Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.39 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Nhóm: 5
Lớp học phần: 2203HCMI0102
Giáo viên giảng dạy: Nguyễn Thị Thu Hà

Hà Nội, tháng 4 năm 2022


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................3
CHƯƠNG 1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI...............................................................................................4
1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...............................4
2. Đặc điểm, thực chất của thời kỳ quá độ.......................................................................5
CHƯƠNG 2 TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM......................................................................................................................... 7
1. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chuẩn bị những tiền đề vật chất và
tinh thần cho chủ nghĩa xã hội.........................................................................................7
2. Lựa chọn đi lên Chủ nghĩa Xã hội phù hợp với...........................................................8
2.1. Xu thế phát triển của thời đại...............................................................................8
2.2. Đặc điểm, tình hình của Việt Nam.......................................................................10
2.3. Nguyện vọng của nhân dân Việt Nam.................................................................12


3. Những cơ hội, thách thức của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam........13
3.1. Những cơ hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.....................13
3.2. Những khó khăn, thách thức của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
................................................................................................................................... 15
4. Mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội....................16
4.1. Mục tiêu..............................................................................................................16
4.2. Nhiệm vụ.............................................................................................................17
5, Những định hướng phát triển.....................................................................................18
5.1. Kinh tế................................................................................................................. 18
5.2. Xã hội, văn hóa...................................................................................................19
5.3. Quốc phịng – an ninh.........................................................................................19
5.4. Đối ngoại............................................................................................................21
KẾT LUẬN......................................................................................................................24

2


LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa xã hội là một trong ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong thế kỷ 19
bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ. Khơng có định nghĩa rõ ràng về chủ nghĩa
xã hội mà nó bao gồm một loạt các khuynh hướng chính trị từ các phong trào đấu tranh
chính trị và các đảng cơng nhân có tinh thần cách mạng, những người muốn lật đổ chủ
nghĩa tư bản nhanh chóng và bằng bạo lực cho tới các dòng cải cách chấp nhận Thể chế
Đại nghị và dân chủ như chủ nghĩa xã hội dân chủ, thậm chí phát xít Đức cũng tự nhận
mình là những người theo chủ nghĩa xã hội. Theo đó, có sự phân biệt giữa những khuynh
hướng chủ nghĩa cộng sản, dân chủ xã hội và vô chính phủ. Những người theo chủ nghĩa
xã hội thường nhấn mạnh giá trị cơ bản như bình đẳng, cơng bằng và đoàn kết và đề cao
mối quan hệ chặt chẽ giữa những phong trào xã hội và lý thuyết phê phán xã hội. Họ theo
đuổi mục tiêu tạo ra một trật tự xã hội hịa hợp và hướng đến cơng bằng xã hội.
Việt Nam chúng ta cũng là một nước đang theo đuổi và ở trong giai đoạn vô cùng

quan trọng trong việc tiến tới xã hội lí tưởng đó – giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội. Vậy tại sao giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội lại quan trọng như vậy cũng như
trong quá trình này thì nước ta đã phải làm gì, trải qua những gì. Đó chính là những điều
cần phải làm rõ trong đề tài mà nhóm em đã lựa chọn thông qua sự gợi ý, hướng dẫn của
cô :” Tính tất yếu của việc lựa chọn con đường quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt
Nam”.
Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm em đã cố gắng đưa ra những dữ liệu, những
phân tích, những tài liệu tham khảo trong sách, internet, bài giảng của cô… và nhiều
nguồn khác. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian và về kiến thức nên chắc chắn sẽ có nhiều
sai sót. Rất mong cơ góp ý thêm cho nhóm để hồn thiện đề tài tốt hơn. Xin chân thành
cảm ơn!

3


CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ, đồng thời các nhà sáng lập chủ nghĩa
xã hội khoa học cũng phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng
sản:
- Quá độ trực tiếp: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những nước
đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Cho đến nay thời kỳ quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa
cộng sản từ chủ nghĩa tư bản phát triển chưa từng diễn ra.
- Quá độ gián tiếp: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những nước
chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều
nhất định phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ cịn có sự đan xen

lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể nói đây là thời
kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói chung theo tính tất yếu
phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ
lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu,
thậm chí có thể kéo dài.
Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định
từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa đối với
chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo
ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cơ sở vật chất
của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại công nghiệp nhưng đó là nền sản
xuất đại cơng nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải là nền đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc
nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Đối với những nước chưa từng trải qua q trình cơng nghiệp hóa tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
4


hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành cơng nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vơ cùng to lớn và đầy khó khăn, khơng thể “đốt cháy
giai đoạn” được.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội khơng tự phát nảy sinh trong lịng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều
kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, đo vậy cũng cần
phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Bốn là, cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cơng việc mới mẻ, khó khăn
và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân lao

động khơng thể ngay lập tức có thể đảm đương được cơng việc ấy, nó cần phải có thời
gian nhất định.
2. Đặc điểm, thực chất của thời kỳ quá độ
2.1. Đặc điểm
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách
mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất – kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ
nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ giai cấp công nhân và nhân dân
lao động dành được chính quyền đến khi xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Có thể
khái qt những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như sau:
-

Trên lĩnh vực kinh tế

Thời kỳ này tất yếu còna tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống
kinh tế quốc dân thống nhất. Và tương ứng với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác
nhau, nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của giai cấp xã hội đã thay đổi một cách sâu sắc.
Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là khách quan, lâu dài, có lợi cho sự phát
triển của lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế.
Nền kinh tế nhiều thành phần được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại
nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng,
đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau trong đó
hình thức phân phối khác nhau trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày
càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
-

Trên lĩnh vực chính trị
5



Các nhân tố của xã hội mới và tàn dư của xã hội cũ tồn tại đan xen lẫn nhau, đấu
tranh với nhau trên mọi lĩnh vực đời sống. Trong xã hội lúc này tồn tại nhiều thành phần
với rất nhiều tư tưởng, ý thức khác nhau.
-

Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa

Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng
khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp công nhân thơng qua
đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng văn hóa vơ sản, nền văn
hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại,
bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.
-

Trên lĩnh vực xã hội

Do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần quy định nên trong thời kỳ quá độ còn
tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp tầng lớp xã hội, các giai
cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong xã hội của thời kỳ quá độ còn
tồn tại sự khác biệt gữa nơng thơn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Bởi vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giai
cấp chống áp bức, bất cơng, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư của xã hội cũ để lại,
thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ
đạo.
2.2. Thực chất của thời kỳ quá độ
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, khơng cịn là giai cấp thống trị và những thế
lực thù địch chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân
lao động. Cuộc đấu tranh này diễn ra trong hoàn cảnh mới là giai cấp cơng nhân giành
được chính quyền nhà nước và nó diễn ra trong mọi lĩnh vực.

Thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa
sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan xen của nhiều
tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và những yếu
tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa mới phát sinh, … là thời kỳ đấu tranh quyết liệt
giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên mọi lĩnh vực.

6


CHƯƠNG 2
TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM
1. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chuẩn bị những tiền đề vật
chất và tinh thần cho chủ nghĩa xã hội
Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã tạo ra tiền đề hiện thực (cả vật
chất và tinh thần) cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. Đó khơng chỉ là sự phát triển của
lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất, nền đại công nghiệp, phương pháp quản lý, tổ
chức sản xuất và xã hội mà còn cả sự phát triển tồn diện của văn hóa, xã hội và con
người. Đó chính là tiền đề hiện thực của sự ra đời của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm cơ bản của quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa.
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó khăn đan
xen, có những đặc trưng cơ bản:
- Xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất
thấp. Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt, kéo dài nhiều thập kỉ, hậu quả để lại còn nặng
nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm
cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn húttất
cả các nước ở các mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong
q trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống

các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra
những thách thức gay gắt.
- Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
cho dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Các nước với chế độ xã
hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh
gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức,
song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy
nhất đúng, khoa học, phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của cách mạng Việt
Nam trong thời đại ngày nay. Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã chỉ rõ: Sau khi hoàn
7


thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa
chọn dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc, nhân
dân, phản ánh xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng
và sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng này cần được
hiểu đầy đủ với những nội dung sau đây:
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con
đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong thời kì q độ cịn nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, song sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư bản
chủ nghĩa không chiếm vai trị chủ đạo; thời kì q độ cịn nhiều hình thức phân phối,
ngồi phân phối theo lao động vẫn cịn là chủ đạo là phân phối theo mức độ đóng góp và

quỹ phúc lợi xã hội; thời kì q độ vẫn cịn quan hệ bóc lột và bị bóc lột, song quan hệ
bóc lột tư bản chủ nghĩa khơng giữ vai trò thống trị.
Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc
biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành tựu về quản lí để phát triển xã
hội, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế hiện đại, phát triển nhanh lực lượng sản xuất.
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất q độ
địi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao và khát vọng lớn của tồn Đảng, toàn dân.
2. Lựa chọn đi lên Chủ nghĩa Xã hội phù hợp với
2.1. Xu thế phát triển của thời đại
Trong giai đoạn hiện nay của thời đại, thế giới đang đứng trước các xu thế nổi bật
tác động đến chiều hướng phát triển toàn nhân loại và chi phối trực tiếp đến tất cả các
nước.
- Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục phát triển cả về trình độ và tính chất
8


Tồn cầu hóa, xét về bản chất, là q trình gia tăng và lan tỏa những mối liên hệ
ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia,
các dân tộc trên tồn thế giới. Tồn cầu hóa là xu thế và kết quả tất yếu của quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường hiện đại, thúc đẩy quá trình mở rộng quan hệ nhiều mặt ra
khỏi phạm vi quốc gia, tăng cường mối liên hệ, hợp tác cùng có lợi. Các nước vừa có cơ
hội, vừa khơng thể cưỡng lại sức lơi cuốn của q trình tồn cầu hóa. Tồn cầu hóa trở
thành q trình tất yếu khơng ngừng phát triển, kéo theo cả thế giới vào cuộc chơi hội
nhập cùng phát triển, hợp tác và đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Hội nhập quốc tế hiện nay cũng trở thành một lẽ đương nhiên mà không nước nào
có thể bỏ qua được. Hội nhập quốc tế là tiến trình mỗi quốc gia theo đuổi lợi ích, mục tiêu
của mình thơng qua việc tự giác hợp tác liên kết với các quốc gia khác và các tổ chức

quốc tế trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng…)
dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi ích, giá trị, nguồn lực, quyền lực và chủ động chấp
nhận, tiếp thu tham gia xây dựng các luật chơi chung, chuẩn mực chung trong khuôn khổ
các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Quá trình hội nhập quốc tế bắt đầu từ thập niên 50 của
thế kỷ trước và bùng nổ từ thập niên 1990 đến nay. Hàng loạt các tổ chức khu vực đã ra
đời như việc hội nhập toàn diện của Liên minh châu Âu (EU) đã đạt đến mức độ cao, biến
tổ chức này trở thành một thực thể mạnh siêu quốc gia. Các nước trong Cộng đồng các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng dang mở rộng và làm sâu sắc tiến trình hội nhập
khu vực một cách tồn diện hơn dựa trên ba trụ cột: Cộng đồng chính trị - an ninh, Cộng
đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa xã hội; Ở cấp độ tồn cầu, sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc đã ra đời, ngày
càng phát triển với số lượng thành viên bao quát hầu hết các nước trên thế giới.
- Xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ
Thế giới đang chứng kiến chưa bao giờ cách mạng khoa học – công nghệ lại phát
triển mạnh mẽ như hiện nay. Cách mạng khoa học – cơng nghệ chính là sự thay đổi căn
bản trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ cũng như mối quan hệ và chức năng kinh tế,
xã hội của chúng, tác động lớn đến cơ cấu và động thái phát triển của sức sản xuất xã hội.
Quan trọng nhất của cách mạng khoa học – cơng nghệ là nổi lên vai trị hàng đầu của yếu
tố con người trong hệ thống lực lượng sản xuất dựa trên việc vận dụng đồng bộ và hữu
hiệu các ngành cơng nghệ có hàm lượng trí tuệ cao. Cách mạng khoa học – công nghệ
làm biến đổi tận gốc lực lượng sản xuất xã hội, thực hiện vai trò dẫn đường và kết nối
trong tồn bộ chu trình cơng nghệ - sản xuất – con người – xã hội – môi trường.

