Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.15 KB, 14 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
…...0O0…..

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số 3
Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận
chung và liên hệ với thực tiễn

Họ, tên SV: Đào Thị Nhàn MSV: 11216953
Lớp: Triết học Mác - Lênin(221)_24 Khóa: 63 GĐ: D_304

Hà Nội – 4/2022

TIEU LUAN MOI download :


MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
từ đó xây dựng phương pháp luận chung
a) Phạm trù vật chất trong Triết học Mác-Lênin
b) Phạm trù ý thức trong Triết học Mác-Lênin
c) Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm chủ nghĩa duy vật
biện chứng
d) Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
2. Liên hệ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức với thực tiễn
a)


Đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta
b)
Đối với bản thân em là một sinh viên
KẾT LUẬN
TƯ LIỆU THAM KHẢO

1

TIEU LUAN MOI download :


MỞ ĐẦU
Triết học Mác – Lênin ra đời và đã khẳng định: “Triết học là hệ thống quan
điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa
học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy”[Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia sự
thật, tr.22]. Mà ta đã biết tất cả các hiện tượng trong thế giới này chỉ có thể là
hiện tượng vật chất hoặc là hiện tượng thuộc ý thức trong con người. Vấn đề cơ
bản của Triết học có hai mặt thì mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi:
Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào?
Bản thân em nhận thấy việc trả lời chính xác câu hỏi này có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc hiểu triết học và vận dụng nó vào thực tiễn cuộc sống nên em đã
chọn cho bài tập lớn của mình đề tài là: “Phân tích quan niệm duy vật biện
chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa
phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn”. Do đây là lần đầu tiên em
làm tiểu luận và kiến thức của bản thân em có hạn, nên bài viết của em chắc chắn
cịn thiếu sót. Em rất mong nhận được lời bổ sung, góp ý từ các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!


NỘI DUNG
1. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, từ đó xây dựng phương pháp luận chung
a) Phạm trù vật chất trong Triết học Mác-Lênin
Vật chất là một phạm trù cơ bản và nền tảng của chủ nghĩa duy vật nói
chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng, vật chất đã được Lênin định
nghĩa như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” [C.Mác và Ph.Ăng
ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, t.18, tr.171].Như vậy, định
nghĩa vật chất của Lênin thể hiện một số nội dung cơ bản sau: vật chất tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức; vật chất là cái gây
lên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó (trực tiếp hay gián tiếp) tác
2

TIEU LUAN MOI download :


động lên các giác quan của con người; vật chất là cái mà cảm giác, tư duy, ý thức
chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Phương thức tồn tại của vật chất bao gồm vận động cùng không gian và
thời gian.
Trong đó, Ph.Ăngghen viết: “Vận động … bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư
duy” [C.Mác và Ph.Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, t.20,
tr.519]. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất: Thế giới vật chất, từ những
thiên thể khổng lồ đến những hạt cơ bản cực nhỏ, từ vô cơ đến hữu cơ, từ hiện
tượng tự nhiên đến hiện tượng xã hội, tất cả đều ở trạng thái vận động và biến đổi
không ngừng. Ph.Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ
bản: cơ học, vật lý, hoá học, sinh học và xã hội. Tuy vậy, Sự vận động khơng

ngừng của vật chất cịn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối. “Theo quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái ổn định về chất của
sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu
hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động
chuyển hoá của vật chất.” [Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb.
Chính trị Quốc gia sự thật, tr.139].
“Khơng gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng
tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn tại của
vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.” [Bộ
Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật,
tr.142]. Khơng gian và thời gian là hai hình thức tồn tại khác nhau của vật chất
vận động nhưng chúng không tách rời nhau. Những hệ quả rút ra từ thuyết tương
đối của Albert Einstein đã chứng minh thời gian và không gian có tính khả biến,
vận chất vận động quy định khơng gian, thời gian. Với vật chất nói chung, khơng
gian và thời gian là vô tận nhưng đối với một sự vật, hiện tượng cụ thể, không
gian và thời gian là có tận cùng và hữu hạn.
Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó. Triết học Mác-Lênin
khẳng định chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất, mọi bộ
phận của thế giới là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật chất thống nhất
với nhau. Thế giới vật chất không do ai sinh ra và không tự mất đi, tồn tại vĩnh
viễn, trong đó, các sự vật, hiện tượng vận động Không ngừng, là nguồn gốc,
nguyên nhân và kết quả của nhau.
3

