Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tieu luan mon tu tuong HCM ve CNXH tư tưởng hồ chí minh về chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của đảng ta trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.1 KB, 25 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC IV

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

ĐỀ TÀI:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN NAY

Họ và tên học viên: M ………..
Lớp: Cao học Xây dựng Đảng và CQNN, hệ không tập trung
Mã học viên: MP 22

ST – 202…


MỤC LỤC
Mở đầu
………..……………………………………………...
Chương 1 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ

Trang
1

1.1
1.2
1.3


CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Khái quát về chủ nghĩa xã hội
Tính tất yếu của Chủ nghĩa xã hội
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đặc trưng, bản

4
4
5
6

1.4

chất của Chủ nghĩa xã hội
Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của

Chủ nghĩa xã hội
Chương 2 SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN TU TƯỞNG HỒ

9

CHÍ MINH CỦA ĐẢNG TA TRONG XÂY DỰNG
2.1.

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN NAY
Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và vận dụng

14

sáng tạo vào điều kiện thực tiễn từng giai đoạn của Việt
14


2.2.

Nam
Phương hướng và những nhiệm vụ cơ bản trong xây dựng

16

2.3

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Vận dụng vào thực tiễn đối với tỉnh Sóc Trăng trong giai
đoạn hiện nay
……………………………………………………………

19
22

Kết luận

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………….

23


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
theo tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở

vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là các luận điểm về
bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách
quan của thời kỳ quá độ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình
thức, bước đi và biện pháp tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam
cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng
thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ
nghĩa xã hội phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời
đại ngày nay.
Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (12-1986) là kết quả của sự tổng kết những vấn đề lý
luận và thực tiễn trong phong trào cách mạng của nước ta sau năm 1975.
Trong những năm đát nước đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo
toàn Đảng, toàn dân thực hiện Cương lĩnh, đường lối xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đã đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những
thời cơ, vận hội, nước ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn
cả trên bình diện quốc tế, cũng như từ các điều kiện thực tế trong nước tạo
nên. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội là rất cần thiết. Vì vậy, tơi đã
chọn vấn đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng
của Đảng ta trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay” để viết tiểu luận hết
học phần.


2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Tiểu luận làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn tư

tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội; trên cơ sở đó đề xuất phương hướng
và giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện
nay.
- Nhiệm vụ: phân tích những vấn đề liên quan đến quá trình xây dựng và
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội; những giá trị của tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng ta trong
giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội; quá trình vận dụng của Đảng ta trong công cuộ xây
dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Tính tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc trưng,
bản chất, mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Tiểu luận thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng các phương pháp, như
phân tích - tổng hợp, lịch sử - lơgíc, khái qt hố, trừu tượng hóa. Ngồi ra,
tác giả cịn kết hợp một số phương pháp khác, như hệ thống hoá, đối chiếu, so
sánh... để làm rõ vấn đề mà tiểu luận đề cập đến.
5. Ý nghĩa của lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận: Ở mức độ nhất định, tiểu luận góp phần làm rõ thêm
những vấn đề có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội nói riêng và dự vận dụng của Đảng ta trong xây
dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.



3
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của tiểu luận có thể được sử dụng
như một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội và xây dựng đường lối lãnh đạo khoa học, đúng đắn đối với từng
địa phương ở Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
bao gồm 2 chương, 7 tiết.


4
Chương 1
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Khái quát về chủ nghĩa xã hội
V.I.Lênin (1870-1924) là người đã kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp
cách mạng và khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen; tiếp tục bảo vệ, vận dụng
và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa và trong hoàn cảnh mà chủ nghĩa Mác đã giành ưu thế trong phong
trào công nhân quốc tế.
Nếu công lao của C.Mác và Ph.Ăngghen là làm cho chủ nghĩa xã hội từ
không tưởng thành khoa học thì cơng lao của V.I.Lênin là đã làm cho chủ
nghĩa xã hội từ lý luận thành hiện thực, được đánh dấu bằng sự ra đời của nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới - Nhà nước Xơviết (1917).
Những đóng góp to lớn của V.I.Lênin vào sự vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa xã hội khoa học được chia thành hai thời kỳ cơ bản: thời kỳ
trước Cách mạng Tháng Mười Nga và thời kỳ từ Cách mạng Tháng Mười
Nga đến năm 1924.
Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin, dưới sự lãnh đạo
của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã tìm ra con

