhất định đang sống, là do hai
loại sản xuất quyết định: một mặt là do sự phát triển của lao động và mặt khác là do
trình độ phát triển của gia đình”.
Gia đình có vai trị quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã
hội. Gia đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Khơng có
gia đình để tái tạo ra con người và tư liệu sinh hoạt thì xã hội khơng tồn tại và phát triển
được. Chính vì vậy, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt
9


Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào bản
chất của từng chế độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn đến sự
tác động của gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được n ấm, hịa thuận trong
gia đình thì mới yên tâm cống hiến cho xã hội.

1.2.2. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá nhân của
mỗi thành viên.

Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và
chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là một mơi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được u thương, ni
dưỡng, chăm sóc, trưởng thành và phát triển thành những công dân tốt cho xã hội. Sự
hạnh phúc gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của
xã hội. Vì vậy muốn xây dựng xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ chủ tịch
nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể
các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội. Chỉ trong môi
trường yên ấm, con người mới cảm thấy bình n, hạnh phúc, có động lực phấn đấu để
trở thành cơng dân tốt.

1.2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội.

Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi con người sinh sống, ảnh hưởng rất
quan trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại không thể chỉ ở trong mối quan hệ tình cảm gia đình,
mà cịn có nhu cầu quan hệ xã hội, những con người khác ngoài các thành viên trong gia
đình. Mỗi cá nhân khơng chỉ là thành viên của gia đình mà cịn là thành viên của xã hội.
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng là quan hệ giữa các thành viên trong xã
hội. Không có cá nhân ngồi gia đình và cũng khơng có cá nhân ngoài xã hội.
10


Gia đình là mơi trường để con người học được và thực hiện quan hệ xã hội.
Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến
cá nhân. Thông tin, hiện tượng thông qua lăng kính gia đình, tác động tích cực hay tiêu

cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách,... Xã
hội nhận thức đầy đủ, toàn diện mỗi cá nhân khi xem xét họ trong các mối quan hệ gia
đình và xã hội. Có những vấn đề quản lý xã hội cần thơng qua gia đình đẻ tác động đến
cá nhân. Vì vậy, ở bất kì xã hội nào, giai cấp cầm quyền muốn quản lý xã hội theo yêu
cầu của xã hội văn minh đều quan trọng xây dựng và quản lý gia đình.
1.3. Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình
1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người:

Đây là chức năng đặc thù của gia đình, khơng một cộng đồng nào có thể thay
thế. Chức năng này khơng chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người mà
cịn, đáp ứng nhu cầu duy trì nòi giống, cung cấp sức lao động cho xã hội, thế hệ mới
đảm bảo sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người.
Việc thực hiện chức năng tái sản xuất con người diễn ra trong từng gia đình,
nhưng khơng là việc riêng của con người mà là vấn đề xã hộ. Khi thực hiện chức năng
này cần dựa vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và sự gia tăng dân
số để có chính sách phát triển nhân lực cho phù hợp.
1.3.2. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình

Gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng. Đặc thù của gia đình mà các đơn vị kinh tế khác khơng có
được là chỗ ở, gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất
sức lao động cho xã hội.
Đây là chức năng cơ bản của gia đình, bao gồm hoạt động sản xuất kinh doanh
và hoạt động tiêu dùng để thỏa mãn các nhu cầu của mỗi thành viên của gia đình.
11


Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng để duy trì sự sống của gia đình
về lao động cũng như các sinh hoạt khác. Đó là sử dụng hợp lý các khoản chi tiêu trong
gia đình nhằm đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần. Cũng như vận dụng quỹ thời gian

để tạo môi trường lành mạnh để nâng cao sức khỏe, duy trì sở thích, sắc thái của mỗi
người.
Sự tồn tại của kinh tế gia đình cịn phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng
về vốn, tay nghề, sức lao động của từng gia đình, tăng thêm của cải cho gia đình và cho
xã hội.
Thực hiện tốt tổ chức đời sống gia đình khơng những đảm bảo hạnh phúc gia
đình, hạnh phúc từng cá nhân mà cịn góp phần vào sự tiến bộ xã hội.
1.3.3. Chức năng giáo dục.

