Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.38 KB, 33 trang )

Giảng viên: Phạm Văn Sinh

Trườ ng Đại học Kinh tế Quốc Dân
…….0O0……

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số : 03 - Phân tích quan niệ m duy vậ t biệ n chứng về mối
quan hệ giữa vậ t chấ t và ý thứ c, từ đó xây dựng ý nghĩa
phương pháp luận chung và liên hệ với thực tễn.
Họ tên
Mã sv
Lớp


SV: Nguyễ n Thị Giang
: 11211791
: Quan hệ cơng chúng Khóa: 63
: D302

Hà Nội

TIEU LUAN MOI download :


Giảng viên: Phạm Văn Sinh

LỜI NÓI ĐẦU
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và
đang tạo ra một thế lực mới để nước ta bước vào một thời kì phát triển


mới. Nhiều tiền để cần thiết về cuộc cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đã
được tạo ra, quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng
được mở rộng. Khả năng giữ vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng
thế giới được tăng thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục
được phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển
dịch kinh tế và đời sống xã hội
Các nước đều có những cơ hội phát triển. Tuy nhiên, do ưu thế công
nghệ và thị trường thuộc về các nước phát triển khiến cho các nước
chậm phát triển đứng trước một thách thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu ngày
càng cao, mà điểm xuất phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ môi
trường cạnh tranh quyết liệt
Làm đề tài tiểu luận này, với tư cách là một sinh viên, một công dân
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, một mặt em muốn cùng
mọi người tìm hiểu sâu và kĩ hơn về Triết học Mác – Lênin phần chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Cụ thể hơn, đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất với ý thức.
Với những ý nghĩa và tác dụng của vấn đề này, em đã chọn đề tài tiểu
luận triết học số 3:” Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và
liên hệ với thực tễn. Trong quá trình thực hiện đề tài này, em đã sử dụng
nền tảng lý thuyết từ Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Triết học Mác
– Lênin của Khoa Triết học thuộc Trường Đại học Kinh Tế Quốc dân.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai
sót, em rất mong nhận được sự góp ý quý báu của thầy để bài tiểu
luận của em được hoàn thiện hơn

Hà Nội


TIEU LUAN MOI download :



Giảng viên: Phạm Văn Sinh

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................................................ 2
NỘI DUNG................................................................................................................................................. 4
1. Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.................4
1.1. Vật chất.......................................................................................................................................... .
4

1.1.1 Vật chất là gì?................................................................................................................................. 4
1.1.2: Các đặc tính của vật chất............................................................................................................. 5

1.2. Nguồn gốc của ý thức.......................................................................................................... 6
1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên....................................................................................................................... 6
1.2.2 Nguồn gốc xã hội............................................................................................................................ 7
1.2.3. Bản chất ý thức............................................................................................................................. 8

1.3. Vật chất quyết định ý thức................................................................................................ 9
1.4. Tính động lập tương đối của ý thức.............................................................................10

2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức............................................................... 12
3. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn.......................................... 13
3.1 Ý nghĩa phương pháp luận
........................................................................................................................................................................
13

3.2 Liên hệ thực tiễn
........................................................................................................................................................................

13

LỜI KẾT.................................................................................................................................................... 17
NGUỒN THAM KHẢO................................................................................................................... 18

Hà Nội


TIEU LUAN MOI download :


Giảng viên: Phạm Văn Sinh

NỘI DUNG
1. Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức
Đây là vấn đề cơ bản, cốt lõi để phân biệt các trường phái triết học.
Trong mối quan hệ ấy triết học Mác – Lênin khẳng định: Ý thức do vật
chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập
tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.

1.1 Vật chất
1.1.1 Vật chất là gì?
VL.Lênin đã định nghĩa :” Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác”.
Theo định nghĩa này thì vật chất:
Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “ Vật chất” với tư cách là phạm trù tiết

học (tức
phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại
vật chất và
được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học) với khái
niệm “vật
chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (tức khái niệm
dùng để chỉ
những dạng vật chất cụ thể, cảm tính; những biểu hiện cụ thể của thế
giới vật chất tự
nhiên hay xã hội).

Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi sự tồn tại vật
chất được khái quát trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật
biện chứng là thuộc tính tồn tại khách quan (thực tại khách quan, tức
là thuộc tính tồn tại ngồi ý thức, độc lập khơng phụ thuộc vào ý thức
của con người cho dù con người nhận thức được hay khơng nhận thức
được nó).
Thức ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể
gây nên cảm giác của con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác
động đến giác quan của con người, ý thức của con người là sự phản
ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái ý thức được phản ánh.


Hà Nội

TIEU LUAN MOI download :


Giảng viên: Phạm Văn Sinh


1.1.2: Các đặc tính của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của
vật chất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là sự biến đổi nói
chung
chứ khơng phải theo sự chuyển dịch trong không gian. Agghen cho
rằng vận động là
một phương thức tồn tại vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, gồm
tất cả mọi
sự thay đổi tỏng mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ. Vận động có 5 hình thức
vận động
chính là: Cơ- Hóa-Lý-Sinh-Xã hội. Các hình thức vận động này có mối quan
hệ chặt chẽ
với nhau một hình thức vận động này thực hiện là tác động qua lại với
những hình
thức vận động khác, trong đó vận động cao bao gồm vận động thấp nhưng
khơng thể
coi hình thức vận động cao là tổng số đơn giản các hình thức vận động
thấp.

Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại khơng ngừng thể có vật
chất khơng vận động, tức vật chất tồn tại. Vật chất thông qua vận
động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Agghen nhận định rằng các
hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức
được thơng qua vận động mới có thể thấy được thuộc tính của nó.
Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản, trong vi mô, trong hệ thống
hành tinh khổng lồ. Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể
thống nhất và kết cấu xác định gồm những bộ phận nhân tố khác
nhau, cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động đến nhau gây ra nhiều biến
đổi. Nguồn gốc vận động là do những nguyên nhân bên trong, vận

động vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, khơng thể có vận động
bên ngồi vật chất. Nó khơng do ai sáng tạo ra và khơng thể tiêu diệt
được do đó nó được bảo tồn cả số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã
chứng minh rằng nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật mất đi
thì tất yếu nó sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế. Các
hình thức vận động chuyển hóa lẫn nhau cịn vận động của vật chất thì
vĩnh viễn tồn tại.
Mặc dù vận động ln ở trong q trình khơng ngừng, nhưng điều đó khơng
loại trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối, khơng có nó thì
khơng có sự phân hóa thế giới vật chất thành các hiện tượng đứng im tương
đối, khơng có nó thì khơng có sự phân hóa thế giới thành các sự vật, hiện
tượng phong phú và đa dạng. Agghen khẳng định rằng khả năng đứng im tương
đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu
của sự phân hóa vật chất. Nếu vận động là biến đổi của các sự vật hiện
tượng thì đứng im chỉ là sự ổn định, là sự bảo tồn tính quy định sự vật hiện
tượng. Đứng im chỉ là một trạng thái vật động, vận động trong thăng bằng,
trong sự ổn định tương đối. Trạng thái đứng im còn được biểu hiện như là một


quá trình vận động trong phạm vi sự vật ổn định, chưa biến đổi, chỉ là tạm
thười
Hà Nội

TIEU LUAN MOI download :


Giảng viên: Phạm Văn Sinh

vì nó chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định. Vận động riêng biệt

có xu hướng phá hoại sự cân bằng cịn vận động tồn thể lại phá
hoại sự cân bằng riêng biệt làm cho các sự vật ln biến đổi
chuyển hóa nhau.
Khơng gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Khơng gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có
hình thức kết cấu, có độ dài
ngắn cao thấp. Không gian biểu hiện sự tồn tại và tách biệt của sự vật
với nhau, biểu hiện qua tính chất cà trật tự của chúng. Cịn thời gian
phản ánh thuộc tính của các q trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm,
kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định. Thời gian biểu hiện trình độ tốc
độ của q trình vật chất, tính cách biệt giữa các giai đoạn khác nhau
của q trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiện tượng.

Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất
đang vận động.
Lênin đã chỉ ra trong thế giới khơng có gì ngồi vật chất đang vận động.
Khơng gian và
thời gian chỉ tồn tại khách quan, nó khơng phải bất biến, khơng thể
đứng ngồi vật
chất, khơng có khơng gian trống rỗng, mà nó có sự biến đổi phụ thuộc
vào vật chất
vận động.

