Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.58 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI : Anh chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
Họ và tên sinh viên :
Mã sinh viên :
Lớp tín chỉ :
Giảng viên :

HÀ NỘI _ 2022


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 1
NỘI DUNG------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 2
A.

Cơ sở lý luận------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 2
I.

Tư tưởng của chủ nghĩa mác lê nin về cơ cấu kinh tế---------------------------------------------------2

II.
Tư tưởng của bác hồ về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam 3
1.



Cơ cấu thành phần kinh tế-----------------------------------------------------------------------------------3
a. Tính tất yếu khách quan của việc trải qua giai đoạn dân chủ mới, thực hiện kinh tế
nhiều thành phần.--------------------------------------------------------------------------------------------------3
b.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế------------------------------------------------4

2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế------------------------------------------------------7

3.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu vùng kinh tế------------------------------------------------------10

B. Vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế
nước ta hiện nay------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 11
1.

Vận dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước
11

2.

Vận dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước
13

3.


Vận dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước
14

KẾT LUẬN---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 15


MỞ ĐẦU
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta đã trải qua hơn 60 năm lịch sử, đó
là một quãng thời gian dài lâu mà toàn dân cùng nhau trải qua giai đoạn phát triển kinh tế
xã hội, cùng nhau chứng kiến giai đoạn lịch sử chuyển mình sang một hình thái kinh tế xã
hội mới tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Các Mác đã viết : “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây
không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó
mà trái lại là một xã hội công sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa.” Và
sau này, Lê nin kế thừa tư tưởng chủ nghĩa mác xít, khẳng định xã hội mới lọt lịng từ xã
hội cũ sau “những cơn đau đẻ kéo dài”, để rồi Hồ Chủ tịch phát triển tư tưởng đó mà nhận
định tầm quan trọng của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa mà cần “ đi bước nào vững
chắc bước đấy.” Nhìn chung các nhà triết học đại tài này đều nhận định thời kỳ quá độ là
thời kỳ cải biến cách mạng triệt để toàn diện về mọi lĩnh vực mà để làm được điều đó thì
cần giải quyết những nhiệm vụ về kinh tế và chính trị.
Cho tới ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển kinh tế vẫn ln là vấn đề
nóng hổi và cấp bách. Phải làm sao để có được cái nhìn tồn diện để phát triển kinh tế ?
Đến đây, ta nhìn về tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đó là quan điểm mang ý nghĩa chiến lược, với tư duy
logic vượt thời đại mà cho tới tận bây giờ Đảng và Chính phủ vẫn tiếp tục học tập và làm
theo lời Bác để thực hiện phát triển kinh tế quốc dân.
Nhận thấy được tầm quan trọng của việc tìm hiểu và phân tích cơ cấu kinh tế trong thời
kỳ quá độ, chúng ta có những phân tích về quan điểm của Bác về vấn đề này để từ đó
nhìn nhận q trình Đảng áp dụng vào trong thực tiễn phù hợp với hồn cảnh mơi trường
kinh tế Việt Nam. Bài viết sẽ hướng tới tìm hiểu và phân tích để tài: “Anh chị hãy tìm
hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.”
Trong q trình tìm hiểu đề tài khơng tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy phụ trách
bộ mơn có thể phản biện, xây dựng góp ý để bài tiểu luận đi đến đích đến cuối cùng là xác
lập tư tưởng đa chiều, đúng đắn và có thể áp dụng những lý luận vào trong hành động
thực tiến, ý thức tư tưởng xã hội Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn !

1


NỘI DUNG
A. Cơ sở lý luận
I. Tư tưởng của chủ nghĩa mác lê nin về cơ cấu kinh tế
Theo chủ nghĩa Mác Lê nin, tính quy luật chung về kinh tế của mỗi quốc gia dân tộc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nói
cách khác là nhiều bộ phận, nhiều mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội để
thay thế cho Chính sách cộng sản thời chiến đã lạc hậu và gây ra sự kìm hãm cho phát
triển kinh tế đất nước. Cùng với đó, Lê nin cũng đưa ra quan điểm của mình về các thành
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo ông, trong thời kỳ này có 5
thành phần kinh tế tương ứng với nước Nga thời đó :
- Kinh tế nơng dân kiểu gia trưởng
-

Kinh tế hàng hóa nhỏ
Kinh tế tư bản
Kinh tế tư bản nhà nước

- Kinh tế xã hội chủ nghĩa
Như đề cập ở trên, ta nhận thấy điểm đặc biệt về thứ tự các thành phần kinh tế. Lê nin

đã cố tình sắp xếp các thành phần kinh tế theo thứ tự, cấp độ tăng dần về tính chất chủ
nghĩa xã hội của từng thành phần kinh tế, tỷ trọng các thành phần kinh tế trong từng giai
đoạn lịch sử, sự biến đổi tỷ trọng các thành phần kinh tế phải theo hướng xã hội chủ
nghĩa. Ngồi ra, ơng cịn chú trọng về tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh và thống nhất
giữu các thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững, tác động mạnh mẽ đến
sự phát triển kinh tế đất nước tiến tới xã hội chủ nghĩa.
Trong q trình thực hiện chính sách kinh tế mới, Lê nin ln đánh giá cao vị trí và vai
trò của thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, sử dụng kinh tế tư bản nhà nước
dưới hình thức tơ nhượng, hợp tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuế cơ sở sản xuất,..
Phương thức, hình thức này được xem như là “ chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ
nghĩa tư bản để phát triển tiến tới chủ nghĩa xã hội. Phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước
không chỉ là biện pháp “quá độ đặc biệt” mà còn là khâu “trung gian” để chuẩn bị điều
kiện vật chất đầy đủ nhất cho việc chuyển mình sang chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế sản
xuất hàng hóa nhỏ, trong q trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì
xuất phát điểm là phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nông dân, mà trước hết là từ
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa vào khôi phục và phát triển kinh tế tiểu nông để
khôi phục và phát triển đại công nghiệp. Ngay tại Đại hội Đảng Cộng sản Bolshevik lần
thứ 10, V.I.Lê nin đã yêu cầu chính quyền Xơ Viết phải nhanh chóng phát triển nền kinh
tế sản xuất tiểu nơng bằng cách khuyến khích nền kinh tế nông dân cá thể với những biện
2