Song song với chức năng tái sản xuất con người, gia đình cịn có trách nhiệm
ni dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con
cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm với xã hội.
Gia đình có ý nghĩa qua trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối
sống của mỗi con người.
Nội dung của giáo dục gia đình bao gồm cả tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối
sống, nhân cách, thẩm mỹ … phương pháp giáo dục gia đình cũng đa dạng, song chủ
yếu bằng phương pháp nêu gương, thuyết phục về lối sống, gia phong của gia đình
truyền thống.
Chủ thể giáo dục gia đình chủ yếu là cha mẹ, ông bà đối với con cháu, cho nên
giáo dục gia dình con bao hàm cả tự giáo dục.
12


Giáo dục gia đình là một bộ phận và sự quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho giáo dục
nhà và xã hội, trong đó giáo dục gia đình đóng vai trò quan trọng được coi là thành tố
của nền giáo dục xã hội nói chung.
Thực hiện chức năng ni dưỡng, giáo dục đòi hỏi mỗi người làm cha làm mẹ
cần có kiến thức căn bản, tương đối tồn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn, đặc biệt là
phương pháp giáo dục.

1.3.4. Chức năng thõa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý, duy trì tình cảm gia đình.

Là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm: thỏa mãn tình cảm, văn hóa,
tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm sinh lý; bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe người ốm, người già, trẻ em.
Đây là chức năng có tính văn hóa – xã hội của gia đình. Chức năng này kết hợp
với cách chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho việc xây dựng gia đình hạnh phúc.
Nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính, tuổi tác, sự căng thẳng mệt mỏi về
thể xác và tâm hồn trong lao động và công tác … thì mơi trường gia đình là nơi giải
quyết có hiệu quả nhất.
Gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi nương tựa về tinh thần chứ
khơng đơn thuần là vật chất. Việc duy trì tình cảm giữa các thành viên trong gia đình có
ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia
đình bị rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.
Tóm lại: gia đình, thơng qua việc thực hiện các chức năng vốn có của mình, có
vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Các chức năng này có quan hệ mật
thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Việc phân chia chúng là tương đối. Cần tránh tư tưởng
coi trọng chức năng này coi nhẹ chức năng kia, hoặc tư tưởng hạ thấp chức năng gia

13


đình. Mọi quan điểm tuyệt đối hóa, đề cao q hay phủ nhận, hạ thấp vai trị của gia
đình đều là sai lầm.

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VỊ TRÍ VÀ CHỨC
NĂNG CỦA GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM

2.1. Liên hệ thực tiễn về vị trí của gia đình ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Gia đình là tế bào của xã hội


Gia đình có vai trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình có vai trị quyết định đối với sự hình thành và
phát triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của gia đình được tiếp nhận, phát
triển góp phần xây dựng, tơ thắm, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Đại hội XI,
Đảng ta khẳng định: “Gia đình là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và
hình thành nhân cách, góp phần chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u
nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi,
sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính.”
Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp nếu có một
mơi trường xã hội tốt. Mơi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế bào của xã hội.
Gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của gia đình mình, có trách nhiệm
ni dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những cơng dân hữu ích. Cùng với
nhà trường, gia đình tham gia tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng
lao động tương lai chất lượng cao. Gia đình chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp
14


lực lượng lao động cho xã hội. Từ những người lao động chân tay giản đơn đến lao động
trí óc... đều được sinh ra, nuôi dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.
Gia đình khơng chỉ giữ vai trị nền tảng, tế bào của xã hội mà còn là mơi trường
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con trẻ. Là nơi giữ gìn,
vun đắp, phát huy những giá trị truyền thống quý báu của con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam đã hình thành trong q trình lịch sử dựng nước, giữ nước. Đó là lòng yêu
nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học,
cần cù, sáng tạo trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử
thách... Đây cũng là nơi tiếp thu, giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc. Thông qua các câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ, cha mẹ, ơng bà là những
người thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy và từng bước giáo
dục hình thành nhân cách cho mỗi con người. Qua lao động, qua việc xử lý các mối

quan hệ hằng ngày, gia đình đã truyền thụ cho con trẻ những nét đẹp của truyền thống
gia đình, dịng họ, truyền thống văn hóa dân tộc. Từ đó mỗi cá nhân hình thành và bồi
dưỡng tinh thần u nước, lịng tự hào dân tộc, tình cộng đồng, lòng nhân ái, tinh thần tự
lực, tự cường, anh hùng trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hịa bình, chăm chỉ cần
cù trong lao động sản xuất... Gia đình cũng giữ vai trị đặc biệt quan trọng tới số lượng,
chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia.
2.1.2. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá nhân của
mỗi thành viên

