Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

tiểu luận marketing căn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.37 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA KINH TẾ
===  ===

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
MARKETING CĂN BẢN
ĐỀ TÀI: HOẠT ĐỘNG MARKETING Ở CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ

THƯƠNG MẠI NAM THÀNH

Họ và tên: Nguyễn Thọ Hào
Mã số sinh viên: 1967340301VB2006
Số báo danh:

Vinh, tháng 05/2022
=  =
1

1


MỤC LỤC

Lời mở đầu
1.Đặt vấn đề
Cơng cuộc đổi mới tồn diện nền kinh tế - xã hội nước ta mở đầu từ Đại hội
VI đến nay đã trải qua 36 năm, chúng ta đã có những thay đổi to lớn, sâu sắc
và đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.
Trước hết đó là sự đổi mới trong tư duy phát triển, chuyển từ nền kinh tế dựa
chủ yếu trên kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng
hóa có sự quản lý vĩ mơ của nhà nước và hiện nay là xây dựng nền kinh tế


hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường.
Chúng ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân
được nâng cao, hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển theo xu
hướng hội nhập quốc tế. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là sức cạnh tranh của nền
2

2


kinh tế Việt Nam còn rất thấp. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường
khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập vào hệ thống kinh doanh quốc tế
và khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam khơng có sự lựa chọn nào khác là
phải nâng cao khả năng nhận thức lý thuyết và thực hành Marketing vào kinh
doanh. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay, Marketing hiện đại và
quản trị kinh doanh theo triết lý Marketing là một phương pháp cốt yếu và
phổ biến trong quản trị kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy
Marketing có một vai trị hết sức quan trọng, khơng chỉ đối với những doanh
nghiệp lớn mà cả với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là đối với các
doanh nghiệp thương mại.
Nắm được lý thuyết Marketing doanh nghiệp sẽ có được cơng cụ hữu hiệu để
chiễm lĩnh thị trường với những chiến lược và kế hoạch Marketing hợp lý.
Tuy nhiên không phải ngay từ đầu Marketing đã phát triển thành một lý
thuyết hoàn chỉnh và trong thực tiễn hiện nay không phải doanh nghiệp nào
cũng nhận thức đầy đủ và áp dụng đúng lý thuyết Marketing vào quản trị kinh
doanh của doanh nghiệp.
Marketing nói chung và Marketing thương mại nói riêng là một nội dung rất
rộng và khó khăn nhưng nó lại vơ cùng hấp dẫn và quan trọng. Do đó, em xin
phép được tìm hiểu và trình bày đề tài này để làm rõ được vai trò và tác dụng
của Marketing đối với một doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị trường.
Vì trình độ và điều kiện có hạn nên đề án của em khơng thể tránh khỏi nhiều

thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý của thầy để đề án được
hồn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

3

3


Chương I: Những lý luận cơ bản về Marketing
1.1. Vai trò của Marketing trong kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản của Marketing
Nhiều người thường lầm tưởng Marketing với việc bán hàng và các hoạt động
kích thích tiêu thụ vì vậy họ quan niệm Marketing là hệ thống các biện pháp
mà người bán hàng sử dụng để cốt sao bán được hàng và thu được tiền về cho
người bán. Tuy nhiên Marketing hiện đại được định nghĩa như sau:
Marketing là quá trình xúc tiến với thị trường nhằm thỏa mãn nhu cầu, mong
muốn của con người hay Marketing là một dạng hoạt động của con người
nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi.

4

4


Từ góc độ doanh nghiệp thì Marketing là một dạng hoạt động chức năng của
doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu thơng qua trao đổi hàng hóa trên
thị trường và trên cơ sở thỏa mãn tốt nhất nhu cầu, mong muốn của khách
hàng mục tiêu.
Vậy nhu cầu, mong muốn, khách hàng mục tiêu… là gì?

Nhu cầu thường được người ta hiểu một cách quá đơn giản là sự đòi hỏi của
con người về một vật phẩm nào đó. Nhưng thực ra thuật ngữ đó bao hàm một
nội dung rộng lớn hơn mà nếu nhà kinh doanh chỉ dừng ở đó thì khó có thể
tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của mình lên được. Nhu cầu là một thuật ngữ
mà nội dung của nó hàm chứa ba mức độ: nhu cầu tự nhiên, mong muốn và
nhu cầu có khả năng thanh toán.
Nhu cầu tự nhiên phản ánh sự cần thiết của con người về một vật phẩm. Nhu
cầu tự nhiên là một trạng thái tâm lý của con người, là một sự thiếu hụt cái gì
đó mà con người chủ thể có thể cảm nhận được, nó là nguồn gốc của mọi sự
khát khao, là động lực của hành động. Khi xuất hiện nhu cầu tự nhiên con
người có hai cách giải quyết đó là kiềm chế nhu cầu hoặc tìm cách thỏa mãn
nhu cầu bằng cách tìm đối tượng để thỏa mãn và nhìn chung người ta sẽ chọn
cách thứ hai, đây chính là cách thức tồn tại của con người.
Marketing không thể tạo ra nhu cầu tự nhiên cũng khơng thể sáng tạo ra nó
nhưng Marketing có khả năng phát hiện ra nhu cầu tự nhiên. Tuy nhiên nếu
hoạt động của các nhà quản trị Marketing chỉ dừng lại ở việc phát hiện ra nhu
cầu tự nhiên của con người và sản xuất ra loại sản phẩm thuộc danh mục hàng
hóa thỏa mãn nhu cầu đó, thì trên thực tế họ không cần phải động não nhiều.
Nhưng kinh doanh như vậy trong điều kiện hiện nay sẽ mang lại hiệu quả rất
thấp, trừ khi doanh nghiệp kinh doanh loại sản phẩm ở vào vị thế độc quyền.
Rõ ràng người làm Marketing không thể chỉ dừng lại ở nhu cầu tự nhiên, để
tạo ra được sản phẩm hàng hóa thích ứng với nhu cầu thị trường, tăng cường
5