pháp “q độ”, những hình thức “trung gian” có khả năng cải tạo nông dân, đổi mới nông
thôn và chuyển đổi nền kinh tế tiểu nông của những người nông dân cá thể thành nền sản
xuất tập thể có tính xã hội chủ nghĩa, diễn ra một cách tuần tự, có tính kế thừa và thận
trọng. Về kinh tế tư bản tư nhân, khi chính sách kinh tế mới được áp dụng thực tiễn vào
Nga, ơng hiểu rõ có thể chủ nghĩa tư bản sẽ sống lại, nhưng ông cho rằng khơng sợ nó,
mà kêu gọi Chính quyền Xơ Viết cần sử dụng tư nhân nông dân, thợ thủ công, thương
nhân,.. để phát triển kinh tế đất nước do tư bản tư nhân sẽ tạo ra nhiều hàng hóa tiêu dùng
cho xã hội – là cơ sở ổn định chính trị. Còn về kinh tế chủ nghĩa xã hội, nhà triết học đại

tài đánh giá cao vị trí và vai trị của thành phần kinh tế này. Đây chính là xương sống của
nền kinh tế - những mạch máu kinh tế cơ bản như cơng nghiệp, ngân hàng, tài chính tín
dụng ln nằm trong tay chính quyền Xơ Viết, thuộc sở hữu nhà nước. Khi chính sách
kinh tế mới được thực hiện, Lê nin chủ trương các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo
chế độ tự hoàn vốn, chế độ hoạch tốn kinh tế, các xí nghiệp này được giao quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm vật chất với kết quả hoạt động của mình.
II.Tư tưởng của bác hồ về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Có thể nói, góc nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cơ cấu kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là góc nhìn sáng tạo, mang tính thực dụng thực
tế mà Đảng và nhân dân ta vận dụng cho tới tận ngày nay. Theo quan điểm của Bác, cơ
cấu kinh tế có thể được phân định ra thành : cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh
tế và cơ cấu vùng kinh tế.
1. Cơ cấu thành phần kinh tế
Tư tưởng kinh tế của chủ tịch Hồ Chí Minh về các hình thức sở hữu và kinh tế nhiều
thành phần được thể hiện rõ nhất trong hai tác phẩm là “ Thường thức chính trị” sáng tác
năm 1953 và “Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp lần thức 11 Quốc hội
khóa I Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa” (năm 1959).
a.
Tính tất yếu khách quan của việc trải qua giai đoạn dân chủ mới, thực
hiện kinh tế nhiều thành phần.
Theo đó, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận và chỉ ra các loại hình kinh tế, các hình thức sở
hữu khác biệt, nhưng được cố kết lại thành một chỉnh thể kinh tế - xã hội quá độ trong quá
trình vận động. Đặc biệt, khi sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau vẫn còn là
tất yếu khách quan và có vai trị nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế thì cần
phải tiếp tục sử dụng, phát triển chúng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong tác phẩm
“Thường thức chính trị”, Hồ Chủ tịch đã chỉ ra rằng con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa
3



của Việt Nam ta có thể sẽ khác so với Liên Xơ. Người khẳng định : “Có nước thì đi thẳng
đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải đi qua chế độ dân chủ
mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)- như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt
Nam ta.”Như vậy, Người cho rằng, trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
phải thực hiện "chế độ dân chủ mới" hay chính là giai đoạn lịch sử tương ứng cho thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang ứng dụng hiện nay.
Bác Hồ cũng khẳng định rằng Việt Nam ta phải trải qua giai đoạn dân chủ mới để có
thể tiến tới chủ nghĩa xã hội bởi vì “ đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển của tư bản chủ nghĩa.” Chính xuất phát điểm thấp và bất lợi này đã qui
định tính chất phức tạp của kết cấu kinh tế- xã hội và sự tồn tại đồng thời của nhiều thành
phần kinh tế khác nhau. Hồ Chủ tịch cũng nhìn nhận và nêu rõ các loại hình kinh tế, các
hình thức sở hữu khác biệt nhưng lại kết cấu cố định lại thành một chỉnh thể kinh tế- xã
hội quá độ trong quá trình vận động. Đặc biệt, khi sự tồn tại của các thành phần kinh tế
khác nhau vẫn còn là một tất yếu khách quan và có vai trị nhất định đối với sự phát triển
của nền kinh tế thì vẫn cần tiếp tục sử dụng và phát triển chúng theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế
Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” , Người đã đề cập đến những thành phần kinh
tế của nước ta vùng tự do và trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này được
Hồ Chủ tịch phân tích rất rõ ràng, chi tiết và sâu sắc với tầm nhìn chiến lược. Người cho
rằng trong chế độ dân chủ mới thì có năm loại hình kinh tế khác nhau :
Kinh tế quốc doanh
-

