LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN,
nền kinh tế nước ta đã có sự biến đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Nước ta
đang bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì nhu cầu về vốn
càng trở nên cấp bách hơn. Nhưng khi đã có vốn rồi thì việc sử dụng vốn như
thế nào cho có hiệu quả cũng là vấn đề rất quan trọng. Việc sử dụng vốn tiết
kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
Ngày nay một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi
doanh nghiệp đó phải biết sử dụng vốn triệt để và không ngừng nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh mà đặc biệt là vốn lưu động. Vốn lưu động là bộ
phận rất quan trọng trong vốn sản xuất kinh doanh và nó thường chiếm tỷ
trọng rất lớn ở những doanh nghiệp thương mại. Có thể nói trong doanh
nghiệp thương mại vốn lưu động là bộ phận sinh lời nhiều nhất. Chỉ khi nào
doanh nghiệp hoạt động có hiệuquả thì doanh nghiệp đó mới có vốn để tái
đầu tư giản đơn và tái đầu tư mở rộng nhằm đem lại lợi nhuận ngày càng cao
cho doanh nghiệp trong hành lang pháp lý về tài chính và tín dụng mà nhà
nước đã quy định.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và
vốn lưu động nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng, là sự sống còn của các
doanh nghiệp khi tìm chỗ đứng trong nền kinh tế thị trường. Do đó việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đang là vấn đề bức thiết đặt ra đối với tất cả các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong thực tế hiện nay ở Việt Nam hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề
đang được quan tâm. Nhìn chung hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính của
các doanh nghiệp ở Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước còn
đang ở mức thấp so với các doanh nghiệp trên thế giới. Nếu chúng ta không
có giải pháp kịp thời để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính thì các
doanh nghiệp sẽ khó đứng vững được trong môi trường cạnh tranh quốc tế và
sẽ dẫn đến nguy cơ tụt hậu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, qua thời gian thực tập
tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội được sự giúp đỡ tận tình của giáo
viên hướng dẫn cùng tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty, tôi xin mạnh
dạn đề xuất một số ý kiến thông qua đó nghiên cứu: “Các biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội”.
Đề tài nghiên cứu gồm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận về vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu
động trong doanh nghiệp thương mại.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất
nhập khẩu máy Hà Nội.
Chương III: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội.
Chương I
Cơ sở lý luận về vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong
doanh nghiệp thương mại
I. Vốn lưu động trong doanh nghiệp thương mại
1. Khái niệm về vốn lưu động
Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ giá trị tài sản lưu động và vốn lưu thông để đảm bảo quá trình sản
xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành bình thường.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp là những tài sản tiền tệ hoặc có thể
chuyển thành tiền tệ trong chu kỳ kinh doanh. Nó bao gồm:
- Vốn bằng tiền, bao gồm:
+ Tiền mặt tại quỹ (gồm cả ngân phiếu)
+ Tiền gửi ngân hàng
+ Tiền đang chuyển
- Hàng tồn kho: Các loại tài sản hàng tồn kho được phân loại theo vật tư
của quy trình kinh doanh của doanh nghiệp thương mại bao gồm:
+ Hàng tồn kho
+ Hàng đang đi trên đường
+ Hàng gửi bán
Trong nền kinh tế thị trường tài sản hàng tồn kho còn bao gồm cả phần
dự phòng giảm giá hàng hoá tồn kho.
- Ứng trước và trả trước: Là những khoản ứng và thanh toán trước cho
các nhà cung ứng theo hợp đồng kinh doanh, các khoản tạm ứng khác.
- Các khoản phải thu: Bao gồm:
+ Phải thu từ khách hàng: Thanh toán với người mua, trong kinh doanh
hiện đại nợ phải thu từ khách hàng là những khoản nợ có nguồn gốc từ việc
bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ và các khoản phải thu khác như hạ giá chiết
khấu, giảm giá các khoản phải thu.
+ Phải thu nội bộ: Các khoản tạm ứng cho các cán bộ công nhân viên
trong doanh nghiệp.
- Đầu tư tài chính ngắn hạn: Gồm các cổ phiếu, trái phiếu thương phiếu
ngắn hạn mà doanh nghiệp đã mua nhằm mục đích sinh lời từ việc thu lợi tức,
cổ tức và giá trị chứng khoán ngắn hạn. Những tài sản này cũng xem như tiền
có thể sử dụng ngay được vì qua thị trường chứng khoán cấp II ta có thể
chuyển nhượng để thu tiền và bất cứ lúc nào.
- Chi sự nghiệp: là những khoản chi một lần nhưng được phân bổ cho
nhiều thời kỳ khác nhau.
Đặc điểm nổi bật nhất của vốn lưu động là tham gia trực tiếp và hoàn
toàn không ngừng, luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện. Quá trình thay đổi
hình thái biểu hiện của vốn lưu động gắn liền với mua bán hàng hoá và sản
phẩm dịch vụ của doanh nghiệp và do đó tạo nên quá trình vận động của vốn
trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực lưu
thông hàng hoá, sự vận đọng của vốn trải qua hai giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Doanh nghiệp phải ứng ra một số lượng tiền nhất định để
mua vật tư hàng hoá từ nhiều nguồn khác nhau về dự trữ. VLĐ được chuyển
từ hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hoá.