5


khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp người ta phải
hiểu một khía cạnh thứ hai của nhu cầu thị trường đó là mong muốn.
Mong muốn là một dạng cụ thể của nhu cầu tự nhiên gắn liền với những điều

kiện cụ thể, những đặc điểm cụ thể về mọi phương diện của con người cá thể
như trình độ văn hóa, tính cách cá nhân,… Ví dụ, đói là một cảm giác thiếu
hụt lương thực, thực phẩm trong dạ dày, sự đòi hỏi về lương thực và thực
phẩm để chống đói là nhu cầu tự nhiên của con người. Nhưng người này thì
muốn ăn cơm, người khác lại muốn ăn bánh mì, người này muốn ăn cơm khô,
người khác lại muốn ăn cơm dẻo… Những sự khác nhau đó trong nhu cầu địi
hỏi được đáp lại bằng cùng một loại sản phẩm nhưng có những đặc tính khác
nhau phản ánh ước muốn của con người.
Như vậy mong muốn ở đây là đề cập đến cách thức để thỏa mãn nhu cầu tự
nhiên, nhu cầu chính là cơ sở của mong muốn, mong muốn là dạng đặc thù
của nhu cầu tự nhiên, một nhu cầu có thể hướng tới nhiều mong muốn và do
đó mà hướng tới nhiều hàng hóa khác nhau, vì mong muốn ln ln biến
đổi rất phong phú do nó mang dấu ấn văn hóa và tính cách cá nhân của con
người. Mong muốn đòi hỏi một sản phẩm cụ thể và chỉ khi doanh nghiệp phát
hiện ra mong muốn thì họ mới thiết kế được sản phẩm cung ứng ra thị trường.
Nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người là vô hạn, nhà kinh doanh
không chỉ phát hiện và sản xuất ra sản phẩm để thích ứng với chúng như là
những sản phẩm cho không, mà phải thông qua trao đổi để vừa thỏa mãn lợi
ích của người tiêu dùng, vừa thỏa mãn mục đích của nhà kinh doanh. Vì vậy
trong khi đáp lại nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người nhà kinh
doanh phải tính đến một nội dung khác của nhu cầu thị trường đó là nhu cầu
có khả năng thanh tốn.
Nhu cầu có khả năng thanh tốn là đối tượng khai thác trực tiếp của
Marketing vì đây mới là nhu cầu hiện thực đem lại doanh thu và lợi nhuận
6

6


cho doanh nghiệp. Nhu cầu có khả năng thanh tốn chính là mong muốn được

hỗ trợ bởi sức mua và phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng. Tức
là nó gắn với hai điều kiện người tiêu dùng phải có mong muốn và người tiêu
dùng có khả năng chi trả và sẵn sàng chi trả.
Để hiểu được nhu cầu thị trường đòi hỏi nhà quản trị Marketing phải nghiên
cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng về các phương diện của nhu cầu.
Doanh nghiệp muốn thắng lợi trong cạnh tranh thương trường, muốn đi đầu
trong việc làm thỏa mãn và khai thác nhu cầu thị trường, muốn khỏi rơi vào
thế đối phó bị động, thì việc nghiên cứu, tìm hiểu và xác định đúng đắn nhu
cầu là một loại hoạt động tất yếu phải được thực hiện thường xuyên và chủ
động bởi một bộ phận chuyên môn.
Trong kinh doanh muốn có cơ hội thực sự thì phải đo lường được cầu về số
lượng và tính chất. Hiểu được nhu cầu thị trường , bước tiếp theo doanh
nghiệp cần thiết kế được sản phẩm. Sản phẩm được hiểu là tất cả mọi hàng
hóa và dich vụ có thể đem chào bán, có khả năng thỏa mãn một nhu cầu hay
mong muốn nào đó của con người, gây sự chú ý, kích thích sự mua sắm và
tiêu dùng của họ. Ý nghĩa lớn nhất của sản phẩm đối với người tiêu dùng
không phải là quyền sở hữu chúng mà là chúng đã thỏa mãn nhu cầu mong
muốn của người tiêu dùng như thế nào. Như vậy nhiệm vụ đặt ra cho cac nhà
kinh doanh là phải xác định chính xác nhu cầu mong muốn và do đó lợi ích
mà người tiêu dùng cần được thỏa mãn, từ đó sản xuất và cung cấp những
hàng hóa và dịch vụ có thể đảm bảo tốt nhất những lợi ích cho người tiêu
dung.
Nhiều nhà kinh doanh thường phạm phải sai lầm là: chỉ chú ý tới bản thân sản
phẩm, mà coi nhẹ những lợi ích do sản phẩm đó có thể mang lại. Trái lại, các
doanh nghiệp thực hàng Marketing thành công thường hành động theo triết lý:
“hãy yêu quý khách hàng hơn là sản phẩm” hoặc là: “hãy quan tâm tới lợi ích
có thể đem lại cho khách hàng hơn là sản phẩm”
7