Chủ tịch Hồ Chí Minh kính u đã từng nói: "Hạt nhân của xã hội là gia đình.
Chính vì muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt". Gia đình là
nơi ni dưỡng tuổi thơ, tình u quê hương đất nước và cũng là chỗ dựa tinh thần cho
mỗi người chúng ta. Từ quá khứ đến hiện tại, khi đất nước có chiến tranh hay hịa bình,
gia đình vẫn ln là một bộ phận quan trọng của xã hội, là nền tảng vững chắc góp phần
làm nên sức mạnh dân tộc. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn trân trọng, biết ơn và
dành sự tri ân sâu sắc đến các gia đình đã đóng góp, hy sinh cho Tổ quốc. Trong giai
15


đoạn phát triển mới, gia đình vẫn giữ vai trị, vị trí trung tâm trong đời sống kinh tế - xã
hội của người dân Việt Nam. Gia đình vẫn là nơi kết nối, gắn kết các thế hệ, giữ gìn,
phát huy những chuẩn mực, giá trị, tinh hoa văn hoá dân tộc, là mạch nguồn vun đắp sức
mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc. Đó là ngơi nhà an tồn nhất, vững chắc nhất cho mỗi
thành viên trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống.

16


Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp ở nước ta, nhiều cán
bộ, bác sĩ, chiến sĩ đã không quản ngại gian khổ, hiểm nguy đi vào tâm dịch. Chính gia

đình đã ln là điểm tựa, niềm tin, động viên họ vượt qua khó khăn hồn thành tốt
nhiệm vụ. Nhiều gia đình qun góp ủng hộ vật chất, tinh thần, gương mẫu, động viên
người thân chấp hành tốt chủ trương, chung sức cùng Đảng, Nhà nước và cả hệ thống
chính trị phịng, chống dịch bệnh, để Việt Nam trở thành điểm sáng được bạn bè thế giới
ghi nhận đánh giá cao.
2.1.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội

Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình nên đây là mơi trường đầu tiên có ảnh
hưởng rất quan trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng
chính trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã
hội. Sự hình thành và phát triển nhân cách con người khơng chỉ là thể hiện tình cảm đạo
đức, đạo lý của dân tộc đối với nguồn nhân lực của đất nước, mà cịn là trách nhiệm,
nghĩa vụ của tồn xã hội, của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, đồn thể, gia đình và
mỗi cá nhân. Trong đó, gia đình có vai trị hết sức quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
căn dặn: “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn. Hạt nhân
của xã hội là gia đình”. Gia đình kết nối các cá nhân với những biến đổi của xã hội, đặc
biệt trong thời kì đất nước đang phát triển theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự nghiệp xây dựng gia đình là một trách nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong chỉnh
thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội. Vì các cá
nhân khơng chỉ sống trong mối quan hệ gia đình mà họ cịn có những quan hệ xã hội.
Mỗi cá nhân khơng chỉ là thành viên của gia đình mà cịn là thành viên của xã hội. Nên
khơng thể có con người bên ngồi xã hội. Do đó, gia đình đóng vai trò quan trọng để đáp
ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗi cá nhân. Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thơng
qua gia đình để tác động đến mỗi cá nhân. Mặt khác, nhiều hiện tượng xã hội thơng qua
gia đình ảnh hưởng vào sự phát triển nhân cách của các thành viên trong gia đình. Theo
17


truyền thống Việt Nam, đàn ông thường là chủ của gia đình. Người cha là trụ cột, là biểu
hiện của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập và noi theo. Còn người mẹ