đường phát triển mang tính đặc thù - đó là con đường q độ bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Cách thức phát triển này cho phép giải quyết một cách triệt để mâu thuẫn dân
tộc và mâu thuẫn giai cấp của xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Như vậy,
con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh sự lựa
chọn khách quan của chính thực tiễn - lịch sử dân tộc mang đậm tính đặc thù
của Việt Nam đã được khẳng định.
Trong bài viết ngày 16/5/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có
nêu: “Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên
cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân


5
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và
giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
1.2. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của lịch sử loài người.
Đến với ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh khơng chỉ tìm
thấy con đường cứu nước đúng đắn, mà cịn tìm thấy phương hướng đi tới của
cuộc cách mạng sau khi đã giành được độc lập dân tộc, đó chính là mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Con đường tiến tới CNXH của các dân tộc là con đường chung của

thời đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi”. Do đó, nước ta cũng tất yếu đi
lên CNXH. Khẳng định tính tất yếu đi lên CNXH của cách mạng Việt Nam
trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ những luận chứng sau:
- Dựa vào học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Người khẳng định, sự ra
đời của CNXH là một tất yếu, nguyên nhân sâu xa là sự phát triển của sức sản
xuất xã hội (lực lượng sản xuất - LLSX). Sự ra đời của CNXH là do nhu cầu
giải phóng con người một cách triệt để theo 3 trình độ từ thấp đến cao: giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng từng cá nhân để hình thành
những nhân cách phát triển tồn diện. Sự ra đời của CNXH là một tất yếu đạo
đức xã hội. Người lý giải theo quy luật đấu tranh giữa thiện - ác, tốt - xấu và
quy luật chung là cái thiện, cái tốt nhất định sẽ chiến thắng cái ác, cái xấu.


6
Trong Thưởng thức chính trị, Người viết: Chủ nghĩa cộng sản (CNCS)
ra đời thì lúc đó mọi người đều sống có đạo đức. Sự ra đời của CNXH là một
tất yếu của văn minh nhân loại.
- Việc khẳng định Việt Nam tất yếu đi lên CNXH trong tư tưởng
Hồ Chí Minh không chỉ dựa trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, mà
còn bằng việc tiếp cận, so sánh thực tiễn các cuộc cách mạng tư sản thời
cận đại với Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga năm 1917. Ở tác phẩm
“Đường cách mệnh” (1927), Người đã chỉ ra bản chất các cuộc cách
mạng tư sản thời cận đại như: Cách mạng Mỹ 1776, Cách mạng Pháp
1789,... là những cuộc các mạng không triệt để, không thể đem lại quyền
lợi cho nhân dân lao động. “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn
150 năm nay nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh
lần thứ hai”. Hồ Chí Minh nhận thấy Cách mạng XHCN Tháng Mười
Nga là cuộc cách mạng khác hẳn về bản chất so với cách mạng tư sản.
Người đánh giá: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga đã thành
cơng, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh

phúc tự do, bình đẳng thật”.
- Thực tế các dân tộc châu Á có những đặc điểm khác châu Âu, Hồ Chí
Minh đặt câu hỏi: “Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và
ở Đơng Dương nói riêng khơng? Đây là vấn đề mà chúng ta đang quan tâm
hiện nay”.
1.3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đặc trưng, bản chất
của chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh có quan điểm tổng qt khi coi CNCS, CNXH như là một
chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong đó con người
được phát triển tồn diện, tự do. Trong một xã hội như thế, mọi thiết chế, cơ
cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con người.
Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về CNXH ở Việt Nam trên
một số mặt nào đó của nó, như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…Với cách