TIEU LUAN MOI download :


b) Phạm trù ý thức trong Triết học Mác-Lênin
“Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là q trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.” [C.Mác và

Ph.Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, t.18, tr.138]. Đối với
con người, cả ý thức và vật chất đều tồn tại thực nhưng giữa chúng có sự đối lập
về bản chất: vật chất là hiện thực khách quan, còn ý thức là hiện thực chủ quan.
Cùng một đối tượng phản ánh nhưng với các chủ thể phản ánh khác nhau, có đặc
điểm tâm lý, tri thức, kinh nghiệm, thể chất khác nhau, trong những hoàn cảnh
lịch sử khác nhau... thì kết quả phản ánh đối tượng trong ý thức cũng rất khác
nhau. Đặc biệt, ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo, gắn liền với thực tiễn xã hội;
trong đó, sáng tạo là thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Sự phản ánh ý
thức là quá trình thống nhất của ba mặt: Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và
đối tượng phản ánh; hai là, mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình
ảnh tinh thần; Ba là, hiện thực hố tư tưởng (thơng qua hoạt động thực tiễn biến
cái quan niệm thành cái thực tại).
Sự ra đời của ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng vừa
có nguồn gốc tự nhiên vừa có nguồn gốc xã hội. Trong đó, sự xuất hiện con
người và hình thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách
quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Ý thức chỉ là thuộc tính của một dạng vật
chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người vì ý thức là chức năng của nó. Xét
về nguồn gốc xã hội của ý thức, Ph.Ăng ghen viết: “Trước hết là lao động; sau
lao động và đồng thời với lao động là ngơn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu
đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển
thành bộ óc con người.”[C.Mác và Ph.Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc
gia Hà Nội, t.20, tr.646]. Ý thức là một hiện tượng mang bản chất xã hội. Sự phát
triển của giới tự nhiên rồi tạo ra tiền đề vật chất có năng lực phản ánh, chỉ là
nguồn gốc sâu xa của ý thức. Hoạt động thực tiễn của loài người mới là nguồn
gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức.
Khi xem xét về kết cấu của ý thức, ta có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Về
các lớp cấu trúc (hay cấu trúc theo chiều ngang) của ý thức, ý thức bao gồm ba
yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, ngồi ra cịn có thể bao gồm các
yếu tố khác. Nhưng trong đó nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức
phải là tri thức. Về các cấp độ (hay cấu trúc theo chiều dọc) của ý thức, ý thức

gồm các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức,…Nhiều yếu tố hợp thành ý

4

TIEU LUAN MOI download :


thức đã quy định tính phong phú, nhiều vẻ trong đời sống tinh thần của con
người.
c) Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm chủ nghĩa duy vật
biện chứng
“Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, cịn ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất.” [Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị
Quốc gia sự thật, tr.174].
*Vai trò của vật chất đối với ý thức- vật chất quyết định ý thức:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Ý
thức nằm trong con người, xuất hiện gắn liền với con người nhưng con
người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới
tự nhiên, của thế giới vật chất. Thế giới vật chất phải có trước con người tức là
vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau.
Nguồn gốc của ý thức gồm nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Nguồn
gốc tự nhiên gồm bộ não người và quá trình phản ánh thế giới khách quan. Bộ
não người là một dạng vật chất và thế giới khách quan cũng là thế giới vật chất.
Nguồn gốc xã hội của ý thức gồm lao động và ngơn ngữ. Lao động chính là hoạt
động vật chất, mang tính tất yếu đảm bảo sự tồn tại và phát triển của con người.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Từ đó ta có thể
khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.

C.Mác từng nói: “Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào
trong bộ óc của con người và được cải biến đi trong đó” [C.Mác và Ph.Ăng ghen:
Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, t.23, tr.35]. Bản thân ý thức là sự phản
ánh mà vật nhận tác động bao giờ cũng chứa đựng thơng tin về vật tác động. Ví
dụ khi chúng ta quan sát một bơng hoa hồng thì bộ não chúng ta ngay lập tức
chép lại, chụp lại hình ảnh bơng hoa hồng và tất nhiên, hình ảnh đó lưu lại trong
bộ óc của chúng ta là thơng tin về hoa hồng chứ không phải hoa khác. Dù lần sau
khơng cịn ngắm hoa hồng nhưng nhắc tới hoa hồng, hình ảnh nó vẫn hiện diện
trong não của chúng ta. Đó chính là q trình phản ánh thơng tin.Vì phản ánh thế
giới khách quan, thế giới vật chất nên ý thức mang hình ảnh
5