9


Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra rất mạnh mẽ, trở thành một
trong những xu thế phát triển mới của đời sống nhân loại trong giai đoạn hiện nay của
thời đại. Đặc trưng của cuộc cách mạng này là sự hợp nhất, không ranh giới giữa các lĩnh
vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật và sinh học. Đó là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo

và thực, vạn vật kết nối. Cuộc cách mạng này làm cho thế giới “phẳng” hơn, thúc đẩy quá
trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế có những bước tiến mới mạnh mẽ hơn, làm cho các
nước có cơ hội mới và cũng đứng trước những thách thức mới. Với tốc độ phát triển cao,
thay đổi nhanh chóng và sự kết hợp nhiều cơng nghệ khác nhau, lồi người đứng trước sự
thay đổi lớn và khả năng phát triển chưa từng có.
- Xu thế hịa bình, hợp tác, phát triển
Thế kỷ XX đã xảy ra 2 cuộc chiến tranh thế giới mà hậu quả vơ cùng thảm khốc.
Cịn hiện nay, nếu chiến tranh thế giới, chiến tranh giữa các nước lớn xảy ra sẽ dẫn tới
nguy cơ phá vỡ toàn bộ hạ tầng kinh tế của nhiều nước và nếu trở thành cuộc chiến tranh
hạt nhân thì tất cả sẽ bị hủy diệt. Vậy nên hịa bình và ổn định là nhu cầu và khát vọng của
toàn nhân loại. Phải có hịa bình mới có hợp tác, phát triển và ngược lại, nếu thế giới bình
yên, hợp tác và phát triển được đẩy mạnh sẽ củng cố được hịa bình của thế giới. Chính sự
hợp tác, hội nhập quốc tế, tùy thuộc lẫn nhau, đan xen lợi ích giữa các quốc gia khiến mọi
bất ổn, biến động sẽ được giải quyết một cách thỏa đáng.
Hịa bình, hợp tác và phát triển đã và đang là một trong những xu thế khách quan,
hết sức quan trọng và tối cần thiết trong quan hệ quốc tế hiện nay. Đây là xu thế và là ước
mong của toàn nhân loại để xu thế này trở thành một giá trị lâu bền, bởi xu thế là vậy
nhưng trên thực tế, ở nhiều nơi trên thế giới chưa có hịa bình, bởi vẫn có bạo lực, cường
quyền áp đặt thay cho hợp tác và vẫn có những nguy cơ kèm lẫn sự phát triển.
2.2. Đặc điểm, tình hình của Việt Nam
Việt Nam là nước có số dân tương đối đơng, nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng.
Nhân dân ta đã lập nên chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản, đã xây dựng những cơ sở
ban đầu về chính trị, kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo - một đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, khoa học và trí tuệ,
có đường lối đúng đắn và gắn bó với quần chúng - đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng, bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

10



Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội tuy khơng cịn sự giúp đỡ của Liên Xơ và các
nước xã hội chủ nghĩa như trước, nhưng trong giai đoạn mới của thời đại, khi cách mạng
khoa học - công nghệ và tồn cầu hóa đời sống thế giới, tất cả các nước đều ở trong mối
liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, không một nước nào sống biệt lập mà có thể phát triển được.
Sự hợp tác kinh tế với các nước bằng nhiều hình thức sinh động trên nguyên tắc bình
đẳng cùng có lợi, tơn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau dưới bất kỳ hình thức nào, sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại,
kinh nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là khả
năng thực tế mà chúng ta đã và đang cố gắng tận dụng, đưa nước ta hòa nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác, khơng chỉ có thời cơ mà cịn có cả những thách thức, những nguy cơ.
Trong hợp tác kinh tế với các nước, nhất là với các nước tư bản phát triển, là những trung
tâm kinh tế kỹ thuật hùng mạnh, họ có thể lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật và công nghệ
hiện đại để gây sức ép đối với chúng ta, nhất là trong những lúc chúng ta gặp khó khăn,
buộc chúng ta phải chấp nhận những điều kiện có lợi cho họ, hịng lái chúng ta đi chệch
khỏi định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù “hịa bình, hợp tác”, phát triển là xu hướng của
thời đại nhưng còn một xu hướng khác đối lập là xu hướng cường quyền, áp đặt. Mưu
toan của các thế lực cường quyền, hiếu chiến đang thể hiện trong các điểm nóng trên
nhiều khu vực của thế giới đang là những mưu toan độc chiếm các vùng biển, đảo, xâm
phạm độc lập, chủ quyền của nước khác.
Đó là những thách thức, những nguy cơ mà chúng ta cần có sự nhận thức sâu sắc
và tỉnh táo, không một chút mơ hồ, mất cảnh giác, để có những chủ trương, biện pháp
ngăn ngừa, đối phó hữu hiệu. Chúng ta thực hiện phương châm vừa hợp tác, vừa đấu
tranh trên cơ sở giữ vững những vấn đề có tính ngun tắc về mục tiêu chiến lược và
mềm dẻo linh hoạt về sách lược. Đấu tranh không phải để phá vỡ hợp tác mà để phát triển
sự hợp tác. Phải biết khéo lợi dụng những mâu thuẫn trong hệ thống tư bản chủ nghĩa,
nhất là mâu thuẫn giữa các nước lớn trong xu hướng đa cực hóa để mở rộng sự hợp tác

vừa có lợi, vừa bảo vệ được mình và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những tình huống xấu
nhất, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Một vấn đề nữa cũng không kém phần quan trọng là khi nước ta hội nhập vào kinh
tế khu vực và kinh tế thế giới, chúng ta cũng chịu sự tác động hai chiều tích cực và tiêu
cực đến kinh tế của nước ta. Tác động tích cực khi kinh tế khu vực và kinh tế thế giới ổn
11