là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, nguồn lửa sưởi ấm u thương trong gia đình,
nguồn tình cảm vơ tận cho các con. Mơi trường gia đình có vai trị quyết định đến sự
phát triển của trẻ em. Để trẻ em trở thành một người có nhân cách tốt thì việc giáo dục
đóng vai trị chủ đạo. Giáo dục con cái khơng thể chỉ bằng lời nói mà phải bằng những
công việc cụ thể, mọi hành vi, thái độ, lối sống của người lớn có tác động trực tiếp tới
việc hình thành, phát triển nhân cách của trẻ em. Ngày nay, với những biến đổi của nền
kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường, văn hóa gia đình đang có biểu hiện xuống cấp vì
những tác động xấu của đời sống xã hội. Với ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế đã kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít chú trọng đời
sống tình cảm tinh thần,… Do đó chúng ta cần đặc biệt chú trọng giải quyết vấn đề gốc
rễ là giáo dục con trẻ trong gia đình. Người xưa thường nói “dạy con từ thuở cịn thơ”,
các bậc cha mẹ cần thường xuyên giáo dục con trẻ thái độ, cử chỉ, ăn nói lễ phép, kính
trên nhường dưới, tơn sư trọng đạo để khi trưởng thành con cái biết ơn sinh thành, ni
dưỡng, chăm sóc ơng bà, cha mẹ. Cha mẹ cũng cần uốn nắn, phê phán, ngăn chặn thái
độ, cử chỉ bất nhã, bất hiếu của con cái. Kết hợp giữa giáo dục truyền thống và hiện đại
và từng bước xây dựng nếp sống khoa học trong gia đình.
2.2. Liên hệ thực tiễn về chức năng của gia đình ở Việt Nam
2.2.1. Chức năng tái sản xuất ra con người

Hoạt động sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn tại của
chính con người, của xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu rất tự nhiên, chính
đáng của con người. Nhưng tốc độ gia tăng dân số, mật độ dân cư... và nhiều yếu tố khác
liên quan đến các vấn đề chiến lược và trình độ phát triển kinh tế, xã hội... Vì vậy sinh
đẻ của mỗi gia đình khơng chỉ là việc riêng của gia đình mà cịn là một nội dung quan
trọng của mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Chiến lược về dân số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra
một cách có kế hoạch nguồn nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế -xã
hội, là mục tiêu, động lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế, văn hố, xã hội.
Cơng tác kế hoạch hóa gia đình, sinh đẻ có kế hoạch được thực hiện trong nhiều
18



năm cũng làm biến đổi mạnh mẽ quy mô, cơ cấu và chức năng của gia đình. Sự chuyển
đổi từ mơ hình gia đình đơng con sang mơ hình chỉ có từ một đến hai con đã khiến cho
quy mơ gia đình thay đổi. Quy mơ gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân ngày càng trở nên
phổ biến và được khẳng định. Chỉ trong vịng 40 năm quy mơ gia đình đã giảm từ 5.22
người/hộ năm 1979 xuống cịn 4 người năm 2018.
Gia đình Việt Nam hiện nay có quy mơ ngày càng nhỏ, trung bình 3, 4 người,
cho thấy xu hướng hạt nhân hóa gia đình khá rõ nét, số lượng gia đình đơn thân tăng.
Thực tế này đặt ra những u cầu mới về vai trị chăm sóc và xây dựng gia đình bảo
đảm sự gắn kết xã hội. Tiếp cận từ gia đình nơng thơn, nghiên cứu trong mối tương
quan so sánh giữa một số tộc người thiểu số để đưa tới nhận định về sự biến đổi khá
mạnh mẽ trong cấu trúc gia đình, cũng như có sự khác biệt trong sự biến đổi này ở các
vùng khác nhau, giữa các tộc người khác nhau.
2.2.2 Chức năng kinh tế và tổ chức gia đình

Gia đình Việt Nam truyền thống là một đơn vị kinh tế độc lập, tự sản tự tiêu
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với sự tồn tại của nền kinh tế nhiều
thành phần, các gia đình đã trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ. Đảng và Nhà nước đã đề
ra các chính sách kinh tế – xã hội tạo mọi điều kiện cho cách gia đình làm giàu chính
đáng từ lao động của mình.
Ở nước ta hiện nay, kinh tế gia đình được đánh giá đúng với vai trị của nó.
Trong q trình cơng nghiệp hóa nhà nước đã và đang tạo cơ hội công bằng để tất cả
các hộ gia đình ở mọi vùng, miền, tất cả các dân tộc, khu vực thành thị và nông thơn,
nhóm hộ giàu và hộ nghèo đều có thể tham gia vào quá trình phát triển. Quan điểm này
cũng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng toàn diện mà Việt Nam đang hướng tới, đó là
“khơng ai bị bỏ lại phía sau” trong q trình phát triển. Chính phủ cần nắm bắt đúng
xu hướng biến đổi chức năng kinh tế của gia đình để có những chính sách phù hợp, thúc
đẩy những yếu tố tích cực và giảm thiểu những yếu tố tác động tiêu cực tới chức năng
kinh tế gia đình. Nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội lấy gia đình là
trọng tâm, đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế gia đình. Khuyến khích các

