Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học đề tài triết học là gì vai trò của triết học trong đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.12 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI
HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC
******

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: Triết học là gì? Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội.

Giảng viên: T.S Nguyễn Anh Quốc
Sinh viên thực hiện: Trịnh Thị Yến Nhi
MSSV: 2056070049
Khoa: Triết học

2020 – 2021

TIEU LUAN MOI download :


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 3
NỘI DUNG............................................................................................................................... 4
I. Khái quát sự ra đời và phát triển của triết
học...................................... 4
1. Khái niệm về triết
học.................................................................................................... 4
2. Khái lược về triết học...................................................................................................... 4
3. Các vấn đề của triết học................................................................................................ 7
II. Vai trò của triết

học 9
1. Vai trò của triết học trong hoạt động nhận thức............................................ 9
2. Vai trò của triết học trong hoạt động thực tiễn............................................ 10


KẾT LUẬN............................................................................................................................... 12
Tài liệu tham khảo............................................................................................................. 13

TIEU LUAN MOI download :


LỜI MỞ ĐẦU
Không phải ngẫu nhiên mà con người coi Triết học như là khoa học của mọi khoa học.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong lịch sử, các nhà Triết học được gọi là nhà thông
thái, nhà hiền triết, người nắm được bí mật của sự vật,... thậm chí trong lịch sử nhân
loại, có thời kỳ mà xã hội đã đặt các nhà Triết học vào vị trí cao nhất trong xã hội. Tất
cả những điều ấy khiến Triết học trở thành một bộ môn thú vị, mang một cái gì đó
huyền bí làm con người dù là ở thời đại nào cũng đam mê, ham muốn để hiểu sâu hơn
và mong muốn góp sức mình vào cái gọi là lâu đài kì bí và hoa lệ đó. Kể từ khi ra đời
và trải qua nhiều giai đoạn phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ thì triết học ln
phản ánh sự phát triển trí tuệ lồi người và thúc đẩy tư duy lồi người, đơi khi cịn trở
thành vũ khí sắc bén nhất cho những gì tiến bộ của sự phát triển đó. Ngày nay, Triết
học đã thực sự trở thành khoa học, mặc cho sự phát triển như vũ báo của khoa học kỹ
thuật, sự phát triển về mặt chất của đời sống xã hội... cũng khơng hề làm giảm đi tính
chất kì bí và vai trò đối với thực tiễn của Triết học.

TIEU LUAN MOI download :


NỘI DUNG
I. Khái quát sự ra đời và phát triển của triết học
1. Khái niệm về triết học
- Theo tiếng Hán: "Triết" là trí (trí tuệ), là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến
đạo lý sự vật.
- Theo Ấn Độ, "Triết" được gọi là “darshana” có nghĩa là sự chiêm nghiệm. Được hiểu

là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về
vũ trụ và nhân sinh.
- Theo tiếng Hy Lạp cổ: "Triết " được gọi là Phylosophia - nghĩa là yêu mến sự thông
thái. Nhà Triết học là nhà thơng thái, có khả năng nhận thức được chân lí, làm sáng tỏ
được bản chất của sự việc.
Theo quan điểm của Triết học Mác-Lênin, triết học là hệ thống quan điểm lý luận
chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy
luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. Khái lược về triết học
2.1. Nguồn gốc của triết học
Triết học đã ra đời tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại vào khoảng thế kỉ VIII
đến thế kỉ VI TCN. Lúc bấy giờ, ở Trung Quốc, triết học được hiểu là sự truy tìm bản
chất, căn nguyên của vạn vật trong thế giới và định hướng nhân sinh cho con người; ở
Ấn Độ, triết học được hiểu là con đường suy ngẫm dẫn dắt con người đến với lẽ phải,
đến với chân lí siêu nhiên; cịn ở Hy Lạp là, triết học được hiểu là yêu mến sự thông
thái, là khát vọng hướng đến chân lí, giúp con người giải thích vạn vật trong thế giới và
định hướng nhận thức và hành vi trong thế giới. Triết học được sử dụng các cơng cụ lý
tính, logic,…để diễn tả thế giới một cách trừu tượng và khái quát dưới.
Nguồn gốc nhận thức
Đứng trước thế giới rộng lớn bao la, các sự vật, hiện tượng phong phú đa dạng, mn
hình mn vẻ, con người có nhu cầu phải nhận thức thế giới ấy, phải giải đáp các vấn
đề thế giới ấy từ đâu mà ra, nó tồn tại và phát triển như thế nào, các sự vật ra đời. Tồn
tại và mất đi có tn theo quy luật nào khơng? Trả lời các câu hỏi ấy chính là Triết
học.