TIEU LUAN MOI download :


thế giới vật chất, chứa đựng những đặc điểm, quy luật của thế giới vật chất. Ý
thức không thuần túy do con người tưởng tượng ra, dù con người có giàu trí
tưởng tượng thì ý thức khơng thể thốt ly khỏi thế giới vật chất. Chẳng hạn, câu
ca dao sau: “Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh/ Nước Tháp Mười lấp lánh cá
tôm”. Dù miêu tả vẻ đẹp của đất nước nhưng các câu ca dao vẫn khơng thốt ly
cảnh quan hiện thực ở miền Tây sông nước. Do vậy, nội dung của ý thức đều do
điều kiện vật chất quyết định.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý
thức. Ý thức không chỉ chụp lại, chép lại thế giới khách quan mà là phản ánh tích
cực, tự giác, sáng tạo thơng qua thực tiễn. “…chủ nghĩa duy vật biện chứng xem
xét thế giới vật chất. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế
giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của
con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong
phản ánh.” [Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị Quốc

gia sự thật, tr.176].
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Ý
thức là sự phản ánh điều kiện vật chất, chịu sự quy định của vật chất về
nội dung nên mỗi sự thay đổi của vật chất dù sớm hay muộn cũng dẫn đến sự
thay đổi của ý thức. Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người ngày càng
phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức – một hình thức phản
ánh của bộ óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Tục ngữ có câu “Có thực mới vực được đạo” nghĩa là được ăn uống đầy đủ,
con người mới có sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời
sống vật chất được đáp ứng thì chúng ta mới hướng đến đời sống tinh thần. Điều
này chứng minh quan niệm vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý
thức.
*Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của vật chất thể hiện ở chỗ, ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi ra đời, “ý thức
có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, khơng lệ thuộc một
cách máy móc vào vật chất” [Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin,
Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.178]. Thế giới vật chất vận động và biến đổi,
6

TIEU LUAN MOI download :


ý thức cũng vậy nhưng ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm hoặc song hành với
hiện thực. Điều này làm rõ thêm tính độc lập tương đối của vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Bản thân ý thức không thể thay đổi bất cứ điều gì trong hiện
thực. Tuy vậy, “…lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật
chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập

vào quần chúng” [C.Mác và Ph.Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà
Nội, t.1, tr.580]. Con người dựa trên tri thức về thế giới khách quan, quy luật
trong nó mà đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp, ý chí quyết tâm để thực
hiện mục tiêu, phục vụ đời sống con người.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở việc chỉ đạo hoạt động của con người.
Con người có tri thức đúng đắn, có ý chí, tình cảm tích cực thì có khả năng hành
động hợp quy luật khách quan, thúc đẩy điều kiện vật chất phát triển. Ví dụ trong
thế kỉ XX, đất nước Việt Nam là một nước nhỏ, ít dân, kém phát triển nhưng đã
giành lại hịa bình độc lập từ các cường quốc lớn như Pháp, Mỹ. Nguyên nhân là
do tinh thần hay chính là ý thức, chúng ta có tri thức sáng tạo, tình cảm tích cực
và ý chí bất khuất. Vận dụng khéo léo, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin , nước ta
đề ra đường lối, chính sách,… phù hợp với điều kiện vật chất vốn có: lực lượng
cách mạng là tồn dân hay trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta phải đánh
chắc thắng chắc, trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta hiểu khó khăn
của kẻ thù mà “thăng tốc, thăng tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa”… Kết
hợp với “tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, hai cuộc kháng chiến chống
đế quốc của nước ta đã thành cơng rực rỡ. Ví dụ này đã khẳng định khi phản ánh
đúng đắn hiện thực, ý thức thúc đẩy điều kiện vật chất phát triển. Ngược lại, nếu
phản ánh sai lệch hiện thực, ý thức kìm hãm sự phát triển của vật chất. Ý thức có
thể quyết định hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại.

Thứ tư, “xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tri thức ngày càng to lớn,
nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp” [Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học MácLênin, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.180]. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tri
thức khoa học, tư tưởng chính trị, nhân văn có vai trị hết sức quan trọng.