+ Giai đoạn 2: Doanh nghiệp dùng hàng hoá dự trữ bán cho khách hàng
để thu tiền về vốn từ hình thái hàng hoá được chuyển sang hình thái tiền tệ.
Trong cùng một thời điểm vốn lưu động tồn tại dưới cả hai hình thái.
Cũng do vốn lưu động luôn vận động nên kết cấu của vốn lưu động luôn biến
đổi và phản ánh sự vận động không ngừng của hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
2. Phân loại vốn lưu động
Để phân loại vốn lưu động ta có thể dựa vào một số chỉ tiêu sau:
a) Dựa vào sự vận động của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh:
VLĐ được chia làm 3 phần: Vốn lưu động trong khâu dự trữ, VLĐ trong khâu
lưu thông, VLĐ trong khâu sản xuất.
- VLĐ trong khâu dự trữ: Đối với các doanh nghiệp dịch vụ VLĐ trong
khâu dự trữ bao gồm: Vốn dự trữ vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế nhằm
đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành
thường xuyên, liên tục.
- VLĐ trong khâu sản xuất: Trong doanh nghiệp thương mại và doanh
nghiệp dịch vụ không mang tính chất sản xuất thì không có vốn lưu động vận
động ở khâu này. Đối với các doanh nghiệp dịch vụ mang tính chất sản xuất
VLĐ này bao gồm:
+ Vốn về sản phẩm dở dang đang chế tạo: là giá trị sản phẩm dở dàng
dùng trong quá trình sản xuất, xây dựng hoặc đang nằm trên các địa điểm làm
việc đợi chế biến tiếp, chi phí trồng trọt dở dang...
+ Vốn bán thành phẩm tự chế: cũng là giá trị các sản phẩm dở dang
nhưng khác sản phẩm đang chế tạo ở chỗ đã hoàn thành giai đoạn chế biến
nhất định.
+ Vốn và phí tổn đợi phân bổ (chi phí trả trước) là những phí tổn chi ra
trong kỳ, nhưng có tác dụng cho nhiều kỳ sản xuất vì thế chưa tính hết vào giá
thành mà sẽ tính vào giá thành các kỳ sau:
- VLĐ trong khâu lưu thông bao gồm:
+ Vốn thành phẩm biểu hiện bằng tiền số sản phẩm đã nhập kho và
chuẩn bị các công tác tiêu thụ.
+ Vốn bằng tiền bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển và tiền gửi
ngân hàng.
+ Vốn thanh toán là những khoản phải thu tạm ứng phát sinh trong quá
trình mua bán vật tư hàng hoá hoặc thanh toán nội bộ. Theo cách phân loại
này có thể thấy vốn nằm trong quá trình dự trữ nguyên vật liệu và vốn nằm
trong khâu lưu thông không tham gia trực tiếp vào sản xuất. Phải chú ý tăng
khối lượng sản phẩm đang chế tạo với mức hợp lý vì số vốn này tham gia trực
tiếp vào việc tạo nên giá trị mới.
b) Phân loại theo hình thái biểu hiện: VLĐ được chia làm 2 loại
- Vật tư hàng hoá: là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng
hiện vật cụ thể như nguyên nhiên liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,
thành phẩm...
- Vốn bằng tiền.
c) Phân loại theo nguồn hình thành và quyền sở hữu:
- Vốn chủ sở hữu: gồm 3 phần:
+ Vốn đóng góp của các chủ đầu tư để mở rộng hoặc thành lập doanh
nghiệp. Chủ sở hữu doanh nghiệp có thể là nhà nước, cá nhân hoặc các tổ
chức tham gia liên doanh, các cổ đông mua hoặc nắm giữ cổ phiếu. Bất kỳ
một doanh nghiệp nào khi mới thành lập phải có đủ vốn pháp định. Trong mỗi
lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác nhau thì VLĐ của doanh nghiệp là khác
nhau. Ngoài ra doanh nghiệp còn có số vốn điều lệ, đây là số vốn thực có của
doanh nghiệp và số vốn này phải lớn hơn hoặc bằng số vốn pháp định.
+ Vốn được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp: Sau mỗi kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ xác định được kết
quả kinh doanh của kỳ đó. Một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các đối
tượng liên quan. Một phần khác được bổ sung vào vốn kinh doanh mà chủ
yếu là vốn lưu động và đây là một bộ phận của vốn chủ sở hữu.
+ Các khoản chênhlệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỉ giá chưa xử
lý và các quỹ được hình thành trong hoạt động sản xuất kinh doanh như quỹ
phúc lợi quỹ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Những doanh nghiệp nhà nước vốn hoạt động là do nhà nước cấp ngay
từ khi mới thành lập trên cơ sở bảo toàn và phát triển vốn.
- Vốn vay: Với điều kiện kinh tế như hiện nay, quy mô kinh doanh ngày
nay có xu hướng mở rộng, nhu cầu sử dụng vốn ngày càng phát triển.
Do vậy nguồn vốn chủ sở hữu chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu vốn kinh
doanh. Để có đủ vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp
phải chủ động tạo ra cho mình nguồn vốn để kinh doanh. Một biện pháp hữu
hiệu nhất là đi vay vốn. Hình thức đi vay của doanh nghiệp là: Vay ngân
hàng, vay các tổ chức kinh tế hoặc của các cá nhân hay vay của các tổ chức
tín dụng nhằm tạo ra một lượng vốn cao hơn để đáp ứng nhu cầu về vốn khi
thực hiện hợp đồng phù hợp với lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp mà
không trái với pháp luật.