định phát triển, tác động tiêu cực khi kinh tế thế giới và kinh tế khu vực rơi vào trì trệ,
khủng hoảng. Chúng ta cần có chính sách sử dụng tốt mặt tích cực và ngăn ngừa, hạn chế
mặt tiêu cực, giữ cho nền kinh tế nước ta ổn định và phát triển.
Đây là bài học thực
tế đã xử lý trước những tác động tiêu cực của cơn khủng hoảng tài chính - tiền tệ và
khủng hoảng kinh tế trong khu vực và thế giới trong thời gian qua.
Như vậy, từ một nước kinh tế kém phát triển, nếu chúng ta biết tranh thủ những
thời cơ, những thuận lợi và biết vượt qua những thách thức, những nguy cơ, chúng ta có
thể “phát triển rút ngắn” lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo quan
điểm của V.I. Lênin, Người đã có đóng góp to lớn vào lý luận về sự “phát triển rút ngắn”
và chính sách kinh tế mới (NEP). Nó đã được thực tiễn khảo nghiệm mà ngày nay Đảng
ta đang vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta.
Xuất phát từ tình hình như thế, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng, Việt Nam
đang trong tư thế vươn tầm, kiên định con đường đã lựa chọn, có đủ sức lực và trí tuệ để
tiến bước cùng thế giới, cùng thời đại, nhất định thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.3. Nguyện vọng của nhân dân Việt Nam
Ước mơ, khát vọng ngàn đời của người Việt Nam là: Tổ quốc độc lập, hịa bình,
thống nhất, phát triển, nhân dân có cuộc sống tự do, hạnh phúc. Trong bài viết của Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu
tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự

xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng
của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân”, “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá
trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã
hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã
hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”.
Trong giai đoạn hiện nay, ý chí, khát vọng của người dân Việt Nam vẫn là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; bảo vệ vững chắc nền độc lập, thống nhất của Tổ
quốc, xây dựng, phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các
nước trên thế giới, có vị thế xứng đáng trên bản đồ thế giới, có trách nhiệm cao trong giải
quyết các vấn đề tồn cầu trên tinh thần tơn trọng, hịa bình, hợp tác và phát triển. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thành công rất tốt đẹp ở nhiều phương diện,
trong đó có sự quan tâm, đóng góp, ủng hộ của tồn xã hội. Các mục tiêu, nhiệm vụ giải
pháp đến năm 2025, 2030, 2045 mà Văn kiện Đại hội xác định nhận được sự đánh giá cao
12


và đồng tình của người dân. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội
đồng nhân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 được dư luận đánh giá cao, đặc biệt là sự tham
gia trên 99% của cử tri, có nơi đạt 100% cử tri đi bầu. Các đại biểu trúng cử cơ bản tập
trung, đúng người có tài, có đức, số phiếu tín nhiệm rất cao.
Trong cuộc chiến chống “giặc” COVID-19, cả thế giới đều ghi nhận nước ta là số
ít quốc gia kiểm sốt và chống dịch hiệu quả nhất, trong đó có sự ủng hộ, đồng tình tuyệt
đối, tham gia của các cấp, các ngành và tồn dân... Thực tế đó đã chứng minh, người dân
Việt Nam luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội- con đường mà Đảng, Bác Hồ, các thế hệ
cha anh đã lựa chọn và đổ biết bao mồ hôi xương máu mới giành được. Đi lên chủ nghĩa
xã hội vẫn là ý chí, nguyện vọng của người dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Những cơ hội, thách thức của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
3.1. Những cơ hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Thứ nhất, thực tiễn phát triển của đất nước và xu hướng vận động của thế giới tạo
cơ hội chi Việt Nam phân tích, tổng kết, hình dung và học hỏi được nhiều kinh nghiệp hơn
về mơ hình và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Do đường lối sai lầm trên phương diện
lý luận và thực tiễn đã dẫn đến sự sụp đổ của mơ hình xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu và
Liên Xơ cũ. Thực tiễn này địi hỏi cần phải đổi mới, cải cách, xây dựng mô hình Xã hội
chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn của đất nước. Như vậy các xu hướng phát triển thế giới
đã tạo ra cơ hội cho các quốc gia xác lập mơ hình xã hội mới phù hợp. Đối với Việt Nam
đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội. Đây chính là con đường
phù hợp để Việt Nam thực hiện: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, cơ hội trong hợp tác giao lưu, tìm kiến nguồn vốn, cơng nghệ và quản lý
đối với các nước đi sau. Trong điều kiện tồn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học công nghệ đã thúc đẩy các quốc gia mở cửa và hội nhập. Đây cũng là một cơ hội tốt
để Việt Nam có thể hợp tác để cùng giao lưu và tìm kiếm nguồn vốn, cơng nghệ và quản
lý. Quá trình giao lưu, hội nhập tạo điều kiện nâng cao trình độ dân trí, sự hiểu biết lẫn
nhau, đồng thời, tạo điều kiện cho việc tiếp thu các thành tựu và kinh nghiệp phát triển
của các nước đi trước, có trình độ phát triển cao, để phát triển rút ngắn đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam.
Trong điều kiện mới ngày nay, không gian liên kết kinh tế và hội nhập được mở
rộng. Bên cạnh đó, với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông
13