7

TIEU LUAN MOI download :



d) Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Từ mối quan hệ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong Triết học MácLênin, ta rút ra nguyên tắc phương pháp luận là tơn trọng tính khách quan kết
hợp phát huy tính năng động chủ quan.
Con người phải tơn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự
nhiên và xã hội tức là mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải
xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, cần phải tránh chủ nghĩa
chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí.
Con người phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức: phát huy vai
trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, bảo thủ, trì trệ, thiếu
sáng tạo; phải coi trọng vai trị của ý thức, tích cực nâng cao tri thức đồng thời tu
dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
Ngoài ra, chúng ta phải biết kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân và tập thể; phải
có thái độ khoa học, khách quan, khơng vụ lợi trong nhận thức và hành động của
mình.
2. Liên hệ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức với thực tiễn
a) Đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta
Ta đã biết giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau.
Nhân tố vật chất giữ vai trò là cơ sở, quyết định, cịn nhân tố ý thức lại có tác
dụng trở lại đối với nhân tố vật chất. Trong nhiều trường hợp, nhân tố ý thức có
tác dụng quyết định đến sự thành bại của hoạt động con người. Điều này thể hiện
rõ trong tác động của đường lối, các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế của
Đảng đối với quá trình đổi mới ở đất nước ta.
Bước qua chiến tranh, nền kinh tế của Việt Nam bị tàn phá nặng nề. Ở miền
Bắc, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng
suất lao động thấp, sản xuất chưa bảo đảm nhu cầu đời sống, sản xuất nông
nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho cơng nghiệp,

hàng hố cho xuất khẩu. Ở miền Nam, sau 20 năm chiến tranh, nền kinh tế bị đảo
lộn và suy sụp, nơng nghiệp nhiều vùng hoang hố, lạm phát trầm trọng…Trước
tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV(12-1976) lại đề ra những
8

TIEU LUAN MOI download :


chỉ tiêu kế hoạch năm 1976-1980 quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản
xuất, vượt quá khả năng của nền kinh tế nước ta trong năm 1975, phấn đấu đạt 20
triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu ha khai hoang, 1 triệu 200 ha rừng
mới trồng, 10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng… Đặc biệt là đề ra việc xây
dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí và đặt nhiệm
vụ hồn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Nhưng đây là
những chủ trương sai lầm đó kết hợp với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp đã tác động xấu tới nền kinh tế cùng đời sống nhân dân. Đến hết năm 1980,
nhiều chỉ tiêu kinh tế đề ra chỉ đạt khoảng 50%-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng
trưởng rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội tăng bình qn 1,5%, cơng nghiệp
tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%.
Qua đến đại hội V(03-1982), nhà nước ta tiếp tục chủ quan, nóng vội đề ra
một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát
triển sản xuất; tiếp tục duy trì cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, chậm
đổi mới các chính sách chế độ kìm hãm sản xuất; quan liêu và xa rời thực tế,
không nhạy bén với những thay đổi của vận động xã hội, bảo thủ, trì trệ, lạc quan
thiếu cơ sở. Như vậy, chúng ta cũng không thực hiện được mục tiêu tổng quát do
Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế- xã hội, ổn định đời
sống nhân dân.
Có những nguyên nhân khách quan như hậu quả chiến tranh, bối cảnh quốc
tế… nhưng nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta phạm sai lầm chủ quan như
trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã

nhận định: “… Đảng đã sai phạm sai lầm chủ quan duy ý trí, vi phạm qui luật
khách quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xố bỏ ngay nền kinh tế
nhiều thành phần; đẩy mạnh quá mức việc xây dựng cơng nghiệp nặng; duy trì cơ
chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải
cách giá cả, tiền tệ, tiền lương”. Nhờ đó ta thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức (Ở
đây là các chủ trương chính sách về quản lí) đối với vật chất (là nền kinh tế)
trước khi có cơng cuộc đổi mới. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng nếu ý
thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải. Mọi đường lối, kế hoạch đều phải
dựa vào tình hình thực tế, những điều kiện và khả năng thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan.
Sau đó Đảng và nhà nước ta đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình lấy ý
kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân, và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế.
Tại Đại hội VI(12-1986) Đảng ta đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, rút ra
9