Với mỗi hình thức vay vốn lại có những điều kiện xây dựng ràng buộc
khác nhau. Nếu doanh nghiệp vay của tổ chức tín dụng ngân hàng thì điều
kiện để xét vốn vay là doanh nghiệp phải làm ăn có lãi, có tài sản thế chấp mà
số tài sản này chưa đem ra thế chấp. Sau 1 chu kỳ hoặc một khoảng thời gian
nhất định doanh nghiệp phải hoàn trả tiền vay vốn.
Ngoài việc vay vốn của tổ chức tín dụng, của ngân hàng, cá nhân qua
việc phát hành cổ phiếu, còn xuất hiện việc vay vốn lẫn nhau mà thực chất là
chiếm dụng vốn lẫn nhau. Như vậy việc vay vốn sẽ tạo điều kiện thuận lợi,
nắm bắt được cơ hội kinh doanh và phát triển lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Vốn liên doanh: Ngoài vốn tự có, vốn vay doanh nghiệp có thể huy
động thêm bằng hình thức góp vốn liên doanh, với hình thức nhận góp vốn
liên doanh tức là doanh nghiệp cùng hợp tác với nhau trong vấn đề kinh
doanh nhằm mục đích hai bên cùng có lợi.
- Vốn khác: Trên thực tế hoạt động kinh doanh có những khoản phải trả
phải nộp: như nợ phải trả người bán, phải trả nội bộ, thuế và các khoản nộp
ngân sách nhưng chưa đến kỳ phải trả, những khoản người mua phải trả tiền
trước, tiền lương, tiền bảo hiểm, y tế, kinh phí công đoàn...
Những khoản này được coi như là vốn tự có của doanh nghiệp mặc dù
doanh nghiệp không có quyền sở hữu, những vẫn được quyền sử dụng tạm
thời vào hoạt động kinh doanh mà không phải trả bất kỳ một khoản ký gửi
nào.
Với các phân loại vốn như trên tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý
vốn mà doanh nghiệp nắm giữ đồng thời cho thấy quy mô của từng loại vốn
để từ đó có kế hoạch khai thác một cách chủ động, tích cực góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
d) Kết cấu vốn lưu động
Kết cấu VLĐ thực chất là tỉ trọng từng khoản vốn trong tổng nguồn
VLĐ của doanh nghiệp. Thông qua kết cấu của VLĐ cho thấy sự phân bổ của
vốn trong từng giai đoạn luân chuyển hoặc trong từng nguồn vốn, từ đó doanh
nghiệp xác định được phương hướng và trọng điểm quản lý vốn nhằm đáp
ứng kịp thời đối với từng thời kỳ kinh doanh. Kết cấu của VLĐ chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố như: đặc điểm ngành nghề kinh doanh, trình độ tổ
chức. Vì vậy trong doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng
khác nhau, nó phụ thuộc vào các nhóm nhân tố sau:
- Nhóm nhân tố về mua sắm vật tư và tiêu thụ sản phẩm: Các doanh
nghiệp hàng năm phải sử dụng nhiều loại vật tư khác nhau. Nếu khoảng cách
giữa các doanh nghiệp và các đơn vị bán hàng xa hoặc gần, kỳ hạn bán hàng,
chủng loại, số lượng và giá cả phù hợp với yêu cầu thì có sự thay đổi đến tỷ
trọng VLĐ bỏ vào khâu dự trữ.
Điều kiện tiêu thụ sản phẩm cũng ảnh hưởng nhất định đến kết cấu VLĐ.
Khối lượng tiêu thụ sản phẩm mỗi lần nhiều hay ít, khoảng cách giữa các
doanh nghiệp với các đơn vị mua hàng dài hay ngắn đều trực tiếp ảnh hưởng
tới tỷ trọng thành phẩm và hàng hoá xuất ra nhờ ngân hàng thu hộ.
- Nhóm nhân tố về mặt thanh toán: Nếu sử dụng phương thức thanh toán
hợp lý, giải quyết thanh toán kịp thời thì tỉ trọng vốn trong khâu lưu thông sẽ
thay đổi. Đặc biệt trong xây lắp việc sử dụng các thể thức thanh toán khác
nhau tổ chức thủ tục thanh toán, tình hình chấp hành kỷ luật thanh toán có ảnh
hưởng nhiều đến tỷ trọng vốn bỏ vào khâu sản xuất và khâu lưu thông.
Ngoài các nhân tố nêu trên, kết cấu VLĐ còn lệ thuộc vào tính chất thời
vụ sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý doanh nghiệp. Tìm hiểu thành phần
cũng như nghiên cứu kết cấu nội dung vốn lưu động là rất cần thiết đối với
việc sử dụng chính xác và có hiệu quả số vốn đó trong mỗi doanh nghiệp.
3. Vai trò của vốn lưu động
Vốn lưu động được coi là nguồn lực quan trọng nhất trong doanh nghiệp.