19


thành viên trong gia đình hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh cũng như trong
cuộc sống nhằm duy trì giá trị truyền thống gắn kết giữa các thành viên trong gia đình
Việt Nam.
Theo thống kê , thu nhập bình quân một người/tháng năm 2020 ở khu vực thành thị đạt
5,538 triệu đồng, cao gấp gần 1,6 lần khu vực nông thôn (3,480 triệu đồng).
Thực hiện chức năng kinh tế tốt sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất cho tổ chức
đời sống gia đình
Việc tổ chức đời sống gia đình chình là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập
của các thành viên và thời gian nhàn rỗi để tạo ra mơi trường văn hóa lành mạnh trong
gia đình, đời sống vật chất của mỗi thành viên được đảm bảo sẽ nâng cao sức khỏe của
các thành viên đồng thời cũng duy trì sắc thái, sở thích riêng của mỗi người.
2.2.3 Chức năng giáo dục

Từ khái niệm chức năng giáo dục của gia đình, ta thấy những đặc điểm về mặt
chủ thể, cách thức, mục tiêu hướng tới việc thực hiện chức năng này:
Thứ nhất, về mặt chủ thể thực hiện chức năng giáo dục của gia đình là các cá
nhân có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng, đó thường là những người
sống chung một mái nhà và việc tạo dựng gia đình dựa trên các căn cứ pháp lý.
Thứ hai, mục tiêu của việc thực hiện chức năng giáo dục trong gia đình nhằm
định hướng, nâng cao nhận thức về mặt đạo đức, lối sống mà không nhấn mạnh tới các
kiến thức văn hóa như giáo dục tại nhà trường.
Thứ ba, chức năng giáo dục của gia đình khơng chỉ giới hạn trong việc cha mẹ
bảo ban, dạy dỗ con về hành vi ứng xử, đạo đức mà còn được thể hiện qua sự chỉ bảo,
hướng dẫn học tập và đặc biệt là tạo điều kiện cho con thực hiện quyền học tập của
mình. Do đó, con cái cũng có nghĩa vụ góp phần thực hiện chức năng giáo dục của gia
đình.
Ở nước ta trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gia đình đã được đánh

giá là một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội.
Việc tổ chức gia đình tốt và giáo dục trong gia đình chu đáo sẽ có tác động sâu sắc đến
20


việc hình thành nhân cách con người, tạo tiền đề quan trọng để cung cấp nguồn nhân
lực đáp ứng với yêu cầu của đất nước trong quá trình phát triển. Nhà nước đã quan tâm
sâu sắc tới sự phát triển của mỗi gia đình và đưa ra các chính sách, quy định hướng tới
xây dựng gia đình “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững”. Đây
là mục tiêu hướng tới sự phát triển toàn diện trong mỗi tế bào của xã hội, bởi thực hiện
tốt điều này tức là chúng ta đã làm tốt việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội… Đặc
biệt, ngày 28/6 được chọn là ngày gia đình Việt Nam nhằm kỷ niệm và nhắc nhở các
thành viên trong xã hội nhớ và hướng tới các giá trị tốt đẹp của gia đình.
Về phía cộng đồng, phong trào như “kế hoạch hóa gia đình”, cơng tác chăm
sóc và giáo dục trẻ em… đã có những bước tiến đáng kể trong những năm qua. Ở nhiều
địa phương, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng có xu hướng giảm, tỷ lệ trẻ em được đến
trường, trẻ được tiêm chủng theo chương trình tiêm chủng quốc gia, và ý thức người
dân về chăm sóc và giáo dục trẻ em được tăng cao…
Về phía gia đình, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển không
ngừng của nền kinh tế, sự thay đổi bộ mặt chung của xã hội, giáo dục gia đình thể hiện
tính đa dạng và nhiều chiều. Giáo dục gia đình khơng chỉ gồm những ảnh hưởng từ phía
cá nhân đối với cá nhân (giữa cha mẹ với con cái, giữa ông bà với cháu) mà còn bao
gồm ảnh hưởng của cả tập thể gia đình liên kết với nhau tác động từng cá nhân qua lối
sống, nếp sống, ở mỗi gia đình. Tính đa dạng cịn thể hiện qua phương pháp giáo dục,
khơng chỉ bằng lý thuyết mà cịn bằng thực tiễn. Tính nhiều chiều trong giáo dục gia
đình thể hiện qua việc các thành viên của gia đình tiếp xúc rộng rãi với các mối quan hệ
trong xã hội và có sự giáo dục lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình khơng phân
biệt thế hệ, giới tính… Điều này mang tới những dấu hiệu tích cực trong việc thực hiện
chức năng giáo dục của gia đình. Việc giáo dục trong gia đình giờ đây trở nên sinh
động, phong phú, phù hợp với tâm lý, nhu cầu của mỗi thành viên trong gia đình.