TIEU LUAN MOI download :


bốn kinh nghiệm lớn, trong đó có kinh nghiệm: phải luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra các định hướng
mới đặc biệt là đổi mới kinh tế, thực hiện mục tiêu của ba chương trình kinh tế:
lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, hình thành nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu tư sản, sản xuất
hàng hoá và kinh tế tư bản tư nhân, đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, sử dụng đúng
đắn quan hệ hàng hoá-tiền tệ. Tất cả nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, đi
vào thế ổn định và phát triển. Trong quá trình thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ VI, có những nguyên nhân phức tạp đã ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh
tế và xã hội của nước ta, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc
phục khó khăn, tìm tịi, khai phá ra con đường đổi mới.
Đại hội Đại Biểu tồn Quốc lần thứ VII (6-1991) đã đánh giá tình hình kinh

tế chính trị xã hội Việt Nam sau bốn năm thực hiện đường lối đổi mới. Công
cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: Tình hình
chính trị của đất nước ổn định, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hố nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, tốc độ
lạm phát được kiềm chế, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân
được cải thiện…Nhờ đó, ta càng thấy rõ tác động qua lại giữa ý thức và vật chất.
Nhờ có đường lối đổi mới mà sản xuất phát triển, đời sống của nhân dân nói
chung được cải thiện. Nhưng không chủ quan với những thành tựu đã đạt được,
Đại hội VII(6_1991) đã chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết là: lạm phát còn ở
mức cao, tỷ lệ thất nghiệp cao,…
Đảng đã ngày càng vận dụng đúng đắn phương pháp luận duy vật biện
chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới, tiến hành
đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Nhờ đó,
nước ta mới có thể đạt được những thành tựu to lớn sau đại hội VII. . Lạm phát
được đẩy lùi từ 67% năm 1991 còn 5,2% năm 1993. Tổng sản phẩm trong nước
GDP tăng bình quân 8,2% (mức đề ra cho năm 1991- 1995 là 5,5- 6,5%). Sản
xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, sản lượng lương thực 5 năm qua
tăng 26% so với 5 năm trước đó, vấn đề lương thực được giải quyết… Quan hệ
kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá, thị
trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở rộng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài
tăng mạnh…kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1991 – 1995 đạt trên 17 tỷ USD
(kế hoạch là 12 – 15 tỷ USD), đảm bảo nhập các loại vật tư, thiết bị và hàng hoá
đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống,… Khoa học cơng nghệ có bước phát
triển, đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
10

TIEU LUAN MOI download :


sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường

lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Chính trị ổn định, chúng ta đã mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo môi trường thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Với sự thành công của công cuộc đổi mới hơn mười năm (1986 -1995),
chúng ta có thể khẳng định rằng, cơng cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta là
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử tức là chúng
ta phải thừa nhận giai đoạn phát triển kinh tế thị trường mà trước đây chúng ta đã
phủ nhận nó mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản.
Thực tế trong những năm qua, với những chính sách, chương trình phát triển
kinh tế chính trị xã hội, chính sách ngoại giao hợp lý, chúng ta đã đạt được những
bước tiến rất quan trọng, bình thường hố quan hệ với Mỹ, là thành viên của khối
ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á). Đặc biệt năm 1998 ta đã trở thành
thành viên của khối APEC ( Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương)…Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nay ta đã bình thường hố được tất cả các
nước lớn, có quan hệ ngoại giao với 167 nước, quan hệ thương mại với 120
nước. Đồng thời cân bằng quan hệ với các nước lớn, phát triển quan hệ tốt đẹp
với các nước láng giềng trong khu vực. Tăng trưởng GDP tiếp tục tăng cao, năm
1996 là 9,3%, năm 1997 là 8,2%, năm 1998 là 5,8%. Lạm phát vẫn được giữ ở
mức dưới 10%. Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp vẫn đạt hai con số… Đời
sống của nhân dân ngày càng được ổn định và nâng cao. Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2021-2030 xác định phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là nước
đang phát triển có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và xác định cả
tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Tuy nhiên, hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi nhanh,
phức tạp, khó lường. Đại hội XIII của Đảng ta chỉ rõ: “Hịa bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách
thức. Tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị đe
dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh
tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt… Các nước điều chỉnh
chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu vực

Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng.
Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đơng cịn
diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh
phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động mạnh, nhiều
mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của
11