Vốn là tiền đề vật chất không thể thiếu đối với sự ra đời và phát triển của
doanh nghiệp. Trước hết vốn là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp thực hiện
thủ tục pháp lý thành lập. Tiếp theo khi bắt đầu sản xuất kinh doanh phải có
vốn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và VLĐ phục vụ cho quá trình sản
xuất kinh doanh.
Với sự cạnh tranh trong nền kinh tế ngày càng khốc liệt thì vốn là yếu tố
quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Nếu thừa nhận
vốn doanh nghiệp không thể chủ động trong sản xuất kinh doanh, cũng như
không thể mở rộng quy mô và khi đó doanh nghiệp sẽ bị cạnh tranh bởi các
đối thủ khác mạnh hơn, như vậy quy mô kinh doanh sẽ bị thu hẹp thậm chí
dẫn tới phá sản.
VLĐ còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình hoạt động của hàng
hoá, cũng như phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ bán hàng của
doanh nghiệp. Mặt khác vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản
ánh thời gian lưu thong có hợp lý hay không. Do đó thông qua tình hình luân
chuyển VLĐ của doanh nghiệp, các nhà hàng quản doanh nghiệp có thể đánh
giá kịp thời đối với các mặt hàng mua sắm dự trữ sản xuất và tiêu thụ của
doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng tới kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trong kỳ, do vậy việc quản lý vốn có ý nghĩa quan trọng. Sử
dụng vốn hợp lý sẽ cho phép khai thác tối đa năng lực hoạt động của TSLĐ
góp phần hạ thấp chi phí kinh doanh, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tóm lại VLĐ có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thương mại, việc tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề sử
dụng vốn lưu động là vấn đề cần thiết nhằm đưa ra những biện pháp tối ưu
phục vụ cho chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp.
II. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
1. Hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh được hiểu là chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối
tương quan so sánh giữa kết quả đạt được theo mục tiêu đã xác định với chi
phí bỏ ra để đạt được mục tiêu đó. Trong quá trình kinh doanh nếu chi phí bỏ
ra ít nhưng kết quả thu được lại cao thì có nghĩa hiệu quả kinh doanh tốt và
ngược lại.
Để hoạt động, doanh nghiệp thương mại phải có các mục tiêu hành động
của mình trong từng thời kỳ, đó có thể là các mục tiêu xã hội cũng có thể là
các mục tiêu kinh tế của chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp luôn tìm cách để
đạt các mục tiêu đó với chi phí thấp nhất đó là hiệu quả.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên hai khía cạnh
sau:
Hiệu quả xã hội: Thể hiện sự đóng góp của doanh nghiệp trong việc thực
hiện những mục tiêu kinh tế xã hội như tăng cường các khoản phúc lợi tạo
công ăn việc làm cho nền kinh tế quốc dân.
Hiệu quả kinh doanh là hiệu quả chỉ xét trên phương diện kinh tế của
hoạt động kinh doanh. Nó mô tả mối tương quan giữa lợi ích kinh tế mà
doanh nghiệp đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được lợi ích đó. Hiệu quả kinh
tế là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh mối quan hệ
đạt được giữa kết quả về mặt kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó:
Hiệu quả =
Kết quả của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh thông
thường là đạt được doanh thu hoặc lợi nhuận trong kỳ. Chi phí cho hoạt động
kinh doanh là số lượng vốn đầu tư để đạt được kết quả đó.
2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp thương mại
Một trong những vấn đề quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp là phải thường xuyên nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
lưu động. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phản ánh tình hình sử dụng VLĐ
trong doanh nghiệp, được thể hiện bằng mối quan hệ giữa kết quả hoạt động
kinh doanh với số vốn lưu động đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh
trong kỳ.
Hiệu quả sử dụng VLĐ =
Như ta đã biết VLĐ tiếp diễn không ngừng, lặp đi lặp lại có tính chất chu
kỳ gọi là chu chuyển VLĐ, thời gian của một kỳ luân chuẩn biểu thị tốc độ
chu chuẩn VLĐ hay còn gọi là hiệu suất luân chuyển VLĐ.
Hiệu suất luân chuyển VLĐ biểu hiện trình độ nghệ thuật sử dụng VLĐ
trong doanh nghiệp. Nó thường biểu thị qua 2 chỉ tiêu. Số lớn luân chuyển
VLĐ trong kỳ và số ngày để hoàn thành một lần luân chuyển còn gọi là kỳ
luân chuyển bình quân).
Sử dụng hiệu quả VLĐ mang tính cấp thiết đối với sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. VLĐ là một bộ phận quan trọng của tổng nguồn vốn,
là yếu tố không thể của quá trình sản xuất kinh doanh nhất là trong doanh
nghiệp thương mại. Việc sử dụng VLĐ không tốt có thể không thể không bảo
tồn được vốn, quy mô bị thu hẹp, ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất và nhu
vậy ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. VLĐ vận động không ngừng trong
các giai đoạn cùng với hình thái biểu hiện phức tạp, điều này đòi hỏi các
doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh phải có những biện pháp quản lý và
sử dụng VLĐ thích hợp.