Các hợp tác xã
Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ

Tư bản của tư nhân
Tư bản của Nhà nước

Đi vào chi tiết, Hồ Chủ tịch nhận định trong năm loại thành phần kinh tế này thì Kinh
tế quốc doanh là kinh tế nắm vai trò lãnh đạo và phát triển nhanh chóng, đóng góp cho sự
phát triển kinh tế nước nhà theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ khơng theo hướng tư bản
theo lối mịn. Người cũng cho rằng ở đó, Nhà nước nắm vai trị là xương sống, điều tiết
nền kinh tế đi theo đúng hướng. Đối với việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa các hình
thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế, phương châm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí

4


Minh là : “phải phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ
nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.”
Điều đặc biệt ở đây xét trên tình huống sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau
vẫn còn là một tất yêu khách quan với vai trò nhất định đối với sự phát triển của nền kinh
tế, Bác Hồ đã phân tích rõ tính chất của từng thành phần kinh tế để có thể sử dụng chúng
hợp lý , phát triển chúng theo hướng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Kinh tế địa chủ phong kiến thì bóc lột địa tơ, là thành phần kinh tế mang hơi hướng
chủ nghĩa phong kiến bóc lốt kiểu cũ, lạc hậu và tàn bạo, gây nên sự đi lùi trong công
cuộc phát triển nền kinh tế cho nên cần phải loại bỏ.
- Kinh tế quốc doanh thì mang tính chất chủ nghĩa xã hội. Ở đây, tài sản của các xí
nghiệp là tài sản chung của nhân dân, của Nhà nước chứ khơng có dấu hiệu của tư hữu,
chiếm làm của riêng. Trong các xí nghiệp quốc doanh thì xưởng trưởng, cơng trình sư
và cơng nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhân. Như vậy, mỗi ngành
nghề, mỗi cá thể đều là chủ nhân, mang tính chất cơng bằng và đều có quyền tham gia
đóng góp ý kiến, quản lý và xây dựng mơi trường xí nghiệp làm việc hiệu quả.
- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân góp chung để mua những vật liệu, công cụ, những vật dụng vần thiết, hoặc
bán những sản phẩm mà mình sản xuất,.. Các hội đổi công ở nông thôn cũng được coi
là một loại hợp tác xã.
- Kinh tế cá nhân của nông dân, thủ cơng nghệ thì họ thường tự tung hoạt động trao

đổi bn bán những sản phẩm mình sản xuất được. Xét trên thực tế, đây là một thứ
kinh tế lạc hậu, cần được can thiệp, hướng dẫn để phát triển. Đối với người làm nghề
thủ công, lao động riêng lẻ khác thì Nhà nước cần có những chính sách bảo hộ quyền
sở hữu về tư liệu sản xuất cho họ, hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cải thiện phương
thức làm ăn để đạt được lợi nhuận cao hơn, khuyến khích họ tổ chức các hợp tác xã sản
xuất theo phương thức tự nguyện. Đúc kết lại, Người nhận định rằng với cá thể tiểu
chủ thợ thủ công thì cần tận dụng sức lao động nhàn rỗi của họ và đưa vào các hợp tác
xã lành nghề.
- Kinh tế tư bản của tư nhân là kinh tế dựa trên tư bản chủ nghĩa, tức mang bản chất
của tư bản chủ nghĩa. Họ bóc lột cơng nhân tạo ra lợi nhuận, nhưng đồng thời họ cũng
góp phần mình trong q trình xây dựng kinh tế. Như vậy có thể thấy Bác có quan
điểm khách quan với kinh tế tư bản tư nhân trong nước vì Người đã thấu tỏ đặc điểm
khác biệt của giai cấp tư sản Việt Nam so với các nước khác. Đó chính là giai cấp này
có xu hướng hướng chống đế quốc, có xu hướng yêu nước cho nên “nếu mình thuyết
5


phục khéo, lành đạo khéo, họ có thể hướng theo chủ nghĩa xã hội.” Đối với thành phần
tư bản công thương, Nhà nước khơng được xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và
của cải khác của họ mà phải ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm tạo lợi nhuận cho
quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Chính phủ cần tận dụng
khoa học công nghệ, những phát triển sáng tạo của họ để làm giàu cho nền kinh tế
chung, đồng thời khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội theo hình
thức cơng tư hợp doanh kết hợp các hình thức cải tạo khác.
- Kinh tế tư bản Nhà nước là sự kết hợp giữa Nhà nước và tư bản, Nhà nước hùn vốn
với tư nhân để kinh doanh, và do Nhà nước lãnh đạo. Điểm khác biệt của kinh tế tư bản
tư nhân và Nhà nước chính là tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản còn tư bản Nhà
nước là chủ nghĩa xã hội.
Nói tới vai trị và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
đưa ra những chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ cần thực hiện nhằm phát huy