TIEU LUAN MOI download :


Mặt khác, Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính chất khái qt và tính trừu
tượng cao. Do đó, Triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu

tượng phát triển ở mức độ nhất định.
Nguồn gốc xã hội
Triết học ra đời gắn liền với xã hội có giai cấp xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội cộng sản
nguyên thủy chưa có triết học.
Sự phát triển của sản xuất, sự phân chia xã hội thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau:
giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ, sự phân chia lao động trí óc và lao động chân tay là
điều kiện vật chất cho sự ra đời của Triết học.
Giai cấp thống trị có điều kiện về kinh tế cũng có điều kiện nghiên cứu Triết học. Do
đó, Triết học bao giờ cũng là thế giới quan của một giai cấp nhất định, giai cấp nào
thống trị về kinh tế cũng thống trị về tinh thần tư tưởng trong xã hội.
Khái niệm về thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới,
về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới.
Thế giới quan là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực tiếp cho
sự hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con người, từ đó
tri thức trở thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức.
Các loại thế giới quan (phân chia theo sự phát triển):
+Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên
thuỷ, có đặc điểm là các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và
tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện vào nhau thể hiện
quan niệm về thế giới.
+ Thế giới quan tôn giáo: Niềm tin tơn giáo đóng vai trị chủ yếu, tín ngưỡng cao hơn
lý trí, cái ảo lấn át cái thật, cái thần trội hơn cái người.
+ Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù, qui luật
đóng vai trị như những bậc thang trong q trình nhận thức. Như vậy, Triết học được
coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành phát triển của thế giới quan. Triết
học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đóng vai trị định hướng, củng cố và phát
triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
2.2. Đối tượng của Triết học
Quá trình xác định đối tượng của triết học sẽ tùy vào thời kỳ trong lịch sử:
Thời cổ đại (Thế kỷ V TCN - IV): triết học cổ đại được xem là đỉnh cao của nền văn

minh Hy Lạp, được xem là “khoa học của các khoa học”. Các triết gia cổ đại quan tâm
đến 2 vấn đề chính: mối liên hệ giữa nguyên nhân - hệ quả và bản chất, khởi thủy của
thế giới tồn tại. Triết học cổ đại cũng quan tâm đến con người.

TIEU LUAN MOI download :


Thời Trung cổ (Thế kỷ V - XV): đời sống tinh thần của con người chịu sự thống trị
của thần học Kitô giáo, nên triết học bị ảnh hưởng nặng nề. Một trong những mâu
thuẫn đáng chú ý của triết học trong thời kỳ này chính là giữa đức tin và lý trí.
Thời phục hưng (Thế kỷ XIV -XVI): đối tượng của triết học khơng cịn chỉ là tự nhiên
mà đã được mở rộng ra thêm con người và xã hội.
Thời cận đại (Thế kỷ XVII - XVIII): đây là thời kỳ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật,
mang hình thức của chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc. Trí thức của con người
ngày càng phát triển, các ngành khoa học khác dần dần độc lập tách ra khỏi triết học.
Các quy luật tự nhiên, tư duy, xã hội trở thành đối tượng nghiên cứu của triết học.
Triết học cổ điển Đức: đỉnh cao của quan niệm “Triết học là khoa học của mọi khoa
học”
Triết học Mác: Trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng để nghiên cứu những
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.3. Triết học - Hạt nhân lý luận của thế giới quan
Thế giới quan
Nhu cầu tự nhiên của con người về mặt nhận thức là muốn hiểu biết đến tận cùng, sâu
sắc và toàn diện về mọi hiện tượng, sự vật, q trình. Nhưng tri thức của lồi người ở
thời nào thì cũng có hạn. là phần q nhỏ bé so với thế giới cần nhận thức bên trong và
bên ngồi. Bằng trí tuệ duy lí, kinh nghiệm và sự mẫn cảm, con người buộc phải xác
định những quan điểm về toàn bộ thế giới làm cơ sở để định hướng cho nhận thức và
hành động của mình. Đó chính là thế giới quan.
Khái niệm về thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới,
về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới.