7
diễn đạt như thế của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, chúng ta khơng nên
tuyệt đối hóa từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng mặt của nó mà cần đặt trong
một tổng thể chung. Chẳng hạn, khi nói chuyện tại Lớp hướng dẫn giáo viên
cấp 2, cấp 3 và Hội nghị sư phạm, tháng 7/1956, Hồ Chí Minh cho rằng:
“CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng v.v. làm của chung. Ai làm nhiều
thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai khơng làm thì khơng ăn, tất nhiên là trừ
những người già cả, đau yếu và trẻ con”. Khi nhấn mạnh mặt kinh tế, Hồ Chí
Minh nêu chế độ sở hữu cơng cộng của CNXH và phân phối theo nguyên tắc
của chủ nghĩa Mác - Lênin là làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có
phúc lợi xã hội. Về mặt chính trị, Hồ Chí Minh nêu chế độ dân chủ, mọi
người được phát triển tồn diện với tinh thần làm chủ.
Hồ Chí Minh nêu CNXH ở Việt Nam trong ý thức, động lực của toàn dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng một xã hội như thế
là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, động lực của toàn dân tộc. Cho nên, với

động lực xây dựng CNXH ở Việt Nam, sức mạnh tổng hợp được sử dụng và
phát huy, đó là sức mạnh tồn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Hồ Chí Minh xác định những đặc trưng chủ yếu của CNXH, gắn với điều
kiện thực tế của Việt Nam cũng trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin, nghĩa là
trên những mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cịn về cụ thể, chúng ta
thấy Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau đây:
- Đó là một chế độ chính trị do nhân dân là chủ và làm chủ
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ
và nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa
trên khối đại đồn kết tồn dân mà nịng cốt là liên minh cơng-nơng-lao động
trí óc, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân
đoàn kết thành một khối thống nhất để làm chủ nước nhà. Nhân dân là người
quyết định vận mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ XHCN.
Hồ Chí Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực.


8
CNXH chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh
của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
- CNXH là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với
sự phát triển của khoa học-kỹ thuật
Đó là xã hội có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao
động xã hội cao, sức sản xuất luôn luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa
học - kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học - kỹ thuật của
nhân loại.
- Chủ nghĩa xã hội là chế độ khơng cịn người bóc lột người
Đây là một vấn đề được hiểu như là một chế độ hồn chỉnh, đạt đến độ
chín muồi. Trong CNXH khơng cịn bóc lột, áp bức bất cơng, thực hiện chế
độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo

lao động. Đó là một xã hội được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.
- CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức
Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, cơng bằng, bình
đẳng, khơng cịn áp bức, bóc lột, bất cơng, khơng cịn sự đối lập giữa lao động
chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nơng thơn, con ngời được giải
phóng, có điều kiện phát triển tồn diện, có sự hài hịa trong phát triển của xã
hội và tự nhiên.
- Các dân tộc trong nước đồn kết, bình đẳng và cùng giúp nhau cùng
tiến bộ
Hội nghị Trung ương bảy (khóa IX) về cơng tác dân tộc đã cụ thể nhiệm
vụ: “Phát triển tồn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển,
bồi dưỡng nguồn nhân lực, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số;
giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam
thống nhất”.


9
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội
miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là sự nghiệp chung của nhân dân
cả nước, của nhân dân các dân tộc không phân biệt là dân tộc đa số hay thiểu
số. Vì lợi ích trực tiếp của nhân dân các dân tộc thiểu số, đồng thời vì lợi ích
chung của cả nước, Nhà nước đã và đang bố trí vốn đầu tư thích đáng hơn cho
địa bàn quan trọng này. Trước mắt, tập trung đầu tư cho phát triển giao thông
vận tải, thông tin liên lạc, điện và nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt của
dân cư, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế… nhằm xóa đói giảm nghèo, cải
thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
- CNXH có quan hệ hịa bình, hữu nghị, hợp tác với nhân dân lao động

các nước trên thế giới.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế
thừa các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng
CNXH. CNXH là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân loại.
Hồ Chí Minh quan niệm CNXH là sự tổng hợp quyện chặt ngay trong cấu
trúc nội tại của nó, một hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ
xã hội, đó là độc lập, tự do, bình đẳng, cơng bằng, dân chủ, bảo đảm quyền
con người, bác ái, đồn kết, hữu nghị… Trong đó có những giá trị tạo tiền đề,
có giá trị hạt nhân. Tất cả những giá trị cơ bản này là mục tiêu chủ yếu của
CNXH. Một khi tất cả các giá trị đó đạt được thì lồi người sẽ vươn tới lý
tưởng cao nhất CNXH, đó là “liên hợp tự do của những người lao động” mà
C.Mác, Ph.Ăngghen đã dự báo. Ở đó, cá tính của con người được phát triển
đầy đủ, năng lực con người được phát huy cao nhất, giá trị con người được
thực hiện toàn diện. Nhưng theo Hồ Chí Minh, đó là một q trình phấn đấu
khó khăn, gian khổ, lâu dài, dần dần và không thể nơn nóng.
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của
CNXH
- Mục tiêu của CNXH: Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của CNXH và
mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh


10
phúc cho nhân dân; đó là là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành.
Từ cách đặt vấn đề này, theo Hồ Chí Minh, hiểu mục tiêu của CNXH,
nghĩa là nắm bắt nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã
hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng. Tiếp cận CNXH về phương diện mục
tiêu là một nét thường gặp, thể hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận
khái quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục tiêu của

CNXH. Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “Mục đích của CNXH là gì?
Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Hoặc “mục đích
của CNXH là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. Có khi Người
nói một cách gián tiếp, khơng nhắc đến CNXH, nhưng xét về bản chất, đó
cũng chính là mục tiêu của CNXH theo quan niệm của Người. Kết thúc bản
Di chúc, Hồ Chí Minh viết: Điều mong muốn cuối cùng của tơi là: Tồn
Đảng, tồn dân, tồn qn ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt
Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của CNXH là nâng cao đời
sống nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người,
muốn nâng cao đời sống nhân dân, phải tiến lên CNXH. Mục tiêu nâng cao
đời sống tồn dân đó là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính
chất XHCN của các lý luận CNXH và chính sách thực tiễn.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của CNXH trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước
là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: Dân chủ với nhân
dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó khơng tách rời
nhau, mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải


11
phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác lại yêu
cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân,
chống lại chế độ XHCN.
+ Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của CNXH chỉ
được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh

tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế XHCN với công - nông nghiệp hiện
đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo CNTB được bỏ dần, đời
sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
+ Mục tiêu văn hóa - xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu
cơ bản của cách mạng XHCN. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần
của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân
trí, xây dựng phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành
vệ sinh phịng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục
phong tục tập quán lạc hậu…
Về bản chất của nền văn hóa XHCN Việt Nam, Người khẳng định: “Phải
XHCN về nội dung”; để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ
quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương
châm xây dựng nền văn hóa mới là: “Dân tộc, khoa học, đại chúng”.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng XHCN là đào
tạo con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc
xây dựng chính là con người. Trong lý luận xây dựng con người XHCN, Hồ
Chí Minh quan tâm trước hết mặt tư tưởng. Người cho rằng: “Muốn có con
người XHCN, phải có tư tưởng XHCN”, tư tưởng XHCN ở mỗi con người là
kết quả của việc học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, nâng cao
lòng yêu nước, yêu CNXH. Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn
tạo điều kiện để mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã
hội. Tuy vậy, Hồ Chí Minh ln gắn tài năng với đạo đức. Theo Người, “có
tài mà khơng có đức là hỏng”; dĩ nhiên, đức phải đi đơi với tài, nếu khơng có
tài thì không thể làm việc được. Cũng như vậy, Người luôn gắn phẩm chất


12
chính trị với trình độ học vấn, chun mơn, nghiệp vụ trong đó “chính trị là
tinh thần, chun mơn là thể xác”.
- Các động lực của CNXH: Để thực hiện những mục tiêu đó, cần phát

hiện những động lực và những điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở
thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH, nhất là những động lực
bên trong, nguồn nội lực của CNXH.
Theo Hồ Chí Minh, những động lực đó biểu hiện ở các phương diện: Vật
chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh. Người khẳng định, động lực quan
trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động, nịng cốt là cơng
- nơng - trí thức. Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng,
thiết thân của họ; đồng thời chăm lo bồi dưỡng sức dân. Đó là lợi ích của
nhân dân và từng cá nhân.
Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dới sự lãnh đạo
của Đảng, thực hiện chức năng quản lý xã hội, đưa sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội đến thắng lợi. Người đặc biệt quan tâm đến hiệu lực của tổ chức,
bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết của
đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương tới địa phương.
Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất,
kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà
trở nên giàu có, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa,
khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần khơng thể thiếu của chủ nghĩa
xã hội.
Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết
định đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động
lực ca chủ nghĩa xã hội.
Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp được với
sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những
thành quả khoa học - kỹ thuật thế giới …