TIEU LUAN MOI download :


thế giới, khu vực và đất nước ta” [ Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 2021, t.1,
tr.30,31]. Thực tiễn này đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta trong đổi mới phải nắm
vững phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin; phải nhìn thẳng,
đánh giá đúng thực tiễn, đặc biệt dám từ bỏ cả những kết luận của chính mình
nếu như khơng còn phù hợp để bổ sung, phát triển lý luận trong tình hình mới.
Đảng ta khẳng định: “Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của
xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, khơng sao chép bất cứ
một mơ hình có sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước
đi, hình thức và cách làm phù hợp” [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, 2001, tr.81].
b) Đối với bản thân em là một sinh viên
Thứ nhất, vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thế giới khách quan. Sinh viên chọn ngành, chọn
trường học phải căn cứ vào khả năng học tập của bản thân, điểm mạnh, điểm yếu
và cả khả năng kinh tế của gia đình. Khi đã là sinh viên thì cần đặc biệt tơn trọng
tính khách quan và tuân theo các quy luật khách quan như: tuân thủ thời khóa
biểu, đi học đúng giờ, khơng được nghỉ q số buổi quy định, chấp hành đúng kỷ
luật thi cử hay quy chế cấm thi, học lại,…
Thứ hai, sinh viên cần phát huy tính năng động chủ quan tức phải phát huy

tính năng động, tích cực, sáng tạo của ý thức. Nếu xét cấu trúc ý thức theo chiều
ngang, tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Sinh viên hay chính bản thân em phải
ln ln bổ sung thêm tri thức cho bản thân bằng cách xem trước bài học, lắng
nghe thầy cơ giảng, tích cực trao đổi xây dựng bài, đọc và nghiên cứu tài liệu,
giáo trình, sách. Ngồi ra, sinh viên nên tham gia các hoạt động Đoàn, Đội, hoạt
động tình nguyện để có nhiều cơ hội làm việc nhóm, thuyết trình, giao tiếp,…
hay đi làm thêm để bổ sung cho mình những tri thức khơng có trong sách vở,
điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cơng việc sau này. Ngồi tri thức, tình cảm và
ý chí cũng là các yếu tố quan trọng. Muốn học tốt, sinh viên cần phải u việc
học, khơng học vì bị bắt ép, vì để so thành tích. Sinh viên cần có ý chí, niềm tin
vào bản thân, có hồi bão, ước mơ, đặt kế hoạch để thực hiện nó. Ước mơ, hồi
bão sẽ khác nhau với từng sinh viên, có bạn muốn học bổng, có bạn muốn bằng
loại giỏi, trúng tuyển Big4…Căn cứ vào nó mà mỗi sinh viên lập kế hoạch học
tập cho riêng mình. Cuộc sống sinh viên có nhiều cám dỗ, nhiều bạn chơi quá đà
hoặc chỉ để ý lợi trước mắt từ việc làm thêm mà bỏ bê việc học. Nhưng nếu
12

TIEU LUAN MOI download :


ham học hỏi và ý chí vững vàng, chắc chắn sẽ có động lực vượt qua khó khăn
trong học tập, đạt được những mục tiêu cao đẹp.
Thứ ba, sinh viên cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo
thủ trì trệ. Sinh viên phải tiếp thu có chọn lọc các kiến thức, khơng để bản thân
thụ động, bảo thủ và khơng chủ quan trước mọi tình huống. Khi làm việc nhóm,
bản thân em sẽ lắng nghe và tiếp thu các góp ý hay của các thành viên khác cùng
các thầy cô. Khi đăng ký môn học, sinh viên cũng khơng nên vì muốn ra trường
sớm nhưng chủ quan, đánh giá sai khả năng của mình dẫn đến đăng kí q nhiều
mơn học, bản thân khơng hồn thành nổi.


KẾT LUẬN
Theo quan điểm Triết học Mác-Lênin, vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức nhưng ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Từ đó, ta rút ra ngun tắc
luận là tơn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan.
Mọi đường lối, mục tiêu, chính sách,… khả thi, hiệu quả đều phải xuất phát từ
tiền đề vật chất hiện có.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang vận dụng đúng đắn, sáng suốt điều này.
Chúng ta hãy có niềm tin Đảng và Nhà nước sẽ lãnh đạo Việt Nam ta ngày một
phồn vinh, hạnh phúc. Nếu là sinh viên, chúng ta cần cố gắng nâng cao tri thức
và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức. “Học đi đôi với hành”, sinh viên hãy vận dụng
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào con đường học tập để thực hiện những
ước mơ, hoài bão đã đặt ra.

TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
2.
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật,
Hà Nội, 2021
3.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 2021
4.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX,
Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, 2001
5.
Website: ngày truy nhập: 27/04/2022

13


TIEU LUAN MOI download :



×