Thế giới quan là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực tiếp cho
sự hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con người, từ đó
tri thức trở thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức.
Các loại thế giới quan (phân chia theo sự phát triển):
+Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên
thuỷ, có đặc điểm là các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và
tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện vào nhau thể hiện
quan niệm về thế giới.
+ Thế giới quan tôn giáo: Niềm tin tơn giáo đóng vai trị chủ yếu, tín ngưỡng cao hơn
lý trí, cái ảo lấn át cái thật, cái thần trội hơn cái người.
+ Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù, qui luật
đóng vai trị như những bậc thang trong q trình nhận thức. Như vậy, Triết học được
coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành phát triển của thế giới quan. Triết

TIEU LUAN MOI download :


học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đóng vai trị định hướng, củng cố và phát
triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
Hạt nhân lý luận của thế giới quan
Nói triết học là hạt nhân của thế giới quan, bởi thứ nhất, bản thân triết học chính là thế
giới quan. Thứ hai, trong các thế giới quan khác nhau như thế giới quan của các khoa
học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc, hay các thời đại... triết học bao giờ cũng là
thành phần quan trọng, đóng vai trị là nhân tố cốt lõi. Thứ ba, với các loại thế giới
quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thế giới quan thơng thường,... triết học
bao giờ cũng có ảnh hưởng chi phối, dù có thể khơng tự giác. Thứ tư, thế giới quan
triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan và các quan niệm khác như thế.
Như vậy, triết học với tính cách là hạt nhân lí luận, trên thực tế, chi phối mọi thế giới
quan, dù người ta có chú ý và thừa nhận hay khơng.
Ngày nay, dù có nhiều quan niệm khác niệm khác nhau về triết học nhưng quan niệm

chung cho rằng, triết học là một hình thức nhận biết đặc thù, là một hình thái ý thức xã
hội đặc biệt. Triết học phản ánh, giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng , quá trình xảy
ra trong thế giới (gồm cả thế giới bên trong và bên ngoài con người; gồm cả giới tự
nhiên, xã hội và tư duy tinh thần) trong đó tính hệ thống chỉnh thể vốn có của nó bằng
tư duy lý luận, với mục đích tìm ra những thuộc tính, quy luật phổ biến nhất chi phối
sự vận động của vạn vật trong thế giới; từ đó xây dựng những yêu cầu nền tảng điều
phối hành vi con người trong thế giới xung quanh.
Như vậy, triết học là hệ thống chính thể liên kết trong mình những tri thức trừu tượng,
khái qt nhất (ngun lí nền tảng) về thế giới với những nguyên tắc cơ bản của tồn tại
người trong mối quan hệ với thế giới quanh. Điều này không cho phép đồng nhất triết
học với khoa học, đồng thời, phải thấy triết học khác biệt với tơn giáo, đạo đức, chính
trị, pháp luật,… Nhưng triết học lại có mối quan hệ mật thiết với hình thức nhận thức
khoa học và các hình thái ý thức xã hội như tơn giáo, đạo đức, chính trị, pháp luật và
thâm nhập vào những loại hình tư tưởng này với vai trò cơ sở lý luận của chúng.
3. Vấn đề của triết học
1. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
-Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề có vai trị nền tảng và là điểm xuất phát để giải
quyết những vấn đề còn lại.
-Vấn đề cơ bản của mọi triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
(giữa tồn tại và tư duy). Bởi lẽ, thứ nhất, đây chính là vấn đề mà các trường phái triết
học đều đề cập tới và hướng giải quyết; thứ hai, việc giải quyết vấn đề giữa quan hệ tư
duy và tồn tại, giữa vật chất và ý thức chính là cơ sở giải quyết mọi vấn đề khác của
triết học.
-Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời cho hai câu hỏi lớn.