1.2. Nguồn gốc của ý thức
1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên
Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự
nhiên của ý
thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn
gốc


và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu khoa học tự nhiên
nhất là sinh lý
học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là
một thuộc tính
của vật chất nhưng khơng phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc
tính của một
dạng vật chất sóng có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật
chất của
ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người
diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Ý thức phụ
thuộc vào hoạt
động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ
khơng bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy, khơng thể tách rời ý thức ra
khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức khơng thể diễn ra, tách rời hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc người.

Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc khơng thơi mà khơng có sự tác động
của thế giới bên ngồi để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng
khơng thể có ý thức.


Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất,
thuộc tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa
các đối tượng vật chất với nhau, phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm
của một hệ thống vật chất này ở hệ

Hà Nội

TIEU LUAN MOI download :



Giảng viên: Phạm Văn Sinh

thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của
sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật – vật tác động và vật nhận tác động.
Đồng thời quá trình phản ánh bao hàm q trình thơng tin. Nói cách khác,
vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều
hết sức quan trọng để sáng tạo nguồn

gốc tự nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy
sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện
của con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không
thể tách rời con người. ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất –
thuộc tính phản ánh – phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển
lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nội dung của nó là thơng tin
về thế giới bên ngồi, về vật được phản ánh. Ý thức là sự phản ánh thế
giới bên ngồi vào trong bộ óc người, bộ óc người là cơ quan phản ánh xong
chỉ có riêng bộ óc thơi thì chưa có thể có ý thức. Khơng có sự tác động của
thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức
khơng thể xảy ra. Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngồi tác động
lên bộ óc, đó là

nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

1.2.2 Nguồn gốc xã hội
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên rất quan
trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ điều kiện quyết định cho sự
ra đời cùng với q trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn
ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển

xã hội, nó phụ thuộc và xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính chất xã
hội.
Q trình hình thành ý thức khơng phải là quá trình hình thành con người
thụ động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt
chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu những quy luận vật
động của mình thành những hiện tượng nhất định và hiện tượng này tác động
vào bộ óc người, ý thức được hình thành khơng phải chủ yếu là do tác động
thuần túy, tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người mà chủ yếu là
do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới
đó. Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động, chủ động của con người,
như vậy, không phải bỗng nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc
người để con người có ý thức mà trái lại, con người có ý thức chính vì con
người chủ động tác động vào thế giới đó. Q trình hình thành ý thức là kết
quả hoạt động, chủ động của con người, như vậy, không phải bỗng nhiên thế
giới khách quan tác động vào bộ óc của con người để con người có ý thức mà
trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới
thơng qua hoạt động thực tiễn
Hà Nội


TIEU LUAN MOI download :


Giảng viên: Phạm Văn Sinh

để cải tạo thế giới, con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới. Nói
cách khác,
ý thức chỉ được hình thành thơng qua hoạt động thực tiễn của con

người. Nhờ cách khác, ý thức chỉ được hình thành thơng qua hoạt

động thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người
khám phá ra những bị mật của thế giới, ngày càng làm phong phú
và sâu sắc ý thức của mình về thế giới
Ngơn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà ý
thức. Không có hệ thống tín hiệu này – tức ngơn ngữ, ý thức không
thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C.Mác là cái vỏ vật
chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng khơng có ngơn
ngữ, con người khơng thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp là quan trọng nhất quyết sự ra đời và
phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thơng qua lao động,
ngôn ngữ và quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là hiện tượng
xã hội.

1.2.3. Bản chất ý thức
Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi

chủ quan, là thực tại chủ quan, khơng có tính chất. ý thức là hình ảnh phi
cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Nếu coi ý thức cũng
là một hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức, làm mất ý
nghĩa của sự đối lập giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất đi đối lập
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Tuy nhiên, ý nghĩa không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc
của sự vật. Ý
thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng
tạo. Ý
thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo
thế giới.
Do đó, ý thức của con người là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo. Ý thức

là sự
phản ánh sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiễn xã hội, vì vậy ý
thức “ Chẳng
qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người, và được cải
biến đi
ở trong đó” (C.Mác và Ph.Agghen: Tồn tập, NXB, CTQG, HN, 1993,
Trang 35). Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người,

song đây là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con
người, cải tạo thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của
3 mặt sau đây:


- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự
trao đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các
thơng tin cần thiết.