Về phía mỗi cá nhân, bên cạnh việc giữ gìn những thói quen đẹp của gia đình
truyền thống, các cá nhân ln cố gắng thu xếp dành thời gian cho gia đình, cùng nhau
chia sẻ những kiến thức, những kỷ niệm, qua đó tăng cường được sự gắn bó và kết hợp
21


việc thực hiện chức năng giáo dục giữa các thành viên trong gia đình.

22




Hạn chế
Về phía gia đình, nhiều phụ huynh cịn thiếu kiến thức, kinh nghiệm và thời

gian dành cho giáo dục con cái. Mặt khác nhiều gia đình đang lúng túng trong cách giáo
dục con cái. Sự thay đổi của xã hội cũng như những ảnh hưởng của cuộc sống hiện đại
tới mỗi thành viên trong xã hội đã khiến nhiều gia đình khó khăn trong việc giáo dục
con em mình, và phó mặc cho nhà trường, xã hội. Bên cạnh đó, những hồn cảnh đặc
biệt của gia đình như cha mẹ ly hơn, bất hồ, bạo hành… sẽ dẫn tới hành vi rối nhiễu,
trầm cảm, tâm lý lệch lạc, phạm pháp… của trẻ em sau này.
Cách thức giáo dục của gia đình hiện nay vẫn cịn những cịn nhiều bất cập.
Trong gia đình, tình trạng giáo dục trẻ bằng sự trừng phạt hay vũ lực còn tồn tại với tỷ lệ
khá lớn. Một khảo sát cho thấy, có 12,2% số người được hỏi đồng ý với sử dụng đòn roi
trong việc giáo dục con cái, 34% cho rằng “tùy mức độ” mà có thể đánh địn, như vậy
người dân vẫn còn quan điểm giáo dục bằng vũ lực. Nhiều người cịn quan niệm rằng
chồng có quyền “dạy” vợ con mình bằng cách sử dụng vũ lực” Mặc dù việc dùng vũ lực
ở những mức độ khác nhau, có thể để lại hậu quả nghiêm trọng về thể chất hoặc tinh
thần. Cần xem xét những hoàn cảnh đặc biệt của gia đình và cách cư xử của các thành

viên trong gia đình (đặc biệt giữa cha mẹ và con cái) để có những hoạt động giáo dục
thích hợp và đạt hiệu quả.
Trong xã hội, sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo đã dẫn đến nhiều trẻ em
trong các gia đình nghèo bị thất học, phải rời xa gia đình lao động giúp việc cho gia đình
khá giả khác, phải làm việc nặng nhọc... dẫn đến không được tiếp nhận hoặc tiếp nhận
không đầy đủ sự giáo dục của gia đình. Cùng với đó, hiện tượng coi thường giáo dục gia
đình đang xảy ra ngày càng nhiều tác động đáng kể tới sự phá vỡ nền tảng đạo đức gia
đình. Hiện tượng buông lỏng giáo dục phẩm chất đạo đức và cách ứng xử đúng đắn, tình
nghĩa đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực.

23


Ở nông thôn cách nuôi dạy con trẻ sớm tự lập, mạnh mẽ, gần gũi chan hòa với thiên
nhiên hơn. Ngược lại trẻ thành phố lại có cơ hội tiếp cận với phương pháp giáo dục tiên
tiến trên thế giới. Trẻ sẽ được đầu tư học ngoại ngữ, năng khiếu, ca múa, vẽ để phát huy
tối đa tiềm năng ngay từ khi con nhỏ. Trẻ em thành thị thì ở trường các em được thầy cơ
dạy phải ngoan ngỗn, sống hịa thuận, u thương ơng bà, cha mẹ, anh chị em. Hay
dạy trẻ gần gũi, thân tình với thơn xóm, láng giềng, quan tâm giúp đỡ mọi người,…
Nhưng nếu hỏi một đứa trẻ ở thành thị tên người nhà bên cạnh là gì thì chưa chắc các
cháu đã biết. Ngược lại ở nông thôn, khi hỏi một người ở “đầu làng, cuối xóm”, thậm
chí ở xã bên cạnh là ai thì các cháu vẫn có thể nói vanh vách.
2.2.4 Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm – sinh lý , duy trì tình cảm gia đình