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ
Trong nền kinh tế thị trường thì VLĐ đối với các doanh nghiệp luôn là
một vấn đề bức xúc đặt ra. Có thể coi VLĐ như là nhựa sống tuần hoàn trong
doanh nghiệp. Vì vạy doanh nghiệp muốn hoạt động và phát triển được thì
VLĐ không thể thiếu và phải liên tục tuần hoàn, liên tục lưu thông. Một
doanh nghiệp thiếu vốn thì không thể hoạt động được, nhưng nếu có vốn mà
sử dụng kém hiệu quả, để mất dần đồng vốn thì doanh nghiệp sẽ đi vào bế tắc.
Điều đó nói lên rằng VLĐ có ý kiến sống còn đối với các doanh nghiệp và nó
có vai trò tuyệt đối tới sự thành bại của doanh nghiệp.
Ngày nay các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì
yêu cầu về VLĐ là lớn, như nguồn kinh tế thị trường cũng tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi, giúp doanh nghiệp có thể tự chủ về tài chính có thể huy
động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy mà vấn đề đặt ra là đòi hỏi đồng
vốn sử dụng vào kinh doanh phải có hiệu quả và hiệu quả tối đa. Trên góc độ
tài chính doanh nghiệp phải quan tâm đến chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn từ đó
xem xét tình hình sử dụng VLĐ của doanh nghiệp để có các biện pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn. Các chỉ tiêu hiệu quả bao gồm:
3.1. Hệ số thanh toán:
Hệ số này dùng để xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối
với khoản phải trả ngắn hạn, gồm hệ số thanh toán hiện tại và hệ số thanh
toán nhanh.
- Hệ số khả năng thanh toán hiện tại là thước đo khả năng có thể trả nợ
của doanh nghiệp, nó chỉ ra phạm vi quy mô mà các yêu sách của dư nợ được
trang trải bằng tài khoản lưu động có thể chuyển thành tiền trong kỳ phù hợp
với thời hạn nợ phải trả:
=
Đây là tỷ lệ giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn. Đó là một trong những thước đo
tốt nhất được sử dụng thường xuyên trong đo lường về sức mạnh tài chính.
Hệ số đó trả lời câu hỏi: Doanh nghiệp có đủ tài sản lưu động để trả các
khoản nợ ngắn hạn không?
- Hệ số thanh toán nhanh: là thước đo khả năng trả nợ ngay, không được
dựa vào bán vật tư hay hàng hoá (kể cả sản phẩm) là một đặc trưng tài chính
quan trọng của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này trả lời câu hỏi: Nếu thu thập bán hàng không còn nữa thì
doanh nghiệp có thể trả được nợ ngắn hạn không? Căn cứ vào các nguồn tiền
có thể huy động nhanh và các khoản có thể dễ dàng chuyển thanh tiền bao
gồm: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển các khoản đầu tư chứng
khoán ngắn hạn.
3.2. Hệ số phục vụ vốn lưu động
Hệ số này cho biết với một đồng vốn lưu động bỏ ra thì thu lại cho
doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu. Biểu hiện của hệ số này là mối quan
hệ giữa doanh thu đạt được trong kỳ với VLĐ bình quân sử dụng trong kỳ:
M
H
VLĐ
=
_______________________
LD
V
1
....
2/322/1
−
+++
=
n
VVVV
V
n
LD
Trong đó:
H
VLĐ
: Hệ số phục vụ vốn lưu động
M: Tổng doanh thu trong kỳ
LD
V
: Vốn lưu động bình quân trong kỳ
V
1
... V
n
: Vốn lưu động tại các thời điểm kiểm kê
n : số thời điểm kiểm kê
Hệ số phục vụ VLĐ càng cao tức là với 1 đồng VLĐ bỏ ra có thể đem lại
nhiều đồng doanh thu. Khi đó hiệu quả sử dụng vốn lưu động được đánh giá
là tốt và ngược lại.
3.3. Tốc độ chu chuyển VLĐ
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, sự tuần hoà của vốn diễn
ra liên tục lặp đi lặp lại mang tính chất chu kỳ gọi là chu chuyển vốn lưu
động. Tốc độ chu chuyển VLĐ phản ánh tổng quát quá trình quản lý, trình độ
chuyên môn tổ chức của cán bộ từ khâu mua đến khâu bán.
Thời gian của vòng chu chuyển VLĐ được quyết định bằng tổng số thời
gian lưu thông từ kỳ tuần hoàn này đến kỳ tuần hoàn tiếp theo. Thời gian của
vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì tốc độ chu chuyển vốn càng nhanh và
ngược lại.
Tốc độ chu chuyển VLĐ được thể hiện thông qua 2 chỉ tiêu sau:
- Số vòng chu chuyển VLĐ
M
GV
L =
________________
LD
V
Trong đó: L : số vòng chu chuyển VLĐ trong kỳ
M
GV
: Tổng mức doanh thu trong kỳ theo giá vốn
LD
V
: Vốn lưu động bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ rằng số vốn lưu động chu chuyển càng
nhanh, hoạt động kinh doanh được đánh giá là tốt.
- Số ngày chu chuyển vốn lưu động phản ánh độ dài một vòng quay của
VLĐ, chỉ tiêu này được xác định dựa vào số ngày quy ước trong kỳ và tổng
số vòng quay trong kỳ đó.
LD
V
N =
______________
M
GV
Trong đó: N- Số ngày chu chuyển VLĐ
LD
V
M
GV
: doanh thu theo giá vốn bình quân 1 ngày trong kỳ.
Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ VLĐ chu chuyển càng nhanh, tức là
hàng hoá ít bị ứ đọng, bộ phận vốn bằng tiền được quản lý chặt chẽ.
Như vậy hai chỉ tiêu số vòng và số ngày chu chuyển thực chất là giống
nhau chỉ khác nhau về cách thể hiện. Khi số vòng chu chuyển VLĐ tăng thì
số ngày chu chuyển VLĐ giảm. Nhìn chung vốn lưu động quay càng nhiều
vòng trong một chu kỳ kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng
cao.
3.4. Hệ số bảo toàn vốn lưu động
Bảo toàn vốn lưu động có nghĩa là sau một thời gian hoạt động vốn của
doanh nghiệp bảo đảm toàn vẹn không bị thâm hụt, thất thoát. Nói cách khác,
đến kỳ kiểm tra VLĐ của doanh nghiệp vẫn đảm bảo tương ứng với số tài sản
lưu động ban đầu theo thời giá hiện tại.
Bảo toàn và phát triển VLĐ là một trong những chỉ tiêu quan trọng đối
với từng doanh nghiệp, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển VLĐ trong
doanh nghiệp chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau, những nhân tố xấu
có thể làm giảm VLĐ và làm ảnh hưởng tới quy mô kinh doanh. Chính vì
điều này mà việc bảo toàn và phát triển vốn trở thành nguyên tắc bắt buộc các
doanh nghiệp phải thực hiện. Đối với doanh nghiệp nhà nước bảo toàn vốn là
yêu cầu của chế độ hạch toán và là chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước.
Để đánh giá mức độ bảo toàn VLĐ ta cần xác định số VLĐ hiện có và số
VLĐ phải bảo toàn đến cuối kỳ. Trong đó số VLĐ hiện có ở cuối kỳ trên sổ
sách kế toán của doanh nghiệp sau khi đã điều chỉnh chênh lệch giá của tài
sản lưu động theo thời giá. Các khoản chênh lệch giá đó được xác định trong
mọi trường hợp thay đổi giá trị vật tư hàng hoá do Nhà nước quy định hoặc
vật tư hàng hoá mua theo giá thoả thuận trên thị trường.
Vốn lưu động phải bảo toàn đến cuối kỳ được xác định như sau:
= x
Sau khi xác định được VLĐ hiện có cuối kỳ và VLĐ phải bảo toàn cuối
kỳ ta so sánh chúng với nhau:
Hệ số bảo toàn VLĐ =
Nếu hệ số này > 1 thì doanh nghiệp đã bảo toàn và phát triển VLĐ.
Ngược lại nếu hệ số này < 1 doanh nghiệp không bảo toàn được VLĐ nghĩa là
sau khi loại trừ ảnh hưởng của giá VLĐ của doanh nghiệp bị thâm hụt.
Khi sử dụng hệ số bảo toàn VLĐ thì chưa thể đánh giá được mức độ
hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp mà chỉ đánh giá được tổng quát về
hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
3.5. Hệ số sinh lời của VLĐ
Hệ số doanh lợi của vốn lưu động. Đây là chỉ tiêu chất lượng rất quan
trọng, phản ánh rõ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu
này cho biết một đồng VLĐ sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận?
Hệ số doanh lợi VLĐ =
Hệ số sinh lời bao gồm các chỉ tiêu:
- Tỷ suất lợi nhuận doanh thu.
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu
thuần trong kỳ của doanh nghiệp. Nó thể hiện, khi thực hiện một đồng doanh
thu thuần trong kỳ doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận
ròng.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu =
- Hệ số khả năng sinh lời của vốn kinh doanh không tính tới ảnh hưởng
của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh doanh: chỉ tiêu
này cho biết số ngày cần thiết để vốn hàng hoá dự trữ quay trọn một vòng.
Chỉ tiêu vòng quay vốn hàng hoá dự trữ và số ngày chu chuyển vốn hàng hoá
dự trữ và có quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau, vòng quay tăng thì ngày chu
chuyển giảm và ngược lại:
- Vòng quay các khoản thu: phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải
thu thành tiền mặt của doanh nghiệp:
Vòng quay các khoản phải thu được xác định như sau:
Vòng quay các khoản phải thu =
Kỳ thu tiền bình quân =
Nếu hệ số vòng quay các khoản phải thu cao thể hiện doanh nghiệp thu
hồi nhanh các khoản nợ. Trong khi kinh doanh doanh nghiệp nên đánh giá
nghiên cứu kỹ những khoản phải thu thông qua việc đánh giá khả năng tài
chính của khachs hàng hoặc uy tín của họ nhằm đưa ra phương thức kinh
doanh thích hợp.
- Vòng quay các khoản phải trả
Số vòng quay các khoản phải trả =
Kỳ trả tiền bình quân =
Số ngày phân tích trong kỳ thường tính bằng 1 năm bằng 360 ngày. Nếu
vòng quay các khoản phải trả thấp doanh nghiệp đã tận dụng được một số vốn
tạm thời để bổ sung cho vốn kinh doanh:
- = x 100
Chỉ tiêu này cho ta biết tỷ lệ càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp chiếm
dụng vốn càng nhiều và ngược lại.