Hà Nội

TIEU LUAN MOI download :


Giảng viên: Phạm Văn Sinh

- Hai là, mơ hình hóa đối tượng trong rư duy dưới dạng hình ảnh tinh
thần. Thực chất đây là quá trình “Sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo
nghĩa mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật
chất.

- Ba là, chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức
q trình hiện
thực hóa tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm
thành cái thực
tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất
ngoài hiện

thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện,
công
cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Điều đó

càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức
Tính sáng tạo của ý thức khơng có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng
tạo của ý
thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ
của sự phản ánh,
mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý
thức không
đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản
ánh, trên cơ
sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý
thức. Ý thức trong
bất cứ trường hợp nào – cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của
con người

tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.

1.3 Vật chất quyết định ý thức
Như chúng ta đã biết, luận chứng khoa học của triết học Mác – Lênin đã

khẳng định
ý thức là sản phẩm của dạng vật chất không phải là sản phẩm của bất kì
dạng vật chất nào mà là sản phẩm của dạng vật chất đặc biệt, có tổ
chức cao là bộ óc người, chỉ có bộ óc người một kết cấu đặc biệt, có tổ
chức tinh vi, hồn thiệt mới sinh ra ý thức.

Cho nên nếu bộ óc người nào bị tổn thương hay rối loạn chức năng
phản ánh thì người đó khơng thể có được ý thức
Với con người có ý thức, ý thức biểu hiện bao gồm:
-

Ý
Ý
Ý
Ý

thức thông thường
thức khoa học
thức kinh nghiệm
thức lý luận

Ý thức thông thường là những tình cảm, thói quan và những ước muốn bình
thường trong cuộc sống bình thường. Mỗi con người đều sống trong những


điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội nhất định và những điều kiện này sẽ chi
phối họ. Mác đã khẳng định: “
Ý thức là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc người và được cải biến ở
trong đó”
Hà Nội


TIEU LUAN MOI download :


Giảng viên: Phạm Văn Sinh

qua khái niệ m trên ta nhận thấy ở đây không chỉ là ý thức thông thường
mà còn là ý
thức lý luận khoa học. Ý thức lý luận khoa học cũng là sự phản ánh
hiện thực khách
quan nhưng dưới hình thức là những cặp phạm trù, nguyên lý, quy
luật, khái niệm,
tiên đề… được trình bày thành những hệ thống, những học thuyết nhất
định. Lý luận
khoa học là sự phản ánh ở trình độ cao của ý thức, nó cũng do vật chất,
hiện thực
khách quan quyết định. Khoa học tự nhiên nói lên những thuộc tính,
những mối quan
hệ bản chất của các hiện thực tự nhiên, do quy luật vận động phát
triển của hiện
tượng ấy quyết định. Khoa học xã hội cũng vậy, quy luận vận động của các
hiện tượng
và quá trình phát triển của xã hội do hiện thực xã hội quyết định. Vật
chất quyết định
ý thức. Ngun lí này có ý nghĩa thực tiễn vơ cùng quan trọng. Vì trong thực
tế ở mỗi con người, mỗi tổ chức xã hội thường có những chương trình, kế
hoạch hoạt động để thực hiện ý chí, ý tưởng của mình, nhưng lại quên rằng
những ý chỉ, ước vọng đó chỉ thực hiện trên cơ sở những điều kiện vật chất
nhất định, thiếu những phương tiện vật chất người ta khơng thể làm được
cái gì hết bởi ý tượng nó khơng thực hiện được cái gì hết muộn hiện thực

hóa ý tưởng phải sử dụng lực lượng vật chất. Ông cha ta thường nói “Có
thực mới vực được đạo”, hay “có bột mới gột nên hồ”.