Đề cao vai trị của các giá trị đạo đức và các giá trị đó chi phối hầu hết các mối
quan hệ của gia đình.
Sự thương u, chăm sóc con cái hết lịng của cha mẹ đối với con cái, sự hiếu
thảo của con cái với cha mẹ; sự gắn bó và yêu thương nhau giữa anh chị em, sự thuỷ
chung, hồ thuận trong tình nghĩa vợ chồng
Những tình cảm đối với gia đình cũng là cội nguồn của tình làng xóm q

hương và xa hơn là tình yêu đất nước: "cáo chết ba năm quay đầu về núi". Gia đình là
nơi sẻ chia, cảm nhận, của mỗi thành viên trong gia đình. Là nơi dừng chân sau một
ngày làm việc mệt mỏi. Là sự gắn kết yêu thương của con người.
Trong mối quan hệ vợ chồng phải có sự thủy chung trong quan hệ vợ chồng , tơn trong
và u thương lẫn nhau, có trách nhiệm trong việc chăm sóc ni day con cái đóng góp
tài chính , lắng nghe cùng nhau thảo luận những vấn đề chung hòa nhã với nhau.

24


KẾT LUẬN
Trải qua q trình nghiên cứu, phân tích lý luận chung về gia đình, các giá trị và
thực trạng của các gia đình Việt Nam hiện nay, nhóm đã rút ra được nhiều bài học
cũng như là hiểu thực sự rõ các vấn đề bất cập xoay quanh. Trên cơ sở đó nhóm đưa
ra một số định hướng cụ thể dựa trên tiêu chí gìn giữ và phát huy các giá trị tốt đẹp
của gia đình truyền thống Việt Nam, đồng thời tiếp thu, dung hòa những giá trị tiến bộ
của thời đại mới.
Như vậy, gia đình là lĩnh vực mà mọi người đều có thể tham gia với tư cách là
thành viên, là bao gồm cả kinh tế, văn hóa đây có thể coi là một chủ đề phong phú,
đồng thời hàm chứa nhiều phức tạp, mâu thuẫn, cụ thể giữa những giá trị truyền thống
và giá trị mới luôn biến động theo thời đại, sự xung đột tư tưởng, quan điểm giữa thế
hệ trẻ và thế hệ cha ơng. Nhất là trong thời kì q độ lên xã hội chủ nghĩa, gia đình là
vấn đề cực kì quan trọng mà Đảng và Nhà nước phải quan tâm. Chúng ta cần tập
trung đề ra chiến lược hợp lí vào các vấn đề sau: củng cố và xây dựng gia đình; phát
triển kinh tế hộ gia đình; phát triển giáo dục; có chính sách y tế tích cực cho gia đình;
đẩy mạnh cơng tác xóa đói giảm nghèo; tăng cường kế hoạch hóa gia đình; tiếp tục
mở rộng tun truyền, phổ cập kiến thức góp phần tạo lập sự bình đẳng giới, bình
đẳng giữa cha mẹ và con cái trong gia đình và xã hội…
Gần đây, chúng ta thấy có nhiều gia đình tổ chức họp họ, giỗ tổ, viếng lại để nhớ
về tổ tiên, tôn vinh truyền thống gia phong nhằm mong cho con em noi gương cha

ông ngày càng phấn đấu, nỗ lực trong học tập, lao động, với động lực tinh thần thiêng
liêng là biết ơn về cha ơng dịng tộc mình. Đối với Việt Nam gia đình khơng chỉ có là
một niềm tự hào mà cịn có là điểm tựa tinh thần chống lại sự tha hóa, phấn đấu cho
tương lai. Tuy nhiên, hiện có khơng ít người chưa nhận thức được hết ý nghĩa, tầm
quan trọng và vai trị của gia đình, khơng quan tâm vung đắp gia đình một cách tồn
diện, đặc biệt là trong thời buổi Việt Nam đẩy mạnh hội nhập, cơng nghiệp hóa hiện
đại hóa. Phải thừa nhận rằng, đất nước ta đã có những biến chuyển đáng kinh ngạc
trên con đường hội nhập ngần ấy năm qua về tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội,
25


×