13

Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là ở chỗ
bên cạnh chỉ ra các nguồn động lực phát triển của CNXH, Người còn lưu ý,
cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn năng lượng vốn
có của CNXH, làm cho CNXH trở nên trì trệ, xơ cứng, khơng có sức hấp dẫn,
đó là tham ơ, lãng phí, quan liêu...mà Người gọi đó là “giặc nội xâm”.
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết
định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế, Người hay nêu cao tinh
thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng ln ln chú trọng
tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công CNXH trên cơ
sở bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, chung sống hịa bình và phát triển.


14
Chương 2
SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN TU TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA
ĐẢNG TA TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN NAY
2.1. Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và vận dụng sáng
tạo vào điều kiện thực tiễn từng giai đoạn của Việt Nam
Hơn 91 năm qua, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH, con
đuờng đi lên CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, lãnh đạo nhân
dân ta giành đuợc những thắng lợi hết sức to lớn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
CNXH và con đường và con đường đi lên CNXH đã trở thành tư tưởng chỉ
đạo, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hịa
bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ trang, tranh
chấp lãnh thổ, khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo... đang diễn ra ở
nhiều nơi. Cách mạng khoa học cơng nghệ và tồn cầu hóa tạo cơ hội cho các

nuớc phát triển, nhưng cạnh tranh, tranh giành thị truờng, các nguồn nguyên
liệu, năng lượng, nguồn lực khoa học cơng nghệ giữa các quốc gia, các tập
đồn kinh tế diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia, nhất là các nước đang và kém
phát triển trước những thách thức gay gắt. Ở trong nước, bên cạnh thững
những thành tựu có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đã giành được
trong sự nghiệp đổi mới, làm tăng thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước,
chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức to lớn. Chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chậm. Các cân đối kinh tế lớn, ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật vững
chắc. Một số lĩnh vực xã hội còn những mặt yếu kém như giáo dục, đào tạo,
khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, quản lý các hoạt động văn
hóa, bảo đảm trật tự an tồn xã hội, an tồn giao thơng; tệ tham nhũng, lãng
phí chậm được khắc phục, gây bức xúc trong nhân dân. Các thế lực thù địch,
cơ hội chính trị chống phá ta hết sức quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi,


15
thâm độc. Thêm vào đó, mặt trái của cơ chế thị truờng tác động làm suy thoái
tư tưởng, đạo đức, lối sống của khơng ít cán bộ, đảng viên... làm ảnh hưởng
đến lòng tin của nhân dân với Đảng, chế độ.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta, nhân dân ta khẳng định kiên định và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền CNXH, mục tiêu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
lựa chọn và được lịch sử phát triển của dân tộc ta chứng minh: chỉ có con
đường XHCN mới bảo đảm cho dân tộc ta có nền độc lập thật sự, đất nước ta
phát triển ổn định, phồn vinh, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó
là con đường đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, trong hồn cảnh
mới, Đảng ta tiếp tục tìm tịi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở nước ta. Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng, được

khẳng định trong Cương lĩnh và văn kiện các kỳ đại hội của Đảng, là xã hội
dân giàu, nuớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con nguời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển tồn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân, do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đảng ta luôn xác định xây dựng CNXH ở nước ta là một quá trình cải
biến cách mạng sâu sắc, triệt để, một cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và
cái mới để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Vì vậy, nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, nhiều bước
phát triển, không thể đơn giản, chủ quan, nóng vội.