nguồn lực, năng lực sáng tạo của nguồn lực xã hội.
- Công tư đều lợi : Như đã đề cập ở trên thì thành phần kinh tế quốc doanh đóng
vai trị chủ đạo mà kinh tế quốc doanh là cơng. Nói theo cách khác, nó chính là nền
tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán được
khả năng cao của việc nền kinh tế cơng sẽ bị ăn bớt, có những thành phần cắt xét của
công để trục lợi cho bản thân, cho nên Người đã yêu cầu : “Đối với những người phá
hoại nó, trộm cắp của cơng, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị.” Trong đó, tư mà
Người nhắc tới là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ
công nghệ. Đây cũng chính là lực lượng cần thiết cho cơng cuộc xây dựng và phát triển
nền kinh tế nước nhà. Chính vì vậy mà Chính phủ cần phải có những biện pháp thúc
đẩy, giúp cho họ phát triển, song song với đó khiến họ tin và phục tùng sự lãnh đạo của
quốc gia dân tộc, hướng tới lợi ích của đại đa số nhân dân.
- Chủ thợ đều lợi : Khi nhắc tới vấn đề chủ tư bản thì Người cho rằng “Nhà tư bản
khơng khỏi bóc lột”. Đây là điều khơng thể tránh khỏi bởi nhà tư bản mang bản chất
của tư bản chủ nghĩa. Nhưng đó khơng phải là cớ để tư bản có thể bóc lột sức lao động
của cơng nhân. Chính phủ cần phải ngăn cấm những hành vi bóc lột cơng nhân q tay.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, không tránh khỏi những mâu thuẫn giữa các thành
phần kinh tế, hình thức sở hữu khác nhau cho nên Chính phủ và Nhà nước càng phải
cẩn trọng trong việc quản lý, giải quyết những mâu thuẫn một cách hợp lý, hài hịa lợi
ích của chủ lao động và người lao động mà theo Bác “Chính phủ phải bao vệ lợi quyền
của cơng nhân. Đồng thời vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi
6


hợp lý, không yêu cầu quá mức.” Song song với đó, Bác cũng nhận định rằng “chủ và
thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.”
- Cơng nơng giúp nhau : Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thuở ban đầu đã nhận ra được
vai trò động lực chính của giai cấp cơng nhân và nơng dân trong liên minh công – nông
trong sự nghiệp cách mạng kháng chiến. Hai giai cấp này có mối liên hệ sâu sắc với
nhau cho nên khơng chỉ chính trị mà cả về sau khi đất nước đã thống nhất thì về mặt

kinh tế, hai giai cấp này cũng cần phải nương tựa hỗ trợ nhau để phát triển “công nhân
ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng khác, để cung cấp cho nơng dân. Nơng
dân thì ra sức sản xuất nông cụ để cung cấp lương thực và các thứ ngun liệu cho
cơng nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giưa công nông.”
- Lưu thơng trong ngồi : Với tư duy mang tính chiến lược tầm cỡ vĩ mô mà áp
dụng cho tới tận sau này, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tầm quan trọng của tư
duy mở rộng giao thương hoạt dộng kinh tế đối ngoại từ khi đất nước còn chiến tranh.
Mà vấn đề này sẽ được làm rõ hơn khi phân tích về tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu
vùng kinh tế ở phía sau.
Có thể nói việc thừa nhận sự tồn tại khách quan lâu dài của các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa chính là sự vận dụng sáng suốt những quan
điểm mác xít của Hồ Chí Minh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ ở nước ta.
Mà nhiệm vụ phát triển kinh tế nhiều thành phần thì khơng thể tiến hành một cách nóng
vội được mà cần phải tuân thủ theo nguyên tắc : vững chắc từng bước và trên tinh thần
hoàn toàn tình nguyện, phải quán triệt phương châm cải tạo để sử dụng và sử dụng để cải
tạo. Bất kỳ một hình thức tổ chức sản xuất nào cũng cần hướng tới mục tiêu cao nhất
chính là phát triển sản xuất, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân để bảo đảm lợi ích của tồn thể các thành phần kinh tế cũng như của người lao động.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế
Đề cập tới vấn đề kiến quốc, xây dựng nền kinh tế nước nhà, Hồ Chí Minh cũng rất
quan tâm đến một cơ cấu kinh tế hợp lý. Người đề cập tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của
nền kinh tế nước nhà, đặc biệt là cơ cấu ngành.
Trước hết vấn đề cơ bản mang tính sống cịn chính là phải tìm ra được cơ cấu đạt hiệu
quả kinh tế cao nhất là khi tại thời điểm ấy, nước ta vẫn cịn là một nước nơng nghiệp lạc
hậu, cơ sở vật chất và nền kinh tế sản xuât đã nhỏ lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nhân
dân cịn đang đói khổ lầm than.
Ngay từ bước đầu phát triển kinh tế, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng ngành nông nghiệp
nước ta. Theo Người, nông nghiệp phải là gốc, là trụ cột chính bởi vì nơng nghiệp bảo
7