tin càng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập. Việt Nam ngày nay có thể thực
hiện hội nhập cả ở cấp độ song phương, khu vực và tồn cầu. Điều đó cũng có nghĩa rằng,
cơ hội tranh thủ các nguồn lực quốc tế rộng mở hơn đối với quá trình phát triển của Việt
Nam. Vấn đề chỉ còn ở chỗ chúng ta tranh thủ các nguồn lực đó như thế nào cho hiệu quả.
Thứ ba, điều kiện hiện nay mở rộng cơ hội tập hợp lực lượng tiến bộ vì hịa bình,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Ở các nước Tư bản chủ nghĩa hiện nay cho thấy rõ không
thể tiếp tục cách thức phát triển truyền thống gây ô nhiễm môi trường, ảnh hường đế chất
lượng cuộc sống của người dân. Hàng loạt các vấn đề toàn cầu xảy ra ngày càng nghiêm

trọng, đơn cử như việc biến đổi khí hậu, ơ nhiễm mơi trường, … địi hỏi phải có sự chung
sức của cộng đồng quốc tế cùng nhau giải quyết, chứ không phải chỉ một nước, thậm chí
một nhóm nước có thể giải quyết được.
Điều này, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc mở rộng cơ hội tập hợp
lực lượng tiến bộ. Có thể nói, trong điều kiện thế giới hiện nay, phương thức tập hợp lực
lượng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Việt Nam có nhiều cơ hội tham gia các tổ chức
quốc tế để đấu tranh bảo vệ quyền lợi, đồng thời tham gia xác định các “luật chơi” cho
phù hợp, có lợi với mình và với hồ bình phát triển.
Thứ tư, kinh nghiệm 30 năm đổi mới tạo tiềm lực, cả về vật lực và trí lực. Đây
chính là điều kiện và cơ hội cực kỳ quan trọng cho việc vững bước trên con đường xã hội
chủ nghĩa đã được lựa chọn. Quá trình phát triển của Việt Nam, đặc biệt công cuộc đổi
mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 30 năm qua đã thu được
những kết quả đáng kể. Khơng ít quốc gia xem Việt Nam là tấm gương trong phát triển,
xóa đói, giảm nghèo. Chính trong 30 năm đổi mới Đảng ta đã rút ra những bài học kinh
nghiệm, trở thành phương châm hành động nhằm tận dụng tốt các cơ hội, vượt qua các
thách thức trong bước đường phát triển tiếp theo. Và cũng chính trong thực tiễn cách
mạng, đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam ngày
càng được tôi luyện. Điều này, một mặt củng cố và khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của
con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa ở nước ta; măt khác,
đó cịn là các điều kiện, cơ sở cho việ tiếp tục vững bước trên con đường đã chọn.
Thứ năm, truyền thống yêu nước, cần cù, yêu lao động, hiếu học, đề cao tính cộng
đồng - đề cao trách nhiệm xã hội và giá trị gia đình trong bối cảnh hội nhập hiện nay
cũng đã và đang mở ra những cơ hội cho tiếp thu những giá trị tinh hoa của nhân loại, từ
đó nhân lên sức mạnh của dân tộc trên con đường phát triển. Những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam còn là màng lọc hiệu quả nhất trong quá trình giao lưu, hội nhập

14


quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay, nhất là sự phát triển của mạng thơng tin tồn cầu, các

tin tức, sự kiện thế giới luôn tác động đến mọi người, mọi nơi, mọi lúc. Các thế lực thù
địch ln tìm cách chống phá quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta với nhiều
cách thức, biện pháp tinh vi. Nếu khơng có sự tự đề kháng, nếu khơng có bản lĩnh vững
vàng, nguy cơ thối hóa biến chất, thậm chí là chuyển hóa ln hiển hiện. Chính vì vậy,
để tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu, hội nhập phát triển rất cần phát huy các giá trị
truyền thống, tạo nền tảng văn hóa lành mạnh, làm cơ sở để tiếp thu các giá trị tinh hoa
của nhân loại, loại trừ những tác động tiêu cực.
3.2. Những khó khăn, thách thức của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Thứ nhất, đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội khi các nước đi trước đã và
đang gặp nhiều khó khăn nhất định trong việc tạo lập cơ sở vật chất của xã hội mới, khi
mà bản thân điều kiện vật chất nội tại trong nó cịn nhiều hạn chế và nghèo nàn. Ngồi ra,
cịn có sự chống phá của các thế lực trong và ngoài nước.
Trong điều kiện mới phải tự xác định cho mình mơ hình phát triển, khơng có sẵn
những tấm gương và sự giúp đỡ to lớn của các nước đi trước, đồng thời tự mình hội nhập
vào xu thế phát triển chung vừa có cơ hội, vừa có thách thức để tranh thủ các cơ hội, tạo
lập các cơ sở vật chất của xã hội mới. Công việc này càng khó khăn và thách thức lớn hơn
khi mà ngày nay các quốc gia đều tìm cách tranh thủ vượt lên, lấy lợi ích quốc gia làm
tiêu chí trong hợp tác. Nếu khơng có quyết tâm, khơng có một đường lối, chiến lược phát
triển phù hợp thì nguy cơ tụt hậu luôn luôn đặt ra trên bước đường phát triển.
Thứ hai, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền
kinh tế phát triển mạnh mẽ cũng đặt ra nhiều nguy cơ về việc suy thoái đạo đức, lối sống,
nhất là lối sống thực dụng, thiếu tính nhân văn cũng đang và từng ngày từng giờ tác động
đến cán bộ, đảng viên và nhất là tầng lớp trẻ. Thực tế đó là một thách thức to lớn cho
Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng Đảng, đào tạo nền tảng chính trị xã hội
vững chắc trong từng lớp Đảng viên.
Rõ ràng là, đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong bối cảnh
hiện nay đặt trước những người cộng sản và dân tộc Việt Nam khơng ít thách thức. Những
thách thức đó biểu hiện dưới các nguy cơ được Đảng ta khái quát tại Hội nghị đại biểu
tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), đó là: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế

so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng
trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt;
15


nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong
chỉ đạo thực hiện; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; âm mưu và hành động “diễn
biến hịa bình” của các thế lực thù địch. Sự tổng kết này vẫn còn ngun giá trị trong bối
cảnh hiện nay, thậm chí có những mặt còn diễn biến phức tạp hơn.
Thứ ba, mặc dù quan điểm chính trị độc lập, chủ quyền, và tồn vẹn lãnh thổ ln
được sự thống nhất và đồng ý của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh
hiện nay lại đặt ra nhiều thắc thức với Việt Nam hơn trong vấn đề này. Đòi hỏi Việt Nam
phải thật khôn khéo và tế nhị nếu không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển mô hình
Xã hội chủ nghĩa của đất nước. Nếu khơng xử lý tốt các thách thức về bảo vệ chủ quyền
biển, đảo sẽ rất khó khăn trong việc tạo cơ hội củng cố khối đoàn kết toàn dân ở bên
trong. Ngược lại, xử lý tốt vấn đề này sẽ tạo ra sức mạnh nội tại tổng hợp, đồng thời tạo
cơ hội, điều kiện gắn lợi ích của ta với lợi ích của cộng đồng quốc tế, thơng qua đó thu
hút sự quan tâm của khu vực và cộng đồng quốc tế, tạo thành một mặt trận quốc tế rộng
rãi ủng hộ Việt Nam. Như vậy, từ thách thức về chủ quyền an ninh quốc gia, chúng ta
khơng chỉ hóa giải được nguy cơ, mà còn giúp tạo ra sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, tạo thế và lực cho Việt Nam trên bước đường phát triển đi lên chủ
nghĩa xã hội.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
4.1. Mục tiêu
1) Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, lấy liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ
nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân;
2) Phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hố đất nước theo hướng hiện đại gắn

liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân;
3) Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày

16


càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu;
4) Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm
cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong
đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất
cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã
hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức,
đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái
với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái
với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội;
5) Thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện
chính sách đối ngoại hồ bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất
cả các lực lượng đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới;
6) Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân
ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an

tồn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng;
7) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
4.2. Nhiệm vụ
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các
tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong
đó lấy xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quả độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được Người lý giải trên các điểm
sau:

17


Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã
hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau. Như trong Di
chúc Hồ Chí Minh đã coi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc chiến đấu
khổng lồ của toàn Đảng toàn dân Việt Nam.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước, và nhân dân
ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối
với Đảng ta nên phải vừa làm vừa học và có thể có vấp váp, thiếu sót. Xây dựng xã hội
mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước là luôn luôn bị các thế lực
phản động trong và ngồi nước tìm cách chống phá.
5, Những định hướng phát triển
5.1. Kinh tế
Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với mơ hình tăng trưởng bao trùm - mơ hình

phát triển bao gồm cả kinh tế, tài chính, văn hóa - xã hội, trong đó con người phải là trung
tâm. Trong mơ hình phát triển này mọi người đều có cơ hội thể hiện hết tài năng, sáng tạo,
năng lực của mình và mọi người cũng như mỗi người đều được hưởng lợi, bảo đảm
“khơng bỏ ai lại phía sau” và phải hướng tới “nhu cầu của những đối tượng dễ bị tổn
thương nhất đều được đáp ứng”. Mơ hình phát triển bao trùm sẽ phát huy được vai trị con
người, từ đó giải quyết được điểm nghẽn về nguồn nhân lực chất lượng cao, từ đây sẽ giải
quyết được điểm nghẽn về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và điểm
nghẽn về kết cấu hạ tầng của nền kinh tế.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn; từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát triển các ngành kinh tế
biển phù hợp điều kiện cụ thể. Tạo đột phá trong năng xuất, sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao; cơng nghiệp hóa dược và kinh tế du
lịch. Quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh
thái. Chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống.
Hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, liêm chính, hành
động vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển đất nước trên tất cả các mặt lập pháp, hành
pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ. Xây dựng nền hành chính cơng khai, minh bạch, liêm
chính, từng bước xây dựng Chính phủ điện tử; quản trị thơng minh; xây dựng cơ chế kiểm
soát hiệu quả quyền lực.
18


Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sự lãnh đạo toàn
diện của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đội ngũ cán bộ,
cơng chức liêm khiết, có phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chun mơn ngang tầm
nhiệm vụ.
5.2. Xã hội, văn hóa
Tạo bước đột phá trong đổi mới giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công
nghệ; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nguồn nhân lực lãnh đạo, quản trị
đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0.

Tăng cường xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, văn
hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh phát triển đất nước. Phải “làm cho văn hóa thấm
sâu vào toàn bộ đời sống xã hội…”. Xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện,
là trung tâm, mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước.
Thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy quyền làm chủ của
nhân dân gắn với kỷ cương, kỷ luật. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây
dựng, khơi dậy niềm tin, khát vọng, niềm tự hào dân tộc của người Việt Nam. Tiếp tục đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội.
Tạo đột phá trong phát huy các nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; khơi dậy
niềm tin, khát vọng phát triển của mỗi người Việt Nam; phát huy sức mạnh mềm của dân
tộc cho phát triển. Giải quyết dứt điểm những vấn đề bức xúc, kéo dài; ngăn chặn, đẩy lùi
sự xuống cấp về đạo đức xã hội; phát triển xã hội lành mạnh. Lấy con người Việt Nam
làm trung tâm của mọi sự phát triển.
5.3. Quốc phòng – an ninh
Củng cố quốc phòng, an ninh, nhằm giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với mục tiêu là: “Phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại,
tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân,
chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững mơi trường
hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự,
kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Trước hết, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước, tạo môi trường
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài hợp tác làm ăn lâu dài. Điều này chỉ có thể đạt
19