7



Khi khách hàng quyết định mua sắm một nhãn hiệu hàng hóa cụ thể họ
thường kỳ vọng vào những lợi ích do tiêu dùng nhãn hàng hóa đó mang lại.
Cùng một nhu cầu có nhiều hàng hóa hoặc nhãn hiệu hàng hóa có thể hướng
đến để thỏa mãn nhưng theo cảm nhận của người tiêu dùng thì mức độ cung
cấp những lợi ích của các hàng hóa đó khơng giống nhau. Hàng hóa này có ưu
thế về cung cấp lợi ích này, nhưng lại có hạn chế trong việc cung cấp lợi ích
khác. Khi quyết định mua buộc người tiêu dùng phải lựa chọn, để lựa chọn
người tiêu dùng phải căn cứ vào khả năng cung cấp các lợi ích và khả năng
thỏa mãn nhu cầu của từng hàng hóa.
Giá trị tiêu dùng đối với một hàng hóa là sự đánh giá của người tiêu dùng về
khả năng của nó trong việc thỏa mãn nhu cầu đối với họ. Lợi ích mà người
tiêu dùng kỳ vọng gồm lợi ích vật chất, tinh thần, xã hội và những lợi ích
khác như: sự hài lịng, thoải mái…, những lợi ích này khơng chỉ do sản phẩm
mang lại mà còn do sự nỗ lực ở tất cả các khâu như: bán hàng, quảng cáo,
phân phối hàng hóa tới tận tay người tiêu dùng…
Việc đánh giá giá trị tiêu dùng đối với các hàng hóa là suy diễn đầu tiên của
khách hàng hướng đến với hàng hóa. Để dẫn tới quyết định mua hàng khách
hàng phải quan tâm tới chi phí đối với nó. Theo quan niệm của người tiêu
dùng thì chi phí đối với một hàng hóa là tất cả những hao tổn mà người tiêu
dùng phải bỏ ra để có được những lợi ích do tiêu dùng hàng hóa đó mang lại.
Như vậy để có được những lợi ích tiêu dùng khách hàng phải chi ra tiền của
sức lực, thời gian và thậm chí cả chi phí do khắc phục những hậu quả phát
sinh bởi việc tiêu dùng sản phẩm hàng hóa. Những chi phí này bao gồm cả chi
phí mua sắm, sử dụng và đào thải sản phẩm. Đây cũng là cơ sở để khách hàng
lựa chọn những hàng hóa khác nhau trong việc thỏa mãn cùng một nhu cầu.
Khi đã đánh giá được giá trị tiêu dùng và chi phí đối với từng hàng hóa khách
hàng đã có căn cứ để lựa chọn hàng hóa. Tất nhiên khách hàng sẽ lựa chọn
hàng hóa nào có khả năng thỏa mãn nhu cầu của họ tốt nhất. Sự thỏa mãn là

8

8


mức độ của trạng thái cảm giác của người tiêu dùng bắt nguồn từ việc so sánh
kết quả thu được từ việc tiêu dùng sản phẩm với những kỳ vọng của họ. Như
vậy người làm Marketing cần phải rút ra được những kinh nghiệm đó là: để
sản phẩm tiêu thụ một cách dễ dàng cần tăng giá trị tiêu dùng và giảm chi phí
sử dụng của người tiêu dùng và không thể dùng Marketing không trung thực
để phát triển kinh doanh như quảng cáo, lăng xê, gian lận thương mại.
Có thể thấy Marketing xuất hiện khi người ta quyết định thỏa mãn nhu cầu và
mong muốn thông qua trao đổi. Trao đổi là hành động tiếp nhận một sản
phẩm mong muốn từ một người nào đó bằng cách đưa cho họ một thứ khác.
Trao đổi là khái niệm căn bản nhất tạo nền móng cho hoạt động Marketing
nhưng để tiến tới trao đổi cần phải có các điều kiện sau:
- Ít nhất phải có hai bên.
- Mỗi bên cần phải có một thứ gì đó có giá trị đối với bên kia.
- Mỗi bên đều có khả năng giao dịch và chuyển giao thứ mình có.
- Mỗi bên đều có quyền tự do chấp nhận hay từ chối đề nghị của bên kia.
Mỗi bên đều tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với bên kia.
Trao đổi là một q trình chứ khơng phải là một sự việc, hai bên được xem là
đang thực hiện trao đổi nếu họ đang thương lượng để đi đến những thỏa
thuận. Khi đã đạt được sự thỏa thuận thì người ta nói rằng một giao dịch đã
hoàn thành. Giao dịch là đơn vị đo lường cơ bản của trao đổi. Giao dịch là
một cuộc trao đổi mang tính chất thương mại những vật có giá trị giữa hai
bên.
Như vậy các giao dịch thương mại chỉ có thể diễn ra thực sự khi hội đủ các
điều kiện:
- Ít nhất có hai vật có giá trị.

- Những điều kiện thực hiện giao dịch đã thỏa thuận xong.
9

9


- Thời gian thực hiện đã thỏa thuận xong.
- Địa điểm thực hiện đã thỏa thuận xong.
Những thỏa thuận này có thể được thể hiện trong cam kết hoặc hợp đồng giữa
hai bên, trên cơ sở một hệ thống luật pháp buộc mỗi bên phải thực hiện cam
kết của mình.
Khái niệm trao đổi, giao dịch dẫn ta đến khái niệm thị trường. Thị trường là
tập hợp những người mua nhất định có nhu cầu và mong muốn cụ thể mà
doanh nghiệp có thể thỏa mãn được, thị trường bao gồm những người mua
hiện tại và tiềm ẩn. Như vậy theo quan niệm này thì quy mơ thị trường sẽ tùy
thuộc vào số người có cùng nhu cầu và mong muốn, vào lượng thu nhập,
lượng tiền vốn mà họ sẵn sàng bỏ ra để mua sắm hàng hóa thỏa mãn nhu cầu
và mong muốn đó. Quy mơ thị trường khơng phụ thuộc vào số người đã mua
hàng và cũng không phụ thuộc vào số người có nhu cầu và mong muốn khác
nhau. Marketing quan niệm những người bán hợp thành ngành sản xuất cung
ứng còn người mua hợp thành thị trường. Do đó thuật ngữ thị trường được
dùng để ám chỉ một nhóm khách hàng có nhu cầu và mong muốn nhất định
được thỏa mãn bằng một loại sản phẩm cụ thể, họ có đặc điểm giới tính hay
tâm sinh lý nhất định, độ tuổi nhất định và sinh sống ở một vùng cụ thể.
Qua những khái niệm trên chúng ta đã có thể hiểu được một cách đầy đủ và
đúng đắn về khái niệm Marketing nói chung. Từ đó thấy được bản chất của
Marketing là đạt được mục tiêu của chủ thể bằng cách thỏa mãn nhu cầu
mong muốn của khách thể. Đứng trên góc độ doanh nghiệp thì bản chất của
Marketing là các hoạt động để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của thị
trường.