đảm lương thực, thực phẩm nguồn sống của con người, là cơ sở cho các ngành kinh tế
khác. Hơn nữa, vốn dĩ ở nước ta với tiền đề địa lý là nước nhiệt đới cận xích đạo lấy nơng
nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu với bề dày lịch sử của nền nơng nghiệp lúa nước trải dài
suốt q trình kiến quốc, nông dân chiếm đại đa số trong dân cư, cho nên việc quan tâm
phát triển nông nghiệp là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
nước nhà. Trong “ Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam”, Người khẳng định “Việt Nam là
nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc
xây dựng nước nhà, Chính phủ trơng mong vào nơng dân, trơng cậy vào công nghiệp một
phần lớn. Nông dân ta làm giàu thì nước ta giàu. Nơng dân ta thịnh thì nước ta thịnh.”
Quan điểm lấy nơng nghiệp là chính, là trung tâm sẽ còn lâu dài ở nước ta. Ngay trong
thời kỳ kháng chiến, phát triển kinh tế nông nghiệp cũng là một trong những điều kiện để
đảm bảo thắng lợi. Trong bài viết “ Việt Bắc quyết thắng” viết năm 1949, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “ Mặt trận kinh tế gồm có cơng nghệ, bn bán và nơng nghiệp”. Đối với Người
ngành nào cũng quan trọng nhưng trong thời điểm ấy thì quan trọng nhất vẫn là nơng
nghiệp vì “ có thực mới vực được đạo”. Phải đảm bảo có đủ cơm ăn áo mặc cho bộ đội và
nhân dân thì “kháng chiến mới mau thắng lợi, thống nhất và độc lập thành cơng”.
Sau ngày hịa bình lập lại, đất nước được thống nhất và miền Bắc bước vào thời kỳ
khôi phục kinh tế, lĩnh vực quan trọng nhất để khôi phục kinh tế vẫn là nông nghiệp “
Hiện nay Đảng và Chính phủ có quyết định khơi phục kinh tế, mà sản xuất nơng nghiệp là
chính.”
Sau thời kỳ khơi phục đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ này, Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh vai trị của nơng
nghiệp . Điều đó là hồn tồn có cơ sở khoa học và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của
nước ta. Người giải thích “Ở miền Bắc nước ta, nơng nghiệp chiếm bộ phận lớn trong nền
kinh tế. Vì nơng nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu, đồng thời là nguồn xuất khẩu
quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn nhất hiện nay, cho nên cần phải cải
tọa và phát triển nơng nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác.”
Phát triển nơng nghiệp ở nước ta lúc đó là thực sự quan trọng, không chỉ để đảm bảo

lương thực, thực phẩm cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm việc làm cho
người lao động, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, mà điều quan trọng hơn là nó sẽ là cơ
sở ban đầu cho các ngành kinh tế khác, cũng như cơ sở cho vấn đề công nghiệp hóa nước
nhà.

8


Khi quan tâm đến nông nghiệp nước ta, Bác rất chú ý đến việc phát triển một nền nơng
nghiệp tồn diện bởi chỉ khi có một nền nơng nghiệp phát triển tồn diện thì mới bước
đầu đáp ứng được tiêu chí tiến tới phát triển những ngành kinh tế khác. Mà để thực hiện
được điều này thì việc gắn bó giữa công nghiệp và nông nghiệp là điều kiện không thể
thiếu. Nhưng chúng ta không thể thực hiện một cách mơ hồ và nóng vội được mà cần “
phải tiến dần từng bước vững chắc.” Theo Bác, chìa khóa để thúc đẩy mối quan hệ giữ
nông nghiệp và công nghiệp khơng đâu xa mà chính là thương nghiệp. Vai trị của thương
nghiệp được Người giải thích như sau: “ Trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng
: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt tác động quan hệ mật thiết với nhau.
Thương nghiệp cái khâu giữa công nghiệp và nông nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng đến
nông thôn phục vụ nông dân thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị
tiêu dùng. Nếu không thương nghiệp bị đứt thì khơng liên kết được nơng nghiệp với công
nghiệp, không củng cố được liên minh công nông, cơng tác khơng chạy thì hoạt động
nơng nghiệp, cơng nghiệp, sẽ bị rời rạc.” Giải nghĩa ra thì Hồ Chủ tịch nhấn mạnh việc
thương nghiệp là cầu nối cho các ngành kinh tế cịn lại mà ở đây là nơng nghiệp và công
nghiệp, rồi tiến tới sau này sẽ kết nối nông nghiệp và công nghiệp với ngành dịch vụ.
Ngành thương nghiệp cải tiến nông nghiệp, nông nghiệp không chỉ còn là việc sản xuất
tiêu dùng nhỏ lẻ,nội bộ nữa mà được đưa vào chế biến trong công nghiệp phát triển thành
thị tiêu dùng, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hơn nữa nó cịn khiến cho liên minh cơng
nơng thêm gắn kết với nhau, cùng nhau phát triển để tạo ra lưu thơng cho nền kinh tế
quốc dân.
Nhờ có dự lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý như trên nên chúng ta đã xây dựng được nền

kinh tế kháng chiến, bảo đảm cho cuộc kháng chiên thắng lợi trong điều kiện đất nước bị
bao vây cô lập. Cũng nhờ có cơ cấu kinh tế đúng đắn đó nên chúng ta đã hoàn thành
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược thời kỳ 1954-1975 đưa đất nước đi lên theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nhưng không thể chỉ dừng lại ở đó. Người nhìn thấu được hồn cảnh
đất nước thời bấy giờ thiếu khoa học kĩ thuật do nước đế quốc xâm lược để lại chỉ là
những công cụ máy móc lỗi thời, chủ yếu là bóc lột sức người. Người nhận định rằng khi
chúng ta có đủ nguồn vốn và năng lực thì cần phải phát triển cơng nghiệp dịch vụ để tập
trung thay thế nông nghiệp. Đây là việc làm cần thiết và quan trọng nhưng không thể đốt
cháy giai đoạn mà cần có những bước đi cụ thể, mà theo Bác thì phải ưu tiên từ nhẹ rồi
mới đến nặng ( tức là ưu tiên ngành dịch vụ). Mà để phát triển được khoa học kĩ thuật,
phát triển các ngành kinh tế nước nhà và tạo lợi nhuận cho nền kinh tế quốc dân thì việc
thơng thương mở rộng là điều không thể tránh khỏi. Chúng ta khơng được đóng cửa khép
9