được dựa trên các kết quả củng cố quốc phòng, an ninh. Đồng thời, tạo điều kiện, cơ hội
cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với bảo vệ, phát triển bền vững có hiệu

quả ở các khu, vùng kinh tế trọng điểm, địa bàn chiến lược, vùng biên giới, biển, đảo. Giữ
vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia trong các mối quan hệ quốc tế, bảo đảm cho kinh
tế, văn hóa, xã hội phát triển với tăng cường mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, chú trọng
hợp tác kinh tế biển với các nước có thế mạnh, tạo đan xen lợi ích.
Củng cố lực lượng quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối
ngoại. Kết hợp trong xây dựng lực lượng vũ trang với lực lượng nghiên cứu khoa học,
nhân lực chất lượng cao, lưỡng dụng cho cả mục tiêu quốc phịng, an ninh, kinh tế, văn
hóa, xã hội, đối ngoại. Chú trọng bồi dưỡng nâng cao nhận thức của nhân dân về nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc, nâng cao dân trí, kiến thức pháp luật, chất lượng
lực lượng của nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân với chất lượng nguồn nhân lực
cho kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Củng cố, xây dựng lực lượng quốc phòng, an
ninh, trọng tâm xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên
hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề
vững chắc, phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội, Công an cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đồng
thời, củng cố dân quân tự vệ ở các khu, vùng kinh tế trọng điểm, biên giới, biển, đảo vững
mạnh. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu chất lượng cao, chú trọng lực lượng
dân quân biển…; lực lượng Công an cơ sở đáp ứng nhiệm vụ an ninh, trật tự ở cơ sở;
củng cố các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược với bố trí các cụm dân
cư ổn định, giúp dân sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nơng thôn mới, ưu tiên
vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo.
Củng cố thế trận quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối
ngoại. Muốn thế cần gắn với quy hoạch của quốc gia, vùng, từng địa phương theo hướng
kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại.
Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, phịng thủ qn khu với xây dựng các cơng
trình phịng thủ dân sự; bố trí lực lượng vũ trang gắn với các cơ sở chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng trên các tuyến đảo gần bờ và xa bờ để tiếp
tục đưa người dân ra làm ăn và cư trú ổn định lâu dài, tạo tiền đề xây dựng các căn cứ hậu
cần - kỹ thuật, dịch vụ kỹ thuật đóng và sửa tàu biển, hậu cần nghề cá vùng biển, đảo. Bảo

vệ, hỗ trợ ngư dân, doanh nghiệp hoạt động dài ngày trên biển, đảo. Củng cố quốc phòng,
an ninh ở khu vực phịng thủ ln gắn với thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia
20


xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nơng thơn mới, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng,
quốc phòng - kinh tế. Kết hợp đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ kinh tế,
văn hóa, xã hội với xây dựng khu vực phòng thủ biển, đảo, biên giới, bảo vệ đường biên
cột mốc, xây dựng căn cứ hậu phương với quy hoạch, bố trí lại các điểm, cụm dân cư, xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở, “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,
biên giới, biển, đảo. Xây dựng công trình phịng thủ qn sự với dân sự ở các tỉnh, thành
phố, địa bàn trọng điểm, chiến lược, bảo đảm trong thời bình có khả năng tự lực giải
quyết những tình huống ở địa phương theo phương châm “4 tại chỗ”; khi xảy ra chiến
tranh chủ động đánh địch ngay từ đầu, theo phương châm cấp nào giữ cấp đó.
Tăng cường quốc phòng, an ninh với mở rộng hợp tác quốc tế, đấu tranh quốc
phòng gắn với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Hợp tác về quốc phòng, an
ninh tạo thời cơ thuận lợi cho hợp tác quốc tế ổn định, bền vững, đi vào chiều sâu, tạo
điều kiện cho hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, thu hút nguồn lực,
nhân lực chất lượng cao, khoa học, công nghệ tiên tiến. Nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế
thương mại của doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, mở rộng xuất nhập khẩu sản phẩm
quốc phịng và kinh tế, viễn thơng,… làm cho thị trường hàng hóa phục vụ quốc phịng,
an ninh, kinh tế ngày càng phong phú hơn, có điều kiện đầu tư, đổi mới cơng nghệ, từng
bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, đẩy nhanh hiện đại hóa
Qn đội và Cơng an. Lựa chọn đối tác có tiềm năng về khoa học - cơng nghệ tiên tiến,
vận dụng linh hoạt hình thức hợp tác đa phương và song phương toàn diện, song cần tập
trung vào các lĩnh vực khắc phục hậu quả chiến tranh; tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; qn y;
phịng, chống dịch bệnh; đào tạo; nghiên cứu khoa học; công nghiệp quốc phòng, an ninh;
an ninh biển; hợp tác huấn luyện, diễn tập, tuần tra chung trên biển. Đấu tranh phòng,
chống các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống. Tăng cường hợp tác với
các đối tác có thế mạnh, giàu tiềm năng về phát triển kinh tế biển. Đối ngoại quốc phòng

và phối hợp chặt chẽ với lực lượng bảo vệ biên giới nước bạn xây dựng đường biên giới
hịa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển. Tham gia lực lượng gìn giữ hịa bình của Liên
hợp quốc trên một số lĩnh vực: công binh, quân y, thơng tin…, góp phần bảo vệ Tổ quốc
“từ sớm”, “từ xa”, nâng cao vị thế của Quân đội, đất nước. Tăng cường hợp tác với đấu
tranh kinh tế nhằm bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và tiêu dùng trong nước, cũng
như hàng hóa của nước ta trên trường quốc tế; đảm bảo cho các nhà đầu tư nước ngoài
thực hiện đúng cam kết phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam; bảo hộ
công dân Việt Nam ở nước ngoài và tranh thủ tối đa nguồn lực người Việt Nam ở nước
ngoài để phát triển đất nước; bảo vệ tài nguyên, môi trường phát triển kinh tế biển bền