1.1.2. Vai trò và vị trí của Marketing trong hoạt động kinh doanh
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời lý thuyết Marketing hiện đại và ứng dụng nó là
một q trình, q trình đó gắn liền với quá trình tìm kiếm các triết lý và
10

10


phương pháp quản trị doanh nghiệp hướng ra thị trường. Trong thực tiễn tồn
tại 5 triết lý hay 5 quan điểm định hướng cho kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi nền kinh tế chưa phát triển hay phát triển thấp, cung chưa đáp ứng đủ
cầu, sản xuất chưa đáp ứng được tiêu dùng và nhu cầu của người tiêu dùng
còn giản đơn thì quan điểm chỉ đạo các nhà kinh doanh là: quan điểm định
hướng sản xuất. Quan điểm này cho rằng: Người tiêu dùng sẽ ưu thích nhiều
sản phẩm được bán rộng rãi với giá hạ. Vì vậy những nhà quản trị các doanh
nghiệp cần phải tập trung vào việc tăng quy mô sản xuất và mở rộng phạm vi
tiêu thụ. Như vậy ở đây người ta cho rằng điều mấu chốt nhất quyết định sự
thành bại của doanh nghiệp là số lượng sản phẩm sản xuất ra và mức giá bán,
nhưng hiện nay quan điểm này đã quá lỗi thời.
Những năm 20, 30 của thế kỷ XX khi nền kinh tế đã phát triển khả năng cung
ứng sản phẩm đã tốt hơn, nhu cầu của người tiêu dùng đã nâng cao kèm theo
sức mua đã gia tăng thì quan điểm định hướng vào hoàn thiện sản phẩm ra
đời. Theo quan điểm này thì: người tiêu dùng ln ưa thích những sản phẩm
có chất lượng cao nhất, nhiều cơng dụng và tính năng mới. Vì vậy các nhà
quản trị doanh nghiệp muốn thành công phải luôn tập trung mọi nguồn lực
vào việc tạo ra các sản phẩm có chất lượng hoàn hảo nhất và thường xuyên
cải tiến chúng.. Ưu điểm của quan điểm này là đã chú ý đến lợi ích của người
tiêu dùng, tuy nhiên nhược điểm là chưa chú ý đến nhu cầu và mong muốn
của khách hàng .
Khi nền kinh tế phát triển mạnh nhờ sự phát triển mạnh của cung thỏa mãn

cầu và bắt đầu xuất hiện tình trạng dư thừa, tiêt thụ sản phẩm trở nên khó
khăn do cạnh trạnh khốc liết thì quan điểm tập trung vào bán hàng ra đời.
Quan điểm này cho rằng người tiêu dùng thường bảo thủ và do đó có sức ỳ
hay thái độ ngần ngại, chần chừ trong việc mua sắm hàng hóa. Vì vậy để
thành cơng doanh nghiệp cần tập trung mọi nguồn lực và sự cố gắng vào việc
thúc đẩy tiêu thụ và khuyến mãi. Tuy nhiên quan điểm này có hạn chế đó là
11

11


vẫn chưa đáp ứng nhu cầu vá mong muốn của người tiêu dùng mà chỉ chú ý
đến khâu bán hàng.
Giữa thế kỷ XX, các doanh nghiệp phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt và sự
thường xuyên biến đổi của nhu cầu, điều đó địi hỏi người cung ứng phải bán
những thứ thị trường cần chứ khơng phải những gì mình có, do đó quan điểm
Marketing ra đời. Nội dung của quan điểm là: chìa khóa để đạt được mục tiêu
trong kinh doanh của doanh nghiệp là phải xác định đúng nhu cầu và mong
muốn của thị trường mục tiêu từ đó tìm ra những biện pháp thỏa mãn nhu cầu
mong muốn này bằng phương thức có lợi thế hơn hẳn đối thủ cạnh tranh.
Đến những năm 90 của thế kỷ XX xã hội phải đối mặt với những vấn nạn như
lãng phí tài ngun, mơi trường sinh thái bị phá vỡ, sự giảm sút các chuẩn
mực xã hội… thì quan điểm Marketing đạo đức xã hội ra đời. Theo quan điểm
thì nhiệm vụ của doanh nghiệp là xác định đúng đắn những nhu cầu mong
muốn của thị trường mục tiêu trên cơ sở đó đảm bảo thỏa mãn nhu cầu và
mong muốn này bằng phương thức hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh đồng
thời bảo toàn hoặc củng cố mức sống sung túc cho người tiêu dùng và xã hội.
Có thể thấy đây là quan điểm tiến bộ và hiện đại nhất cho đến nay.
Như vậy doanh nghiệp cần phải hiểu đúng khái niệm Marketing và xác định
đúng quan điểm tiếp cận khi nghiên cứu và vận dụng Marketing vào hoạt

động kinh doanh của mình bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới hướng đi của
doanh nghiệp. Có định hướng đúng doanh nghiệp sẽ có cơ hội thành công
hơn, nhất là trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường.
Qua nghiên cứu và phân tích lịch sử phát triển của Marketing các nhà kinh tế
còn khẳng định Marketing ra đời trước hết chính là để nhằm hỗ trợ có hiệu
quả cho hoạt động thương mại, tiêu thụ sản phẩm, giải quyết những khó khăn
rủi ro mà doanh nghiệp phải đối mặt cũng như xác định được cơ hội của

12

12


doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp đưa ra giải pháp kinh doanh có hiệu
quả nhất.
Marketing cịn có chức năng hết sức quan trọng đó là chức năng kết nối mọi
hoạt động của doanh nghiệp với thị trường. Marketing hướng các nhà quản trị
vào việc trả lời hai câu hỏi:
Một là, liệu thị trường có cần hết hay mua hết số sản phẩm doanh nghiệp tạo
ra hay không?
Hai là, liệu cái giá mà doanh nghiệp định bán, người tiêu dùng có đủ tiền mua
hay khơng?
Qua đó Marketing đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
hướng theo thị trường, biết lấy thị trường – nhu cầu và mong muốn của khách
hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh.
Marketing là một chức năng cơ bản của kinh doanh, nó là đầu mối quan trọng
của một cơ thể quản lý thống nhất, trong điều kiện của kinh tế thị trường.
Nhìn chung chức năng hoạt động Marketing của doanh nghiệp luôn luôn chỉ
cho doanh nghiệp biết rõ những nội dung cơ bản sau:
- Khách hàng của doanh nghiệp là ai? Họ sống và mua hàng ở đâu? Họ là nam

hay nữ? Già hay trẻ? Họ mua bao nhiêu? Vì sao họ mua?
- Họ cần loại hàng hóa nào? Loại hàng hóa đó có những đặc tính gì? Bao gói
ra sao? Vì sao họ cần những đặc tính đó ma khơng phải là những đặc tính
khác, những đặc tính hiện thời của hàng hóa cịn thích hợp với khách hàng
nữa hay khơng? So với hàng hóa của nhãn hiệu cạnh tranh, hàng hóa của cơng
ty có những ưu thế và hạn chế gì? Có cần phải thay đổi hàng hóa khơng?
Thay đổi yếu tố và đặc tính nào? Nếu khơng thay đổi thì sao? Nếu thay đổi thì
sẽ gặp những điều gì?