1.4 Tính động lập tương đối của ý thức
Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, ý thức do vật chất quyết
định. Đây là quan điểm của các nhà duy vật trước Mác đã khẳng định.
Nhưng triết học Mác – Lênin khơng chỉ dừng lại ở đó mà nó lại khẳng
định rằng vật chất quyết định ý thức, song ý thức lại tác động trở lại
vật chất, cái tạo thế giới vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách

năng động sáng tạo. Cho nên nó giúp con người hiểu biết bản chất và quy luật
vận động của sự vật hiện tượng. Trên cơ sở đó con người xác định phương
hướng, mục tiêu hoạt động của mình, xác định phương pháo và biện pháp cụ
thể để thực hiện mục tiêu. Nhờ có ý thức con người phân biệt được đúng, sai,
lợi, hại, cái gì nên làm, cái gì nên tránh, tìm được đường đi đúng hướng tránh
được sai lầm. Trong quá trình hoạt động thực tiễn xuất hiện nhiều khả năng
con người có thể phân tích, phát triển nhiều khả năng tốt, xấu để chỉ đọa hoạt
động của mình tạo điều kiện cho khả năng tốt phát triển, nhăng ngừa hạn chế
khả năng xấu. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con
người một cách năng động, sáng tạo. Cho nên nó giúp con người hiểu biết bản
chất và quy luật vận động của sự vật hiện tượng. Trên cơ sở đó con người xác


Hà Nội

TIEU LUAN MOI download :



Giảng viên: Phạm Văn Sinh

định phương hướng, mục tiêu, hoạt động của mình, xác định phương
pháp và biện pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu.
Trong các loại ý thức thì ý thức lý luận khoa học có vai trị to lớn nhất.
Ý thức lý luận của giai cấp vô sản là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là hệ thống
lý luận khoa học, là kim chỉ nam cho hoạt động của giai cấp công nhân
và quần chúng nhân dân lao động trong việc cải tạo thế giới bằng thực
tiễn, tác động của ý thức rất năng động và to lớn. Và như Mác đã khẳng
định:”… lý luận có thể trở thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào
lực lượng quần chúng”, điều này thể hiện rất rõ ở cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở nước ta, khi nước nhà lâm nguy Bác Hồ đã ra lời kêu gọi
tồn quốc kháng chiến, lời kêu gọi đó đã thấm sau vào khối óc của con
tim của triệu dân Việt nam, đặc biệt là anh bộ đội cụ Hồ, họ khơng ngại
khó khăn, gian khổ dẵn sàng chiến đấu, hi sinh, vì độc lập tự do của tổ quốc,
vì CNXH. Vật chất quyết định ý thức, ý thức tác động trở lại vật chất, mối
quan hệ biện chứng ấy là cơ sở khách quan của phương pháp luận khoa
học: mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ thực tế khách quan,
đồng thời phải biết phát huy tính năng động chủ quan.
Triết học Mác-Lênin đã vạch rõ bản chất phản động của triết học duy tâm.
Họ cho rằng ý thức có trước vật chất và quyết định, nhưng thực chất là ngụy
biện để che đậy cái bản chất của chủ nghĩa tư bản. Họ xem mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức chỉ là mối quan hệ một chiều như chính giai cấp tư sản
trong chủ nghĩa tư bản. Vậy triết học duy vật biện chứng của Mác-Lênin đã
chứng minh rằng đằng sau chủ nghĩa duy tâm là khuynh hướng tư tưởng của
giai cấp tư sản hiện đại đang tìm mọi lý lẽ phản khoa học để trống lại chủ nghĩa
của Mác. Chủ nghĩa duy vật của Mác đã luận chứng một cách khoa học về thế
giới, đó là thế giới vật chất. Thế giới vật chất không ai sinh ra, không ai tiêu
diệt được, tồn tại khách quan ngoài ý thức của con người và quyết định ý
thức của con người. Nhưng không phủ nhận sự tác động trở lại của ý thức mà

còn thừa nhận một cách có căn cứ khoa học về vai trị của ý thức với vật
chất. Chính quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đã giúp con người
không chỉ nhận biết được thế giới mà còn cải tạo được thế giới vật chất để
phục vụ cho lợi ích con người, vai trò của
ý thức biểu hiện tập chung ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người. Tầm quan trọng của thức thức tiến bộ của lý luận cách mạng đã
được Lênin tổng hợp trong câu nói nổi tiếng “khơng có lý luận cách mạng
thì khơng có phong trào cách mạng”.

Thật vậy, khi điều kiện khách quan đã xuất hiện trong những chủ
trương đường lối sáng suốt, biện pháp đúng đắn, quyết tâm cao là điều
kiện có ý nghĩa quyết định đối với sự thành cơng của cách mạng.