kín mà cần tn theo xu thế tồn cầu, tiếp thu và học hỏi những thành tựu của nước ngoài
để áp dụng cho Việt Nam phát triển.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu vùng kinh tế
Nói về quan điểm của mình về cơ cấu vùng thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra phương
hướng là cơ cấu vùng kinh tế trọng điểm sao cho phù hợp với nông thơn, thành thị và hải
đảo để từ đó rút ngắn khoảng cách thu nhâp, văn minh và nhận thức giữa các vùng.
Tiếp nữa, Người khẳng định phải xây dựng nền kinh tế tự chủ đi đôi với mở rộng hợp
tác quốc tế. Bác cho rằng độc lập là phải độc lập toàn diện triệt để, một quốc gia dân tộc
độc lập là một quốc gia dân tộc độc lập về mọi mặt : chính trị, kinh tế, quốc phịng, văn
hóa tư tưởng. Mà quan trọng nhất với Người đó chính là độc lập và chính trị và kinh tế,
tức là không lệ thuộc vào bất kỳ quốc gia dân tộc nào khác như một số nước trung đông.
Chúng ta độc lập tồn diện, độc lập về mọi mặt nhưng khơng có nghĩa là đóng cửa khép
kín mà vấn cịn có sự giao thương với các nước khác. Ở đây, tư duy của vị lãnh tụ vĩ đại
đã vượt ra khỏi thời đại, phá vỡ tư duy “bế quan tỏa cảng” xưa cũ bằng những dòng chữ
mộc mạc, ngắn gọn mà dễ hiểu dễ nhớ “ ta ra sức khai lâm thổ sản để bán cho các nước

bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho
ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó chính là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn
nhau rất có lợi cho kinh tế ta”.Người cũng quan tâm tới việc phát triển đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam như sau : “Các bạn, người buôn bán, kinh doanh, tiểu thương, tiểu chủ, công
nhân và trí thức, đã chung sống với nhân dân Việt Nam. Các bạn đã khai cơ lập nghiệp ở
Việt Nam. Những hoạt động chính đáng về kinh tế và văn hóa của các bạn cũng có lợi cho
Việt Nam. Vì vậy tơi khun các bạn. Các bạn cứ n lịng làm ăn như thường. Nhân dân
và Chính phủ Việt Nam sẽ giúp đỡ và bảo hộ các bạn.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trị của khoa học kĩ thuật đối với sự phát
triển của nền kinh tế nước nhà. Người cho rằng chúng ta khơng có điều kiện thuận lợi cho
khoa học kĩ thuật thì giờ cần phải học tập tiếp thu từ các nước đi trước, tìm tịi và tiếp thu
khoa học kĩ thuật, nguồn vốn của nước họ và đặc biệt là những kinh nghiệm đi trước
trong quản lý và sản xuất đặc biệt là sản xuất hàng hóa. Từ đó ứng dụng về nước ta sao
cho phù hợp với hoàn cảnh địa lý, tập tục thói quen đặc điểm của nền kinh tế nước nhà.
Song song với việc học tập tiếp thu, chúng ta cũng không được quên đi những tinh hoa
của nước nhà, phải biết “hịa nhập mà khơng hịa tan”, cũng như giữ vững tôn trọng độc
lập chủ quyền, ngăn cấm mọi hành động ảnh hưởng đến nền độc lập của quốc gia mình và
khơng can thiệp tới độc lập chủ quyền của quốc gia dân tộc khác.

10


Ngoài ra, Nhà nước cần thực hiện tốt việc tập trung quản lý kinh tế, tức quản lý và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, đưa ra những nguyên tắc trong quá trình quản lý cho hợp lý, đảm
bảo lợi ích chung của các thành phần kinh tế, công bằng với từng vùng kinh tế, ngành
kinh tế, cải thiện những mâu thuẫn trong nền kinh tế nước nhà. Hơn nữa, nước ta là nước
đi theo hướng xã hội chủ nghĩa cho nên cần tập trung dân chủ, tránh chuyên quyền, bài
trừ những hành vi tư hữu, trục lợi cho cá nhân, hay bóc lột sức lao động của nhân dân lao
động. Người cũng khẳng định cần chống tiêu cực trong hoạt động quản lý, xử phạt
nghiêm minh những hành vi tham ô tham nhũng, bè phái, đặc biệt là Đảng viên thì càng