13

13


- Giá hàng của công ty nên quy định là bao nhiêu? Tại sao lại quy định mức
giá như vậy mà không phải là mức giá khác? Mức giá trước đây cịn thích hợp
khơng? Nên tăng hay giảm giá? Khi nào tăng hoặc giảm? tăng giảm bao
nhiêu? Ở đâu? Với ai?
- Doanh nghiệp nên tự tổ chức lực lượng bán hàng hay dựa vào lực lựong
khác? Cụ thể dựa vào ai? Khi nào thì đưa hàng hóa ra thị trường? khối lượng
là bao nhiêu?
- Làm thế nào để khách hàng biết, mua và u thích hàng hóa của doanh
nghiệp? Tại sao lại dùng cách thức này mà không dùng cách thức khác? Các
hàng hóa cùng loại người ta giới thiệu với công chúng bằng cách nào? Tại
sao người ta làm vậy?
- Hàng hóa của doanh nghiệp có cần dịch vụ sau khi bán khơng? Loại dịch vụ
nào doanh nghiệp có khả năng cung cấp nhất? vì sao? Vì sao doanh nghiệp
lựa chọn loại dịch vụ này mà không phải loại khác?...
Đó là những vấn đề mà ngồi chức năng Marketing ra thì khơng một hoạt
động chức năng nào khác của cơng ty phải có trách nhiệm trả lời, điều này

phản ánh tính chất độc lập của chức năng Marketing so với các chức năng
quản lý khác của công ty. Đương nhiên khi đề cập đến những nội dung trên
nhà quản trị Marketing khơng thể thốt ly khỏi các khả năng về tài chính, về
sản xuất và cơng nghệ, trình độ của nguồn nhân lực,... vì giữa chúng có mối
liên hệ với nhau.
Đối với các doanh nghiệp thương mại thì Marketing thương mại đóng một vai
trị đặc biệt quan trọng. Marketing thương mại được hiểu là: “quá trình tổ
chức, quản lý và điều khiển các hoạt động nhằm tạo ra khả năng và đạt được
mục tiêu tiêu thụ có hiệu quả nhất sản phẩm của một tổ chức trên cơ sở thỏa
mãn một cách tốt nhất nhu cầu của nhà sản xuất, nhà thương mại và người
tiêu thụ”.
14

14


Mục tiêu của Marketing thương mại cuối cùng vẫn là đảm bảo lợi nhuận có
thể có của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình kinh doanh trên thị
trường. Nhưng mục tiêu trực tiếp của Marketing thương mại có thể được xác
định là tạo ra những cơ hội lớn nhất để tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
mà qua đó mới có thể đạt đến mục tiêu lợi nhuận. Marketing thương mại được
nghiên cứu và phát triển là để nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thương
mại. Thực chất của Marketing thương mại là xác định lại cho phù hợp với
điều kiện của nền kinh tế hiện đại vị trí của nhà kinh doanh và khách hàng
trong hoạt động kinh tế. Từ đó sử dụng một cách đồng bộ và khoa học các
quan điểm lý thuyết hiện đại về tổ chức và quản trị kinh doanh trong quá trình
tiếp cận và chinh phục khách hàng để tiêu thụ sản phẩm.
1.2. Nội dung của quản trị Marketing
Quản trị Marketing là phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra việc thi
hành các biện pháp nhằm thiết lập củng cố và duy trì những cuộc trao đổi có

lợi với những người mua đã được lựa chọn để đạt được những mục tiêu của
doanh nghiệp đã đề ra.
Các quan điểm quản trị Marketing là những tư tưởng cơ bản của Marketing
đóng vai trò định hướng hoạt động Marketing của doanh nghiệp nhằm thỏa
mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng và giúp doanh nghiệp cạnh tranh có
hiệu quả. Có 5 quan điểm quản trị Marketing và đã được trình bày ở phần
trên. Bản chất của quá trình quản trị Marketing là gồm 3 bước:
- Bước 1: tìm kiếm và lựa chọn giá trị: tức là nghiên cứu và tìm kiếm giá trị
chưa được thỏa mãn và lựa chọn giá trị cung ứng để thỏa mãn nhu cầu mong
muốn của khách hàng
- Bước 2: tạo giá trị : tìm kiếm các ý tưởng thiết kế những sản phẩm thỏa mãn
nhu cầu mong muốn của khách hàng là định giá bán hợp lý, thiết kế kênh
phân phối.
15

15


- Bước 3: thông báo giá trị: thực hiện các hoạt động truyền thơng lựa chọn
những hình thức tiêu thụ hợp lý, thực hiện các dịch vụ hỗ trợ khách hàng.
Q trình quản trị Marketing gồm 5 bước sau:
1.

phân tích các cơ hội Marketing.

2.

phân đoạn thị trường lựa chọn thị trường mục tiêu

3.


lập kế hoạch chiến lược Marketing

4.

hoạch định chương trình Marketing

5.

tổ chức thực hiện kiểm tra kiểm sốt (và điều chỉnh
nếu có)

1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động Marketing của doanh nghiệp
Hoạt động Marketing của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng chịu tác động của
nhiều nhân tố, các nhân tố đó hình thành mơi trường kinh doanh của một
doanh nghiệp. Mơi trường được tiếp cận dưới góc độ Marketing là môi trường
Marketing.
Môi trường Marketing là tổng hợp tất cả các yếu tố, những lực lượng bên
trong và bên ngồi doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến
hoạt động hoặc ra các quyết định của bộ phận Marketing trong doanh nghiệp
đến khả năng thiết lập hoặc duy trì mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách
hàng.
Những thay đổi của môi trường Marketing ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ tới
các doanh nghiệp. Bao gồm cả ảnh hưởng tốt và xấu tới kinh doanh. Môi
trường không chỉ có những thay đổi, những diễn biến từ từ và dễ dàng phát
hiện và dự báo mà nó cịn ln tiềm ẩn những biến động khơn lường, thậm
chí những cú sốc.