- Hệ số phục vụ vốn công cụ, dụng cụ, nguyên vật liệu: Hệ số này phản
ánh một đồng vốn công cụ, dụng cụ, nguyên vật liệu bỏ ra thì hoạt động kinh
doanh sẽ đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu.
=
= ‘
Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doan. Nó phản ánh mỗi đồng vốn sử
dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
=
- Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: Đây là chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất
quan tâm, hệ số này đo lường mức lợi nhuận thu được lên mỗi đồng vốn chủ
sở hữu trong kỳ.
=
Ngoài bốn chỉ tiêu chung phân tích trên để thấy rõ được hiệu quả sử
dụng vốn lưu động ta xem xét các chỉ tiêu sau:
- Hệ số vòng quay vốn hàng hoá dự trữ: hàng hoá dự trữ được coi là bộ
phận chủ yếu của VLĐ trong doanh nghiệp, do vậy tốc đọ chu chuyển hàng
hoá tồn kho có ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển của toàn bộ VLĐ và ảnh
hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho
cho ta biết số vòng quay bình quân của hàng hoá được bán ra. Hệ số vòng
quay vốn hàng hoá dự trữ được xác định theo công thức:
=
Hệ số vòng quay vốn hàng hoá dự trứ mà cao làm cho doanh nghiệp
củng cố lòng tin vào khả năng thanh toán. Ngược lại hệ số này thấp gợi lên
tình hình doanh nghiệp bị ứ đọng vật tư hàng hoá vì không cần dùng hoặc dự
trữ quá nhiều hoặc sản phẩm bị tiêu thụ chậm vì sản xuất chưa bán sát nhu
cầu thị trường. Hệ số này phụ thuộc vào các yếu tố như phương thức bán
hàng, phương thức bảo quản, kết cấu hàng tồn kho. Như vậy từng doanh
nghiệp phải có những biện pháp quản lý hàng tồn kho phù hợp nhằm đạt được
hiệu quả kinh tế cao nhất.
=
Lượng vốn này thường chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng vốn lưu động.
Nhưng đôi khi nó ảnh hưởng đến việc tiêu thụ hàng hoá tức là ảnh hưởng tới
doanh thu. Nếu hệ số phục vụ vốn công cụ, dụng cụ càng cao thì hiệu quả sử
dụng VLĐ tốt và ngược lại.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ
Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng là cơ sở tìm ra những biện pháp cụ
thể nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp. Các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ rất phức tạp và đa dạng nhưng
chung quy lại người ta phân thành hai loại:
* Nhóm nhân tố có hể lượng hoá được
* Nhóm nhân tố không thể lượng hoá được
1. Nhóm nhân tố có thể lượng hoá được
- Doanh thu trong kỳ: Cùng một lượng VLĐ, nếu như doanh thu trong
kỳ càng cao thì hiệu quả sử dụng VLĐ là tốt và ngược lại. Nếu doanh thu
trong kỳ thấp thì hiệu quả sử dụng VLĐ là kém. Từ đó có thể thấy rằng việc
tăng doanh thu hay tăng mức lưu chuyển hàng hoá là mục tiêu phân đấu của
mọi doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên
việc tăng mức lưu chuyển hàng hoá có thể kéo theo chi phí kinh doanh tăng.
Nhưng nếu tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí thì vẫn đảm bảo
có lãi tức là việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả.
- Chi phí kinh doanh: Có thể hiểu chi phí kinh doanh là đảm bảo tốt nhất
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở sử dụng hợp lý tiết
kiệm mọi nguồn vật tư, tiền vốn, sức lao động của doanh nghiệp để đạt được
lợi nhuận tối đa trong khuôn khổ pháp luật, nâng cao năng suất lao động và
hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.
Để quản lý tốt chi phí kinh doanh, các doanh nghiệp lập kế hoạch chi phí
sản xuất kinh doanh, lập kế hoạch tài chính là hình thức hoá tiền tệ tính toán
các chỉ tiêu về chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, phục vụ cho sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế hoặch, cùng các biện pháp phấn đấu
thực hiện kế hoạch đó, kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh là những mục
tiêu phấn đấu của đơn vị, đồng thời cũng là căn cứ để đơn vị cải tiến công tác
quản lý kinh doanh, thực hiện chế độ tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh, hạ
giá thành sản phẩm hàng hoá, tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả kinh tế cho doanh
nghiệp trong kỳ.
Chi phí kinh doanh là nhân tố tương quan tỉ lệ nghịch với hiệu quả sử
dụng vốn ta nhận thấy từ chỉ tiêu:
=
Nếu tổng số vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ là một số cố định.
Khi tổng chi phí thực tế đã chi trong kỳ tăng (giảm) sẽ trực tiếp làm cho hệ só
sinh lời của VLĐ trong kỳ đó giảm (tăng) tức là hiệu quả sử dụng VLĐ giảm
(tăng).
- Lượng tiền mặt tồn quỹ trong doanh nghiệp có thể ảnh hưởng tới hoạt
động sản xuất kinh doanh, đây là bộ phận VLĐ giúp doanh nghiệp thanh toán
với khách hàng, tận dụng thời cơ trong kinh doanh, giao dịch với ngân hàng
và tổ chức tín dụng. Nếu lượng tiền này nhỏ hơn mức trung bình cần thiết thì
không đủ để doanh nghiệp chi tiêu trong những ngày không giao dịch với
ngân hàng. Còn nếu lượng tiền này lớn hơn mức trung bình cần thiết thì sẽ
gây ra thừa tiền trong quỹ, lãng phí vốn.