phải có những biện pháp xử lý hợp tình hợp lý, nếu nghiêm trọng thì khai trừ khỏi Đảng
cũng những hình phạt đúng luật đúng nguyên tắc để làm gương cho những người khác và
thanh lọc Đảng trong sạch. Kết hợp với đó là những kế hoạch hóa trong phát triển kinh tế
cho phù hợp với từng thời kỳ, phải có những quan điểm cụ thể, kiện tồn bộ máy nhà
nước thực hiện quản lý. Việc quản lý kinh tế được Bác chú tâm rất kỹ. Theo Bác, việc
quan tâm tới cán bộ quản lý kinh tế cũng rất quan trọng. Mà quan tâm ở đây là quan tâm
tới chất lượng đội ngũ quản lý, cần có chuyên môn quản lý, kinh nghiệm quản lý đúng
ngành phù hợp với vùng kinh tế, đồng thời phải có những phẩm chất cần có của người
quản lý, của cơng dân u nước. Có như vậy thì việc phát triển các vùng kinh tế trọng
điểm mới có thể thành cơng .
B.
Vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay
Có thể nói việc áp dụng quan điểm của Hồ Chí Minh nêu trên của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà được coi là sự sáng tạo, là một trong
những nhân tố mới trong công cuộc đổi mới đất nước. Học tập và làm theo lời Bác, Đảng
và Chính phủ đã thực hiện phát triển nền kinh tế qua việc áp dụng hợp lý, phát triển cơ cấu
kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở : kinh tế nhiều thành phần, cơ cấu
ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế.
1.
Vận dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta trong sự nghiệp
đổi mới đất nước
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế nhiều thành phần vào việc phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, Đảng và
Chính phủ cùng nhau giải phóng mọi năng lực sản xuất, đánh dấu mốc mang ý nghĩa
chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vậy phát triển
kinh tế nhiều thành phần như thế nào ? Làm sao cho hiệu quả trong thời kỳ xã hội tại Việt
Nam? Có thể nói, để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
11



nghĩa ở nước ta thì cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn trong tư duy logic khách quan của
nền kinh tế và phát huy tư tưởng của Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần trên
một nền tảng và trong một hoàn cảnh mới, phát triển lên một trình độ và hình thức mới.
Quán triệt việc thực hiện chính sách nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ, tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI vào tháng 12 năm 1986, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII đã khẳng định trong đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng nhất : “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ
thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật…”.Đại
hội còn chỉ rõ : “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá
độ.” . Đến Hội nghị TW 6 (khóa VI) Đảng ta khẳng định : phát triển kinh tế nhiều thành
phần là chính sách nhất qn có ý nghĩa chiến lược mang tính lâu dài và tất cả các thành
phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Xuyên suốt 7 kỳ Đại hội của Đảng từ khi đổi mới (Đại hội VI đến Đại hội XII) và cả
trong “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020” và “Cương lĩnh xây dựng đất
nước tròn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” thông qua năm 1991 và bổ sung phát triển
năm 2011 đều đã khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng trong đổi mới, chính là Phát
triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đến Đại hội IX ( năm 2001) thì khái niệm kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khẳng
định như sau: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
diễn ra năm 2006 đã xác định các thành phần kinh tế của nước ta thời điểm đó, bám sát
vào tư tưởng Hồ Chí Minh là có 5 thành phần kinh tế : kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi. Nhìn chung, các thành phần kinh tế có tổ chức hoạt động đúng

pháp luật, đóng vai trị hợp thành nên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
cùng nhau phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Tiếp tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta diễn ra vào năm 2011 lại
một lần nữa nhấn mạnh mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với “nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
12


doanh.” Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tổ chức năm 2016 trên cơ sở
tổng kết quá trình 30 năm đổi mới, Đảng khái quát lại những lý luận của mình: “Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, tỏng đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật.” Và cho tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng mới diễn ra gần đây một lần nữa giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng
của các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới, nhấn mạnh về việc cải tiến để phù hợp
với trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta trong giai đoạn tiếp theo.
2. Vận dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta trong sự nghiệp đổi
mới đất nước
Bước đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, do nhiều nguyên nhân mà Việt Nam ta vội vàng
tập trung lực lượng vào cơng nghiệp nặng, từ đó trải qua q trình khó khăn vất vả. Phải
đến Đại hội Đảng lần thứ V và dấu mốc thay đổi toàn diện trong văn kiện của Đại hội
Đảng lần thứ VI thì chúng ta mới thực sự có sự thay dổi, đặt trọng tâm vào nền nông
nghiệp theo lời dạy của Hồ Chủ tịch và từ đó nền kinh tế- xã hội mới bước đầu có sự khởi
sắc.
Và cho tới ngày nay, khi tình hình trong và ngồi nước có sự biến chuyển, Việt Nam ta
đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ chặng đầu với nội dung chính là đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước. Và hơn hết trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, cơ
cấu kinh tế bắt buộc phải bắt kịp thời đại. Chính vì vậy, trong phương hướng phát triển

kinh tế- xã hội thì Đảng đã đưa ra những chủ trương : chuyển dịch cơ cấu kinh tế thoe
hướng cơng nghiệp hóa hiện đại hóa với mục tiêu là tới năm 2020 thì nước ta cơ bản trở
thành một nước cơng nghiệp. Tuy nhiên, trước mắt, chúng ta cũng không được lơ là phát
triển nơng nghiệp bởi đó vẫn là ngành kinh tế trọng điểm của đất nước.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta phải phát triển tồn điện nông lâm
ngư nghiệp, gắn liền với công nghiệp chế biến nơng lâm thủy sản. Trong Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng tại đại hồi IX đã chỉ rõ phương hướng phát triển
nền kinh tế quốc dân là: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát
huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, gắn với nhu cầu thị trường trong và
ngoài nước, đáp ứng về cơ bản các nhu cầu thiết yếu về đời sống nhân dân và yêu cầu
trang bị lại trong nền kinh tế và quốc phòng an ninh.” Đồng thời Đảng cũng nhấn mạnh
việc tăng cường chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
13