16


16


Như vậy, môi trường Marketing tạo ra cả những cơ hội thuận lợi và cả những
sức ép, sự đe dọa cho tất cả các nhà kinh doanh. Điều căn bản là họ phải sử
dụng các công cụ nghiên cứu Marketing, các hệ thống Marketing để theo dõi,
nắm bắt và xử lý nhạy bén các quyết định Marketing nhằm thích ứng với
những thay đổi từ phía mơi trường.
Mơi trường Marketing là tập hợp của môi trường Marketing vi mô và môi
trường Marketing vĩ mô. Môi trường Marketing vi mô bao gồm các yếu tố
liên quan chặt chẽ đến doanh nghiệp và nó ảnh hưởng đến khả năng của
doanh nghiệp khi phục vụ khách hàng. Đó là các nhân tố nội tại của công ty,
các kênh Marketing, thị trường khách hàng, người cạnh tranh, người cung
cấp, các tổ chức trung gian,… các nhân tố này tác động trực tiếp tới hoạt động
của doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng nhất định tới những
yếu tố này.
Môi trường Marketing vĩ mô bao gồm các yếu tố, các lực lượng mang tính
chất xã hội rộng lớn, chúng có tác động ảnh hưởng tới tồn bộ mơi trường
Marketing vi mơ và tới các quyết định Marketing của doanh nghiệp. Môi
trường Marketing vĩ mô tập hợp tất cả các yếu tố mà doanh nghiệp không thể
kiểm sốt và thay đổi được đây chính là nguồn gốc nảy sinh các cơ hội và rủi
ro cho doanh nghiệp. Những yếu tố đó là những yếu tố thuộc về nhân khẩu
học, kinh tế, tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, chính trị pháp luật, đạo đức và văn
hóa xã hội,…
1.4. Kế hoạch hóa hoạt động Marketing trong doanh nghiệp
1.4.1. Chiến lược Marketing
Để duy trì sự phát triển của mình, mọi doanh nghiệp đều phải nhìn về phía
trước với những mục tiêu cần đạt tới và những cách thức để đạt được mục tiêu
đó. Ngày nay, việc quản lý dựa trên những kinh nghiệm, trực giác và sự khôn
ngoan không thể là một sự đảm bảo cho thành công của doanh nghiệp. Vì vậy,

17

17


một kế hoạch chiến lược được thiết lập và phát triển cho toàn bộ các hoạt
động của doanh nghiệp là điều cần thiết
Kế hoạch chiến lược giúp cho doanh nghiệp thấy rõ hơn mục tiêu chỉ đạo, sự
phối hợp các hoạt động được hồn hảo hơn. Đồng thời nó cũng giúp cho nhà
quản trị suy nghĩ có hệ thống những vấn đề kinh doanh nhằm mang lại những
chuyển biến tốt đẹp hơn cho công ty, doanh nghiệp.
Kế hoạch chiến lược của công ty là một chủ thuyết quản trị kinh doanh làm cơ
sở cho việc lập kế hoạch chiến lược kinh doanh sao cho đảm bảo sự phát triển
và duy trì sự thích nghi chiến lược giữa một bên là các mục tiêu và khả năng
của công ty và bên kia là các cơ hội thị trường đầy biến động.
Như vậy, quá trình lập kế hoạch chiến lược của một cơng ty là sự thể hiện của
việc tìm hiểu và nhận biết những yếu tố, mơi trường bên ngồi, đánh giá
những điều kiện và khă năng bên trong của công ty để soạn thảo các kế hoạch
chiến lược nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định.
1.4.2.Kế hoạch hóa hoạt động Marketing
Kế hoạch hóa hoạt động Marketing là q trình phân tích, lập kế hoạch, tổ
chức thực hiện và kiểm tra các chương trình Marketing đối với từng nhóm
khách hàng mục tiêu có nhu cầu và mong muốn cụ thể
Như vậy kế hoạch hóa Marketing có từng điểm nổi bật đáng lưu ý là:
Một là, kế hoạch hóa hoạt động Marketing là một q trình bao gồm: phân
tích, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra.
Hai là, kế hoạch hóa Marketing được triển khai cho từng nhóm khách hàng
mục tiêu có nhu cầu nhất định.
Ba là, mỗi nhóm khách hàng mục tiêu có nhu cầu và mong muốn riêng, nên
cũng có thể hiểu kế hoạch hóa Marketing được đặt ra với từng hàng hóa riêng

biệt, từng thị trường cụ thể.
18

18


Các giai đoạn của q trình kế hoạch hóa hoạt động Marketing bao gồm:
1.

Phân tích thị trường và chiến lược Marketing hiện tại:

Phân tích thị trường và chiến lược Marketing hiện tại nhằm đánh giá những
đặc điểm chủ yếu của thị trường như quy mô, cơ cấu, xu hướng biến động và
ảnh hưởng của môi trường Marketing tới việc mua sắm của khách hàng. Một
lần nữa, những nội dung phân tích mơi trường lại được đề cập và tiếp cận để
có thể xác định vị thế của cơng ty trong hiện tại. Chỉ có điều sự phân tích này
phải gắn với từng sản phẩm cụ thể. Đồng thời công ty cũng cần phải phân
tích cạnh tranh như: xác định các đối thủ cạnh tranh, thị phần và chiến lược
của họ. Khi phân tích chiến lược Marketing hiện tại, các chiến lược bộ phận
của Marketing hỗn hợp sẽ được xem xét lại. Cụ thể công ty xét duyệt lại sản
phẩm về doanh số, giá cả và lợi nhuận của những sản phẩm chính, những nội
dung trong chiến lược giá, phân phối và xúc tiến bán cũng sẽ được xem xét lại
trong hồn cảnh mới.
2.