- Mức dự trữ hàng hoá: Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được liên
tục, thường xuyên, tốc độ quay vốn nhanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có
mức dự trữ hàng hoá phù hợp với quy mô kinh doanh. Nếu vốn dự trữ hàng
hoá thực tế nhỏ hơn mức tối thiểu cần thiết thì doanh nghiệp sẽ thiếu hàng để
bán ra, hoạt động bán hàng bị gián đoạn, doanh thu đạt được không được tối
đa, dẫn đến hiệu quả sử dụng VLĐ không tốt. Còn nếu dự trữ hàng hoá thực
tế lớn hơn mức dự trữ cao nhất thì hàng hoá bị ứ đọng trong kho gây lãng phí
vốn mặc dù doanh thu có thể đạt được như dự tính.
- Tốc độ luân chuyển của VLĐ: Với mức lợi nhuận đạt được ở mỗi vòng
quay vốn là cố định. Tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ sẽ phụ thuộc vào số
vòng quay vốn ở kỳ kinh doanh đó.
Như vậy tổng lợi nhuận trong mỗi kỳ kinh doanh trên một lượng VLĐ
cho biết trước có quan hệ tương quan tỷ lệ thuận với số vòng quay của VLĐ
trong kỳ đó.
2. Các nhân tố không thể lượng hoá được
Đó là những nhân tố mang tính định tính và mức độ tác động của chúng
đối với hiệu quả sử dụng VLĐ là không thể tính được. VLĐ của doanh nghiệp
trong cùng một lúc được phân bố trên khắp các giai đoạn luân chuyển và biểu
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình vận dụng đó VLĐ chịu
tác động của nhiều nhân tố làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VLĐ của
doanh nghiệp.
a) Xét về mặt khách quan
Hiệu quả sử dụng VLđ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của một số
nhân tố sau:
+ Lạm phát: Do tác động của nền kinh tế thị trường có lạm phát là cho
sức mua của đồng tiền sụt giảm hay giá cả của các loại vật tư hàng hoá tăng
lên... Vì vậy nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các loại
tài sản đó thì sẽ làm cho VLĐ giảm dần theo tốc độ trượt giá của tiền tệ.
+ Rủi ro: Do rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà
các doanh nghiệp thường gặp phải trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế, cùng cạnh tranh... Khi kinh tế thị
trường không ổn định, sức mua có hạn thì càng làm tăng khả năng rủi ro của
doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải gặp nhiều rủi ro do thiên tai
gây ra như: hoả hoạn, bão lụt... mà các doanh nghiệp khó có thể tránh được.
+ Yếu tố sản xuất tiêu dùng: chu kỳ, tính thời vụ của sản xuất và tiêu
dùng ảnh hưởng trực tiếp tới mức lưu chuyển hàng hoá.
Những hàng hoá có chu kỳ sản xuất dài vốn hàng hoá lớn sẽ làm cho tốc
độ chu chuyển VLĐ chậm và ngược lại bên cạnh sự phân bổ hàng hoá giữa
nơi sản xuất và tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển hàng hoá.
Nếu sự phân bố này là hợp lý sẽ tạo điều kiện rút ngắn thời gian lưu thông
hàng hoá, tăng tốc độ chu chuyển tăng hiệu quả sử dụng VLĐ.
+ Nhu cầu thị trường, giá cả hàng hoá dịch vụ. Trong thị trường cạnh
tranh hoàn hảo, nhu cầu về thị trường và giá cả hàng hoá và dịch vụ là những
biến số rất khó xác định. Sự thay đổi của cũng cũng ảnh hưởng đến hiệu quả
việc sử dụng vốn hay lợi nhuận thu được của doanh nghiệp.
Chẳng hạn, có sự biến động lớn về sức mua đối với một hàng hoá nào đó
mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Nếu sức mua mặt hàng này giảm doanh
nghiệp sẽ đạt mức doanh thu và lợi nhuận thấp làm cho hiệu quả sử dụng
VLĐ thấp. Ngược lại doanh nghiệp sẽ đạt được mức doanh thu về lợi nhuận
cao hơn.
+ Giá cả cũng tác động tương tự như vậy, sự thay đổi giá cả có thể cho
sự biến động đột ngột của nhu cầu hoặc số lượng cung ứng. Giá cả thay đổi sẽ
làm tăng lên hoặc giảm đi mức độ lãi mf doanh nghiệp thu được trên một đơn
vị hàng hoá tiêu thụ.
+ Các chính sách kinh tế của nhà nước: Để thưc hiện chức năng quản lý
vĩ mô nền kinh tế của nhà nước, nhà nước đưa ra chính sách kinh tế phù hợ để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phù hợp với từng thời kỳ, giai doạn phát triển
của nền kinh tế.
+ Các chính sách thuế, đây là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà
nước, thuế có tác động trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Vì đây là khoản chi phí bắt buộc. Nếu nhà nước đóng thuế thấp đối
với ngành kinh doanh của doanh nghiệp thì lợi nhuận thu được nhiều hơn,
doanh nghiệp có xu hướng mở rộng quy mô kinh doanh. Ngược lại với mức