nơng nghiệp và nơng thơn từ đó tiếp tục phát triển và đầu tư về kết cấu hạ tầng kinh tế và
xã hội ở nông thôn để đưa nông, lâm, ngư nghiệp lên trình độ mới, có thể ứng dụng khoa
học kĩ thuật để cải thiện lợi nhuận. Cùng với đó dần chuyển dịch lao động sang khu vực
cơng nghiệp và dịch vụ, nâng cao chất lương đội ngũ nhân lực để bảo đảm cho sự nghiệp
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vững tiến trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay.
3.
Vận dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta trong sự nghiệp
đổi mới đất nước
Việt Nam chúng ta được phân chia thành 7 vùng kinh tế trọng điểm như sau : Trung du
và miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc bộ ( Đồng bằng sông Hồng), Bắc Trung Bộ, Ven
biển Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Phụ thuộc
vào đặc điểm địa lý, dân cư, tập tục thói quen của từng vùng mà Đảng và nhà nước có
những vận dụng và phương hướng nhất định để phát triển nền kinh tế của vùng đó. Có thể
nói Đảng ta thành công trong việc phát triển kinh tế của 7 vùng kinh tế trọng điểm này.

Xét trong bối cảnh hội nhập kinh tế, thay đổi trong trục kinh tế và địa chính trị của thế
giới, sự xuất hiện của một trật tự thế giới đa cực, sự nổi lên của Trung Quốc và Ấn Độ,
Việt Nam chúng ta cần phải có những đổi mới tư duy chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia
nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp tích cực, khởi xướng và tham
gia định hình các cơ chế hợp tác.” Hơn nữa, tiếp cận đa ngành, liên ngành và đa phương
hiện nay đang là xu thế phổ biến nhất là trong hồn cảnh tồn cầu hóa đang ngày phát
triển mạnh mẽ cho nên Việt Nam càng phải có sự khai thác lãnh thổ linh hoạt và tối ưu
nhất trong đó tạo ra sự đột phá để đáp ứng yêu cầu của cạnh tranh quốc tế và hội nhập
toàn cầu.
Để thực hiện được những điều này thì Đảng và Chính phủ nhận định rằng cần phải tập
trung vào việc : Hoàn thiện quy hoạch vùng và lấy đó làm cơ sở để phát triển các vùng
kinh tế trọng điểm, Nâng cao chất lượng vật chất, gia tăng kết cấu cơ sở hạ tầng kiến trúc
xã hội, đảm bảo việc sử dụng tài nguyên vùng kinh tế hợp lý song song với bảo vệ mơi
trường. Đặc biệt, Đảng cịn chú trọng phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, vùng động
lực, các khu kinh tế và các khu công nghiệp đi đôi với gia tăng liên kết giữa các địa
phương trong vùng và các vùng với nhau để phát huy tối đa hóa tiềm năng và lợi thế của
từng vùng kinh tế. Đảng cũng nhận định rằng không một địa phương nào bị bỏ rơi, tức là
cần phải tạo điều kiện cho các khu vực cịn khó khăn nhất là miền núi, hải đạo, biên giới,
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và phía tây các tỉnh miền Trung và bắt đầu hình
thành các khu kinh tế xuyên biên giới.
14


KẾT LUẬN
Từ trong thực tế lịch sử, chúng ta có thể nhận thấy được tầm quan trọng việc phân tích,
tìm hiểu về cơ cấu kinh tế trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội của tư tưởng Hồ Chủ
tịch và cho tới hiện nay khi nước ta bước tiến hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày nay, giá trị
của tư tưởng Hồ Chủ tịch về cơ cấu kinh tế vẫn cịn đó, mà Đảng và Chính phủ ln nhìn
nhận và thực hiện một cách nghiêm túc, tiếp thu giá trị tư tưởng và phát huy phù hợp với
tình huống hồn cảnh Việt Nam.

Qua tìm hiểu và phân tích, chúng ta đúc kết lại trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, Người
chia cơ cấu kinh tế thành : cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng
kinh tế. Trong đó, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được Người phân tích một cách sâu sắc
và rành mạch nhất, chỉ rõ được điểm mạnh và yếu của từng thành phần để có thể tìm ra
phương hướng phù hợp phát triển cho từng thành phần kinh tế.
Trải qua kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần XIII của Đảng ( 2021), Đảng và Chính phủ
một lần nữa nhấn mạnh về tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế.
Đồng thời, kế thừa tư tưởng của Bác, Đảng đưa ra những phương hướng phát triển kinh tế
phù hợp trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển khoa học công nghệ trong bối
cảnh Cách mạng cơng nghệ 4.0. Chúng ta có thể nhìn được rõ những nỗ lực của Đảng
trong việc học tập tiếp thu tư tưởng của Bác để cùng xây dựng phát triển kinh tế Việt
trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Là một cá thể trong thế hệ sinh viên đang học tập, bồi dưỡng tri thức khoa học, tư tưởng
trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt với khối ngành
chuyên ngành kinh tế, em nhận thấy được tầm quan trọng của việc tìm hiểu cơ cấu kinh tế
trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân, và vai trò trọng trách của những thế hệ tương
lai trong việc học tập, tiếp thu và phát huy tư tưởng trong sáng vĩ đại của Hồ Chủ tịch để
phát triển đất nước, tiến tới chủ nghĩa xã hội.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, 2016, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
2. C.Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, 2002, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. V.I.Lê nin, Tồn tập, 1980, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
4. Hồ Chí Minh, Thường thức chính trị (1954), Nxb Sự thật.
5. Hồ Chí Minh, Tồn tập, 2000, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII,1996 ,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,2001,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,2011,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,2016,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16


17




×