Phân tích cơ may và rủi ro:

Từ những phân tích mơi trường và thị trường, những cơ may và rủi ro đe dọa
được nhận biết và xác định. Những cơ may có thể sẽ mở ra những khả năng
phát triển mới nếu công ty tận dụng được. Những rủi ro, đe dọa cần được

nhận biết để có biện pháp giảm thiểu và phòng ngừa.
3.

Xác định các mục tiêu Marketing:

Một mặt, các mục tiêu Marketing phải thống nhất và được định hướng từ các
mục tiêu của kế hoạch chiến lược, mặt khác các mục tiêu này phải được thiết
lập một cách rõ ràng, cụ thể và có thể đo lường được. Vì vậy những mục tiêu
của kế hoạch Marketing thường là: doanh số bán, lợi nhuận và thị phần cần
đạt được, chất lượng và đặc điểm nổi bật của sản phẩm, giá cả, dịch vụ, vị thế
doanh nghiệp.Thông thường, một kế hoạch Marketing có thể có nhiều mục
tiêu, những mục tiêu này có thể khơng thống nhất và mỗi mục tiêu có tầm
19

19


quan trọng khác nhau vì vậy cần sắp xếp một thứ tự mục tiêu trong quá trình
thực hiện theo tầm mức quan trọng của nó.
4.

lựa chọn thị trường mục tiêu:

Dựa trên những kết quả phân tích mơi trường thị trường chiến lược Marketing
hiện hành của công ty và nhiệm vụ mục tiêu mà công ty mong muốn đạt tới,
thực chất của việc lựa chọn thị trường mục tiêu là lựa chọn những nhóm
khách hàng tiềm năng mà cơng ty sẽ phục vụ với các sản phẩm nhất định.
Những thị trường mục tiêu được lựa chọn có thể là một hay một số đoạn thị
trường chính hay tồn bộ thị trường
Khi lựa chọn các thị trường mục tiêu cần làm rõ các vấn đề sau đây:



loại sản phẩm sẽ được bán để thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng.



Phương thức thỏa mãn nhu cầu đó



Quy mơ và tiềm năng tăng trưởng của thị trường.



Khả năng bán và thu lợi nhuận



Mức độ phù hợp giữa một bên là nhu cầu của khách hàng
ở các thị trường được lựa chọn và bên kia là khả năng
thỏa mãn những nhu cầu đó

Tùy thuộc vào việc phân tích, đánh giá những vấn đề nói trên mà công ty sẽ
lựa chọn được những thị trường tiềm năng tốt nhất, được xem như là những
đối tượng của kế hoạch Marketing.
5.

Thiết lập Marketing – mix


Marketing – mix ( Marketing hỗn hợp ) là một tập hợp các biến số mà cơng ty
có thể kiểm sốt và quản lý được và nó được sử dụng để cố gắng đạt tới
những tác động và gây được những ảnh hưởng có lợi cho khách hàng mục
20

20


tiêu. Các bộ phận cấu thành của Marketing hỗn hợp được biết đến như là 4P:
chiến lược sản phẩm (product), chiến lược giá cả (price), chiến lược phân
phối (places) và chiến lược xúc tiến khuếch trương (promotion).


Chiến lược sản phẩm: đó là việc xác định danh mục
sản phẩm, chủng loại, sản phẩm và các đặc tính của nó
như tên gọi, nhãn hiệu, các đặc tính kỹ thuật, bao gói,
kích cỡ và dịch vụ sau bán hàng.



Chiến lược giá cả: là việc xác định mục tiêu của chiến
lược giá, lựa chọn các phương pháp định giá, các chiến
lược giá của công ty.



Chiến lược phân phối: bao gồm các vấn đề như thiết
lập các kiểu phân phối, lựa chọn các trung gian thiết
lập mối liên hệ trong kênh và toàn bộ mạng lưới phân
phối, các vấn đề về dự trữ, ,kho bãi, phương thức vận

chuyển…



Chiến lược xúc tiến và khuếch trương: là mọi hoạt
động của công ty nhằm truyền bá những thông tin về
sản phẩm và dịch vụ của cơng ty, nó bao gồm các hoạt
động như: quảng cáo, kích thích tiêu thụ và các hoạt
động khuyến mại khác.

Đi liền với các chiến lược bộ phận sẽ là một hệ thống các biện pháp cụ thể
nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp. Các chiến lược bộ phận và các biện
pháp được phối hợp trong quá trình thực hiện sau này.
6.

Đề ra chương trình hành động và dự đốn ngân sách

Một chương trình hành động cho tồn bộ kế hoạch Marketing của công ty là
cần thiết để đảm bảo rằng kế hoạch này sẽ được thực hiện dưới sự kiểm soát
21

21


và điều khiển của các nhà quản trị Marketing. Chưong trình hành động phải
trả lời được các câu hỏi sau:


Cái gì sẽ được thực hiện?




Khi nào thực hiện?



Ai có trách nhiệm thực hiện?



Tổng chi phí cho nó là bao nhiêu?

Đồng thời cần phải dự đoán ngân sách hay những kết quả tài chính có thể của
kế hoạch Marketing để phù hợp với chương trình và tiến hành thực hiện một
cách tốt nhất.

Tất cả những nội dung trình bày ở trên là nhằm khái quát về Marketing và tác
dụng của nó trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, sau đây em sẽ
trình bày về hoạt động Marketing trong một doanh nghiệp thương mại. Cụ thể
là công ty TNHH sản xuất và thương mại Nam Thành, đây là một doanh
nghiệp trẻ đang nghiên cứu, tìm tịi để ứng dụng thành cơng Marketing hiện
đại trong quản trị kinh doanh. Trong giới hạn của để tài em chỉ đề cập đến
hoạt động kinh doanh thương mại của công ty trên thị trường may vi tính.