16
2.2. Phương hướng và những nhiệm vụ cơ bản trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Để thực hiện thành công mục tiêu xã hội XHCN, kế thừa và phát triển
các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra các phương
hướng và nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để
từng buớc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH; không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ
của nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, phát triển mạnh các
ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng dựa nhiều vào tri thức; phát
triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nhất là những ngành có
lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững;

nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia có hiệu
quả vào dây chuyền sản xuất và mạng lưới phân phối tồn cầu. Đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn; phát triển nơng - lâm ngư nghiệp một cách tồn diện, hiệu quả, bền vững gắn với giải quyết đồng
bộ các vấn đề của nông dân, nông thôn. Phát triển nhanh các ngành dịch vụ,
nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, các dịch vụ có
giá trị gia tăng cao. Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thơng,
điện, nuớc, các cơng trình xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu
phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng đồng
bằng, trung du và miền núi, ven biển, đảo và hải đảo, thành thị và nông thôn.
Thứ hai, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có
hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát
triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp; các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được coi trọng,
hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trị chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể, ngày càng trở thành


17
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế đi đơi với
phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa đói, giảm nghèo. Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; tạo
lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường, định hướng phát triển,
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
Thứ ba, chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở
thành nền tảng, giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong

nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân
chủ, cơng bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với
trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Đấu tranh chống
tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc.
Thứ tư, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phịng tồn
dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng, an ninh; xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lực lượng dự bị động viên, dân quân
tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao; xây dựng nền cơng nghiệp quốc phịng,
an ninh bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị ngày càng hiện đại;
để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững
hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ
động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các
thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Thứ năm, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, thuận lợi


18
cho sự phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Thứ sáu, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện và phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc
sống ở tất cả các cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền lực đều
thuộc về nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ chế,

chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; mọi cán bộ, công chức
đều là công bộc của nhân dân. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Lấy mục
tiêu xây dựng nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh
thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh để tập hợp,
đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tơn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngồi.
Thứ bảy, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là
của nhân dân, Nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội;
giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp; có đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất và năng lực
cao; có cơ chế kiểm soát, ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, vơ trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân.
Thứ tám, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng; thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn dân tộc; có năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu cao, thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức
nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết,


19
thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt
đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực,
có sức chiến đấu cao. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp

luật, liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
2.3. Vận dụng vào thực tiển đối với tỉnh Sóc Trăng hiện nay
Với phương châm “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới”, Đại hội
Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng lần thứ XIV đã chỉ ra được những ưu điểm, khuyết
điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là những mặt hạn chế, yếu kém do chủ
quan, từ đó rút ra các kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tếxã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII khẳng
định: Trong 5 năm qua, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực, khắc phục
khó khăn, vượt qua thách thức, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh lần thứ XIII đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực.
Kinh tế của tỉnh tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Ước tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2016-2020 là 6,15%/năm. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng. Nông nghiệp, cơng nghiệp, thương mại, dịch vụ và
du lịch có bước phát triển, mở ra nhiều triển vọng cho phát triển kinh tế-xã
hội của tỉnh trong thời gian tới.
Lĩnh vực văn hóa-xã hội có nhiều tiến bộ. Chất lượng giáo dục và đào
tạo chuyển biến tích cực. Cơng tác sắp xếp mạng lưới trường học, xây dựng
trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm thực hiện tốt. Chất lượng công tác
chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được nâng lên; áp dụng nhiều kỹ thuật
mới, hiện đại trong khám, chữa bệnh. Các chủ trương, chính sách về giảm
nghèo, giải quyết việc làm, an sinh xã hội... được quan tâm thực hiện, góp


20
phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Quốc phịng-an
ninh được củng cố; an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội được giữ vững.
Cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được triển khai
đồng bộ, tồn diện, có hiệu quả. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên. Cơng tác dân vận