Hà Nội


TIEU LUAN MOI download :


Giảng viên: Phạm Văn Sinh

2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt
đối trong
phạm vi hạn chế trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận
thức luận cơ
bản là thừa nhận cái gì là cái có trước, cái gì là cái có sau. Ngồi giới hạn
đó thì khơng
cịn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó chỉ là tương đối. Như vậy để phân
ranh giới

giữa CNDV và CNDT, để xác định được bản tính là sự thống nhất của thế giới
cần có sự
đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả lời cái nào có trước cái
nào quyết
định. Khơng như vật sẽ lẫn lộn 2 đường lối cơ bản trong triết học, lẫn giữa vật
chất và

ý thức và cuối cùng sẽ xa rời quan điểm duy vật. Song sự đối lập giữa
vật chất và ý
thức chỉ là sự tương đối như là những nhân tố, những mặt không thể thiếu
được trong

hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động thực tiễn của con người,
ý thức có
thực có thể cái biến được tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, khơng có khả
năng tự biến
thành hiện thực, nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý
thức có thể
cải tiến được, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hóa những mục đích mà
nó để ra cho
hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản
ánh, sáng tạo và
xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức
mới có khả
năng cải biến và thống trị tự nhiên, bắt nó phục vụ con người. Như vậy tính
tương đối

trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương
đối, tính đối
năng động của ý thức. Mặt khác đời sống con người là sự thống nhất không

thể tách
rời giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần trong đó những nhu cầu
tinh thần
ngày càng phong phú và đa dạng và những nhu cầu vật chất cũng bị tinh
thần hóa.
Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức khơng có
nghĩa là
khẳng định cả hai yếu tố có vai trị như nhau trong đời sống và hoạt động
của con
người. Trái lại, Triết học Mác Lênin khẳng định rằng, trong hoạt động của
con người


những nhân tố vật chất và ý thức có tác động qua lại, song sự tác động đó
diễn ra trên

cơ sở tính thứ nhất của nhân tố và vật chất với tính thứ hai của ý
thức.
Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao
giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động của
con người vì nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể
tham gia vào hoạt động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần
hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy định mục
đích chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng
cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung cụ thể hóa mục đích chủ trương biện pháo
đó. Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu cải
biến tự nhiên thỏa mãn như cầu sống. Hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con
người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thỏa mãn nhu cầu vật

Hà Nội


TIEU LUAN MOI download :


Giảng viên: Phạm Văn Sinh

chất vào những điều kiện vật chất hiện có, khẳng định vai trị cơ sở,
quyết định trực tiếp nhân tố vật chất, triết học mác Lênin đồng thời
cũng khơng coi nhẹ vai trị của nhân tố tinh thần, tính năng động chủ
quan. Nhân tố ý thức có tác động trở lại quan trọng đối với nhân tố vật
chất. Hơn nữa, trong hoạt động của mình, con người không thể tạo ra
các đối tượng vật chất, cũng không thể thay đổi được những quy thể tạo
ra các đối tượng vật chất, cũng không thể thay đổi được những quy luật
vận động của nó. Do đó, trong quá trình hoạt động của mình con người
phải tuân theo quy luận khách quan và chỉ có thể đề ra những mục
đích, chủ trương trong phạm vi vật chất cho phép.

Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn

3.

3.1 Ý nghĩa phương pháp luận
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng
ta phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo
quy luận khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn
chúng ta phải chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người.
Mác nói: “Có nhiều vũ khí phê phán khơng thay thế sự phê phán bằng vũ
khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất,
nhưng lý luận một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành

lực lượng vật chất”

Chống quan điểm duy ý chỉ : V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh khơng
được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, khơng được lấy tình
cảm làn điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát
từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay
cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý
chỉ là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế
trong q trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã
gọi căn bệnh này là “ sự mù quáng chủ quan”. Là sai lầm tự phát dẫn đến
rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ
quan duy ý chỉ có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống
cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn có khả năng ngăn
ngừa và loại bỏ.

3.2 Liên hệ thực tiễn
.

Hà Nội


TIEU LUAN MOI download :


×