21


vững; an ninh nguồn nước, nhất là sông Mê Công. Tăng cường quốc phịng, kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để
phát triển đất nước.
5.4. Đối ngoại
Củng cố tin cậy chính trị, nâng tầm đưa vào chiều sâu quan hệ của ta với các đối
tác, nhất là với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các nước bạn bè truyền
thống, trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi, tơn trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp
quốc tế. Cần đặt phát triển ở vị trí trung tâm của các mối quan hệ, theo đó tích cực thúc
đẩy các cơ hội về kinh tế - thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ
số, các xu hướng phát triển nhanh, bền vững.
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, với trọng tâm là hội nhập quốc
tế. Đồng thời thúc đẩy và nâng cao chất lượng hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực xã hội,
môi trường, khoa học và cơng nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch…qua đó thu hút
thêm nguồn nhân lực, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững hơn. Bối cảnh mới đặt ra
những yêu cầu cao hơn cho công tác hội nhập quốc tế, đó là: cần phát huy tốt hơn thế và
lực, tầm quan trọng về địa chiến lược của đất nước để chủ động vươn lên, đóng góp vai
trị xứng đáng ở những lĩnh vực ta có lợi ích và thế mạnh; chú trọng hỗ trợ các ngành, địa

phương, doanh nghiệp mở rộng hợp tác với bên ngoài, tranh thủ vốn, công nghệ và kỹ
năng quản lý.
Tiếp tục đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương trên tinh thần của Chỉ thị 25
của Ban Bí thư, từ chủ động, tích cực tham gia sang từng bước đóng góp xây dựng, định
hình các thể chế đa phương và trật tự kinh tế - chính trị, quốc tế minh bạch, công bằng,
dân chủ, bền vững. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc
biệt là ASEAN, Liên Hợp Quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Cơng, từng bước đóng vai
trị lịng cốt, dẫn đắt và hòa giải ở những lĩnh vực, diễn đàn mà ta có khả năng và lợi ích;
chủ động tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới
về bảo vệ Tổ quốc.
Đối ngoại tiếp tục kết hợp chặt chẽ với quốc phòng và an ninh để tạo thế chân
kiềng vững chắc, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên mà đối ngoại cần phải tiếp tục làm tốt để góp phần giữ vững mơi
trường hịa bình cho phát triển đất nước. Muốn làm được như vậy, đối ngoại phải phát huy
được thế mạnh để hóa giải, xử lý sớm, từ xa các nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, nhất là

22


thơng qua thúc đẩy đối thoại, xây dựng lịng tin, ngoại giao phòng ngừa, tận dụng hiệu
quả các biện pháp hịa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Nâng cao hiệu quả, đổi mới nội dung phương pháp của công tác ngoại giao văn
hóa, tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ cơng dân, triển khai tồn diện và mạnh mẽ hơn cơng
tác người Việt Nam ở nước ngồi để tạo sự gắn kết chặt chẽ, phát huy tối đa sức mạnh
tổng hợp cho phát triển đất nước. Trong thời đại công nghệ số phát triển mạnh mẽ, ngoại
giao văn hóa với tuyên truyền đối ngoại cần không ngừng đổi mới, sáng tạo để quảng bá
hình ảnh một đất nước Việt Nam năng động, cởi mở thân thiện, với ý chí khát vọng vươn
lên mạnh mẽ.
Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại. Tính tồn diện của nền ngoại giao
Việt Nam dựa trên cả ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân

dân. Về lĩnh vực, đó là ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa,
cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi và bảo hộ cơng dân. Triển khai đối ngoại
không chỉ là giữa nhà nước - nhà nước, mà còn là địa phương, doanh nghiệp và người
dân.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, an
ninh và phát triển, không để bị động, bất ngờ, chủ động đề xuất các chiến lược và giải
pháp. Đặc biệt với việc phát triển các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cần phát
huy tốt hơn khả năng tiếp cận các nguồn thơng tin về chính trị, kinh tế thế giới, khoa học
cơng nghệ, thị trường, qua đó hỗ trợ hiệu quả hơn cho điều hành kinh tế trong nước và
tham mưu về các mơ hình phát triển.

23


KẾT LUẬN
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tiến
hóa của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế
giới. Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử, thời kỳ chuyển biến cách mạng mà bất cứ
quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Bởi vì, thời đại chúng ta
đang sống là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới.
Thực tiễn lịch sử đã khẳng định, chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi thời về
mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng hình thái kinh tế-xã hội cộng
sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Đảng ta ngay từ khi mới ra
đời, trong cương lĩnh (năm 1930) đã khẳng định mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của nước ta
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc, lại
phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội

bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu lịch sử.
Tuy nhiên, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sẽ lâu dài và gian khổ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một
cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới,
giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái
mới, cái tiến bộ nhất định thắng". Nước ta là một nước nông nghiệp, công cuộc thay đổi
xã hội cũ thành xã hội mới sẽ gian nan và phức tạp hơn đánh giặc, vì phải đấu tranh với
kẻ địch nguy hiểm khác đó là nghèo nàn, đói khổ và lạc hậu.
Chủ nghĩa tư bản có vai trị lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xã
hội hóa lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Quá trình này diễn ra
một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ. Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử
mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Sự rút ngắn này chỉ có thể thực hiện thành cơng với điều kiện chính quyền
thuộc về Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức đầy đủ sự rút ngắn ở đây không phải là công
việc có thể làm nhanh chóng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Tiến lên chủ nghĩa xã hội,
không thể một sớm một chiều. Đó là cả một cơng tác tổ chức và giáo dục; chủ nghĩa xã
24


hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần". Do đó, chúng ta khơng thể nóng vội
tiến ngay lên chủ nghĩa xã hội mà cịn phải duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần trong một thời gian tương đối dài.
Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, giúp chúng ta khắc phục được những quan
niệm đơn giản, duy ý chí về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước đang phát
triển. Đồng thời, chúng ta không ngừng tiếp thu có chọn lọc, tận dụng phù hợp với giá trị
của nền văn minh nhân loại để hiện thực hóa con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn.


25


×