trong hệ thống chính trị được triển khai đồng bộ, hiệu quả, góp phần tạo sự
đồng thuận trong quần chúng nhân dân.
Hình ảnh vùng đất, con người Sóc Trăng tốt hơn, ấn tượng hơn trong
lịng nhân dân cả nước. Tuy nhiên, Sóc Trăng vẫn cịn là tỉnh nghèo, chưa
phát huy được tối đa tiềm năng, lợi thế; kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển
kinh tế-xã hội cịn yếu, nhất là giao thơng liên vùng, hạ tầng ở những nơi đất
thấp, yếu, có đơng đồng bào dân tộc Khmer sinh sống…
Để xây dựng Sóc Trăng phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, Đảng bộ,
quân và dân Sóc Trăng cần tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của quê
hương, những kết quả nhiệm kỳ 2015-2020 và các nhiệm kỳ vừa qua để tiếp
tục kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển, trong đó, tiếp tục giữ gìn, trân
trọng, củng cố và vun đắp cho sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và cả hệ
thống chính trị; tạo sự đồng thuận cao của các tầng lớp nhân dân. Phát huy
mạnh mẽ mọi nguồn lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển của
tỉnh, trên cơ sở dựa vào nguồn lực bên trong là quyết định, chiến lược, cơ bản
lâu dài và nguồn lực bên ngồi là quan trọng, đột phá.
Sóc Trăng tiếp tục xác định và thực hiện có hiệu quả cơng tác xây dựng
Đảng là then chốt, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội
là nhiệm vụ trung tâm. Lấy đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, phát triển kinh tế xanh; nhu cầu thị trường, các ngành mới nổi và tăng năng
suất lao động làm định hướng…
Các ban, bộ, ngành Trung ương cần tiếp tục quan tâm, thường xuyên
phối hợp, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để tỉnh Sóc Trăng thực hiện hiệu
quả các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội tỉnh đề ra. Các tỉnh ủy, thành ủy trong cả


21
nước, nhất là các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng tích cực xây dựng và củng cố
mối quan hệ liên kết, hợp tác chặt chẽ, có hiệu quả với tỉnh Sóc Trăng để thúc

đẩy cùng nhau phát triển, cùng nhau tiến bộ, cùng nhau ấm no và hạnh phúc.
Tiếp tục làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, nhất là những cán bộ, đảng
viên có đức, có tài phải được cân nhắc, bổ nhiệm vào những vị trí cơng tác
quan trọng của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở, nhằm đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay và niềm tin của các đồng chí
lãnh đạo Đảng, Nhà nước cũng như của tồn thể cán bộ, đảng viên và nhân
dân Sóc Trăng kỳ vọng.


22
KẾT LUẬN
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh và cách tiếp cận trong tư tưởng của
Người về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam vẫn đang soi sáng sự nghiệp
đổi mới của đất nước ta. Đổi mới theo định hướng XHCN, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh trong bối cảnh tồn
cầu hóa là một thử thách đối với lý tưởng XHCN và tư tưởng Hồ Chí Minh
về CNXH ở Việt Nam.
Đất nước ta đã trãi qua hơn 30 năm đổi mới, nhưng văn kiện các kỳ đại
hội của Đảng gần đây đã chỉ ra những hiện tượng sa sút về lý tưởng XHCN
và sự giảm sút niềm tin vào con đường đi tới CNXH ở nước ta. Hơn lúc nào
hết, trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
CNXH ở Việt Nam có một ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Nó
làm tăng thêm niềm tin vào lý tưởng XHCN ở mỗi người; giúp mỗi người
đang băn khoăn, do dự tìm thấy con đường đi sáng tỏ. Lý luận về CNXH và
tư tưởng về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Mình
mãi mãi là một di sản tinh thần lạc quan, giàu sức sống, là chân lý ngời sáng
đưa đất nước vượt qua muôn vàn thử thách vững bước tiến lên.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến
tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây
là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp

tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, khơng thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh
việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của
Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích
cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực
hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng u cầu, nguyện
vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của
phát triển.


23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016.
2. Tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiến qua 30 năm đổi mới (19862016) (Lưu hành nội bộ)
3. Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG,
H.2002, từ tập 1 đến tập 56.
4. Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII,VIII, IX, X, XI,XII.
5. Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, 11 tập
6. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Sơ thảo) tập 1. Nxb Sự Thật,
H.1981.
7. GS.TS Nguyễn Phú Trọng (2012). Xây dựng chỉnh đốn Đảng, một số
vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb CTQG, Hà Nội
8. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Xây dựng Đảng. Xây
dựng Đảng (dùng cho hệ cao cấp lý luận chính trị), NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2004
9. Nguyễn Trọng Phúc, Lịch sử công tác xây dựng Đảng (1930-2011),
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
10. Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do-vì chủ
nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, H.1976.



×