22

22


Chương II: Thực trạng và một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động

Marketing của công ty TNHH sản xuất và thương mại Nam Thành
2.1. Thực trạng hoạt động Marketing
2.1.1. Lựa chọn thị trường mục tiêu và định vị doanh nghiệp
Thị trường tổng thể luôn gồm một số lượng rất lớn khách hàng với những nhu
cầu đặc tính mua và khả năng tài chính rất khác nhau. Sẽ khơng có một doanh
nghiệp nào có thể với tới tất cả các khách hàng tiềm năng, hơn nữa mỗi doanh
nghiệp thường chỉ có một thế manh xét trên một phương diện nào đó trong
việc thỏa mãn nhu cầu thị trường. Do đó phân đoạn thị trường, lựa chọn thị
trường mục tiêu là một trong những nội dung quan trọng nhất của lý thuyết
Marketing và là một khâu không thể thiếu được của tiến trình hoạch định các
chiến lược Marketing. Nắm được điều này nên Nam Thành xác định rằng: chỉ
có thể đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của khách hàng bằng những nỗ
lực Marketing nổi trội hơn đối thủ cạnh tranh khi đã chọn được một thị trường
mục tiêu phù hợp.
Hiện nay, Việt Nam đang ra sức xây dựng một nền kinh tế thị trường phát
triển để vững vàng trên hành trình hội nhập thế giới, chủ động với những cơ
hội và thách thức sắp tới. Chúng ta đang đẩy nhanh tiến trình đàm phán gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và khẳng định: bằng những bước
tiến vững chắc. Do ảnh hưởng của tồn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay
đang chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua mạng
lưới cơng nghệ thơng tin. Điều này cho thấy vai trị quan trọng của khoa học
và công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của con
người.
Thế kỷ XXI đánh dấu những biến đổi bước ngoặt của khoa học và cơng nghệ,
có thể nói sự ra đời của máy vi tính là một phát minh hết sức vĩ đại. Nó được
sử dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế và đời sống xã hội, đảm nhận
23

23



nhiều chức năng của lao động trí óc. Từ đó trên thị trường thế giới và cả Việt
Nam xuất hiện nhu cầu rất lớn về máy vi tính. Máy vi tính với tốc độ tính tốn
nhanh và bộ nhớ lớn hơn con người rất nhiều có thể giúp người sử dụng học
tập, nghiên cứu, làm việc hoặc đơn thuần chỉ là giải trí. Nó giúp con người
những cơng việc từ đơn giản như: tạo lập văn bản, tính tốn,… đến những
cơng việc phức tạp hơn như: nghiệp vụ văn phịng, làm đồ họa,viết nhạc hay
thiết kế thời trang. Các phần mềm mang tính thực tiễn cao được ứng dụng
ngày càng nhiều giúp con người giải quyết công việc một cách nhanh gọn và
chính xác, thực tế là một chiếc máy vi tính có thể thay thế cho rất nhiều
người. Bên cạnh đó máy vi tính cịn là cơng cụ giúp con người kết nối với
tồn cầu thơng qua mạng Internet.
Qua nghiên cứu tổng quan về thị trường Nam Thành đã quyết định chọn thị
trường mục tiêu theo phương án: chuyên mơn hóa theo sản phẩm. Theo
phương án này cơng ty tập trung vào kinh doanh sản phẩm máy vi tính và các
linh kiện máy vi tính để đáp ứng cho 2 đoạn thị trường đó là: hộ gia đình và
văn phịng.
Tiếp theo đó cơng ty đã chọn áp dụng chiến lược Marketing phân biệt để tiếp
cận thị trường mục tiêu, tức là soạn thảo chương trình Marketing riêng cho
từng đoạn thị trường. Đó là vì nhu cầu sử dụng và mong muốn của khách
hàng không giống nhau. Đối với những cơng việc đơn giản thì chỉ cần một
chiếc máy tính bình thường và thơng dụng, nhưng đối với những cơng việc
mang tính phức tạp thì tùy vào phần mềm sử dụng và tính chất cơng việc
người tiêu dùng sẽ chọn máy có tốc độ cao hơn, bộ nhớ lơn hơn, nhiều phụ
kiện chuyên dụng hơn… Mặt khác, việc chia thị trường mục tiêu ra những
phân khúc khác nhau giúp công ty hướng vào những nhu cầu thị trường cụ thể
hơn, có biện pháp quảng bá và cách tiếp cận hữu hiệu hơn, định giá phù hợp
hơn.

24


24


Tuy nhiên thực tế hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực này, vấn đề đặt ra tiếp theo đối với Nam Thành là phải xây dựng chương
trình hành động như thế nào để hiệu quả nhất và có tính cạnh tranh mạnh
nhất.
2.1.2. Chiến lược và chương trình hành động
Đối với bất kỳ một người làm Marketing nào cũng phải nắm chắc 4 tham số
cơ bản của hệ thống Marketing hỗn hợp, đó là:

a.



Product: sản phẩm.



Price: giá cả.



Places: phân phối



Promotion: xúc tiến hỗn hợp.


Chiến lược sản phẩm:

Nam Thành đề ra chủ trương tập trung vào việc chào bán lợi ích của sản phẩm
chứ khơng phải là đặc tính của sản phẩm, chú trọng thỏa mãn nhu cầu và lợi
ích của khách hàng để đạt được mục tiêu lâu dài của công ty.
Theo quan điểm Marketing – từ góc độ người tiêu thụ thì sản phẩm của doanh
nghiệp được hiểu là một hệ thống thống nhất các yếu tố có liên hệ chặt chẽ
với nhau nhằm thỏa mãn đồng bộ nhu cầu của khách hàng bao gồm sản phẩm
vật chất, bao bì, nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ, cách thức bán hàng…
Từ đó cơng ty vạch ra chiến lược phát triển sản phẩm theo 2 hướng:


Phát triển sản phẩm hiện vật: sản phẩm hiện vật là sản phẩm
có nguồn chế tạo từ các nhà sản xuất, do đó cơng ty phải tăng
cường các hoạt động tìm kiếm, đánh giá, lựa chọn sản phẩm
mới được chế tạo bởi nhà sản xuất để đưa vào danh mục hàng
hóa kinh doanh của công ty. Cụ thể hiện nay công ty đang

25

25


×