TIEU LUAN MOI download :


+Mặt thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào? Nói cách khác, khi truy tìm ngun nhân cuối cùng của hiện tượng, sự

vật, hay sự vận động đang cần phải giải thích, thì ngun nhân vật chất hay ngun
nhân tinh thần đóng vai trị là cái quyết định.
+Mặt thứ hai, trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được hay khơng? Nói
cách khác, khi khám phá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận
thức được sự vật và hiện tượng hay không? Cách trả lời cho hai câu hỏi này quy định
lập trường của nhà triết học và hình thành các trường phái lớn trong triết học: chủ
nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, thuyết nhị nguyên luận và thuyết bất khả tri.
2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Từ việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, trong lịch sử triết học đã
hình thành hai trường phái triết học lớn: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ
nghĩa duy vật là trường phái triết học coi vật chất, tự nhiên có trước và quyết định ý
thức, tinh thần con người. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học coi ý
thức, tinh thần có trước thế giới vật chất.
-Chủ nghĩa duy vật: có ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa
duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+Chủ nghĩa duy vật chất phác, xuất hiện trong thời kỳ cổ đại. Mặt tích cực của chủ
nghĩa duy vật chất phác là khẳng định sự tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con
người của giới tự nhiên, lấy tự nhiên để giải thích tự nhiên. Tuy nhiên, hạn chế của chủ
nghĩa duy vật chất phác là mang nặng tính trực quan. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất
cùa một hay một số vật cụ thể nào đó.
+Chủ nghĩa duy vật siêu hình (thế kỷ XVI - XVIII), tồn tại trong giai đoạn khoa học
cụ thể, đặc biệt là cơ học có sự phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu rực
rỡ. Tính chất siêu hình của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này biểu hiện ở chỗ nó xem xét
sự vật trong trạng thái cơ lập, tách rời, không quan hệ với nhau, cũng như trong trạng
thái tĩnh lại, khơng vận động, khơng phát triển. Tính máy móc của chủ nghĩa duy vật
thời kỳ này biểu hiện ở chỗ nó xem xét giới tự nhiên cũng như con người như là một
hệ thống máy móc phức tạp.
+Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cao nhất do Mác và Ăngghen xây dựng
vào giữa thế kỉ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Với tư cách là hình thức phát triển
cao nhất của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được

những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cổ đại và của chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ
XVI-XVIII. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, một mặt, khẳng định thế giới vật chất tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức con người; mặt khác, nó cũng khẳng định ý thức có
khả năng tác động làm biến đổi thế giới vật chất bên ngồi thơng qua hoạt động thực
tiễn của con người.
-Chủ nghĩa duy tâm: có hai hình thức: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa
duy tâm chủ quan.

TIEU LUAN MOI download :


+Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng có một thực thể siêu nhiên nào đó tồn tại
trước, ở bên ngoài con người và thế giới vật chất. Thực thể tinh thần này sinh ra vật
chất và quyết định toàn bộ quá trình vật chất.
+Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức con người có trước các sự vật,
hiện tượng bên ngoài. Sự tồn tại của các sự vật bên ngoài chỉ là phức hợp của các cảm
giác. Trong cuộc sống, quan niệm cho rằng ý thức hay ý chí con người đóng vai trị
quyết định, bất chấp mọi hoàn cảnh, điều kiện vật chất khách quan là biểu hiện của
quan điểm duy tâm chủ quan.
3. Thuyết có thể biết (Thuyết Khả tri) và thuyết khơng thể biết (Thuyết
Bất khả tri)
Khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, tức trả lời câu hỏi “Con người
có thể nhận thức được thê giới hay không?”, trong lịch sử triết học xuất hiện hai học
thuyết triết học là thuyết khả tri và thuyết bất khả tri.
+Thuyết khả tri bao gồm hầu hất các nhà triết học duy vật và các nhà triết học duy
tâm. Thuyết này khẳng định khả năng nhận thức của con người. Những người theo
thuyết này cho rằng, con người có thể hiểu được bản chất của sự vật. Tuy nhiên, nếu
các nhà triết học duy vật cho rằng nhận thức sự phản ánh thế giới vật chất, nắm bắt
các quy luật, bản chất vật chất của thế giới, thì các nhà triết học duy tâm lại coi nhận
thức thế giới chỉ là sự tự nhận của các tinh thần về chính nó.

+Thuyết bất khả tri là học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người.
Những người theo học thuyết này cho rằng về nguyên tắc, không thể hiểu được bản
chất của đối tượng vì kết quả nhận thức của con ngưươi chỉ là hình thức bên ngồi,
khơng đầy đủ về đối tượng.
III. Vai trị của Triết học
1.

Vai trò của Triết học trong hoạt động nhận thức

Chức năng thế giới quan
Đây là kết quả của cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Với câu hỏi
“Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?”, tuyệt đại đa số các nhà triết
học (cả duy vật và duy tâm) trả lời một cách khẳng định: thừa nhận khả năng nhận thức
được thế giới của con người
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung
quanh, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
Triết học Mác-Lênin bao giờ cũng là hạt nhân của thế giới quan, chi phối các phẩm
chất cụ thể của thế giới quan con người.
Thế giới triết học Mác-Lênin là thế giới quan duy vật biện chứng, là nhân tố định
hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức đúng đắn về thế giới xung quanh.

TIEU LUAN MOI download :


Triết học được ví như một “lăng kính” để con người xem xét, nhận dạng thế giới, xét
đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem xét chính mình.
Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trị tích cực, sáng tạo của con người.
Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ
phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng
như một cộng đồng xã hội nhất định.


Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trị là cơ sở khoa học để đấu tranh với các
loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách
mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng; là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với
các tư tưởng phản cách mạng, phản động.
Thế giới quan duy vật biện chứng cịn giúp con người hình thành quan điểm khoa học
định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả cách thức
hoạt động của mình. Trên một ý nghĩa nhất định, thế giới quan cũng đóng một vai trị
của phương pháp luận. Giữa thế giới quan và phương pháp luận trong triết học Mác –
Lênin có sự thống nhất hữu cơ với nhau.
Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên
tắc chỉ đạo, định hướng cho con người trong quá trình tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và
vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn, và do đó, nó có ý nghĩa quyết
định đối với thành bại trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Phương pháp luận trong triết học Mác-Lênin là phương pháp luận duy vật biện chứng,
trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho
hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Phương pháp luận của Triết học là phương pháp luận chung nhất. Trong Triết học, thế
giới quan và phương pháp luận không tách rời nhau, bất cứ lý luận Triết học nào, khi lý
giải về thế giới quan xung quanh và bản thân con người, đồng thời cũng thể hiện một
phương pháp luận nhất định, chỉ đạo cho việc xây dựng và vận dụng phương pháp luận.
Mỗi hệ thống Triết học không chỉ là một thế giới quan nhất định, mà còn là phương
pháp luận chung nhất trong việc xem xét thế giới.
2. Vai trò của Triết học trong hoạt động thực tiễn
Sự hình thành phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của khoa học cụ
thể, nó là thế giới quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho
các cho khoa học cụ thể trong việc đánh giá thành tựu đã đạt được, cũng như vạch ra
phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể


TIEU LUAN MOI download :


Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đóng vai trị tích cực đối với sự phát triển
của khoa học, ngược lại chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng để làm công cụ biện
hộ cho tôn giáo và cản trở khoa học phát triển.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã làm
cho quan điểm "triết học là khoa học của các khoa học" và phương pháp tư duy siêu
hình khơng cịn phù hợp nữa.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn gắn liền với các khoa học hiện đại, nó đóng vai trị
to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại, nó là thế giới quan và phương pháp
luận thật sự khoa học cho các khoa học cụ thể.
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang đạt được nhiều
thành tựu to lớn làm thay đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống xã hội, tình hình thế giới
đang có nhiều biến động phức tạp thì nắm vững thế giới quan và phương pháp duy vật
biện chứng càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng
không thể thay thế được các khoa học khác. Theo yêu cầu của sự phát triển địi hỏi phải
có sự liên minh chặt chẽ giữa Triết học với các khoa học khác.
Triết học khơng chỉ có vai trị to lớn đối với khoa học cụ thể, mà cịn có vai trị to lớn
đối với rèn luyện năng lực tư duy của con người.
Vai trò của Triết học đối với đời sống xã hội đã được đặt ra và được giải đáp theo tiến
trình lịch sử Triết học.

.

TIEU LUAN MOI download :


KẾT LUẬN

Ngày nay, dù có nhiều quan niệm khác niệm khác nhau về triết học nhưng quan niệm
chung cho rằng, triết học là một hình thức nhận biết đặc thù, là một hình thái ý thức xã
hội đặc biệt. Triết học phản ánh, giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng , quá trình xảy
ra trong thế giới (gồm cả thế giới bên trong và bên ngoài con người; gồm cả giới tự
nhiên, xã hội và tư duy tinh thần) trong đó tính hệ thống chỉnh thể vốn có của nó bằng
tư duy lý luận, với mục đích tìm ra những thuộc tính, quy luật phổ biến nhất chi phối
sự vận động của vạn vật trong thế giới; từ đó xây dựng những yêu cầu nền tảng điều
phối hành vi con người trong thế giới xung quanh.
Như vậy, triết học là hệ thống chính thể liên kết trong mình những tri thức trừu tượng,
khái quát nhất (nguyên lí nền tảng) về thế giới với những nguyên tắc cơ bản của tồn tại
người trong mối quan hệ với thế giới quanh. Điều này không cho phép đồng nhất triết
học với khoa học, đồng thời, phải thấy triết học khác biệt với tơn giáo, đạo đức, chính
trị, pháp luật,… Nhưng triết học lại có mối quan hệ mật thiết với hình thức nhận thức
khoa học và các hình thái ý thức xã hội như tơn giáo, đạo đức, chính trị, pháp luật và
thâm nhập vào những loại hình tư tưởng này với vai trò cơ sở lý luận của chúng.
Triết học Mác-Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy
luật làm cụ nhận thức khoa học, giúp con người phát triển tư duy khoa học, đó là tư
duy ở cấp độ phạm trù, quy luật. Tuy nhiên, triết học Mác – Lênin không phải là một
đơn thuốc vạn năng có thể giải quyết được mọi vấn đề. Để đem lại hiệu quả trong
nhận thức và hành động, cùng với tri thức triết học, con người cần phải có tri thức
khoa học cụ thể và kinh nghiệm hoạt động xã hội.

TIEU LUAN MOI download :


Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn không được xem thường hoặc tuyệt đối hóa
phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương pháp luận triết học sẽ sa vào tình
trạng mị mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động, sáng tạo trong công tác. Ngược
lại, nếu tuyệt đối hóa vai trị của phương pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo
điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng phương pháp luận duy vật biện chứng sẽ

giúp mỗi người tránh được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư
duy siêu hình gây ra.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình triết học Mác-Lênin. Nxb Chính trị quốc qia, Hà Nội, 2006
Giáo trình Triết học Mác-Lênin. Nxb Bộ giáo dục và đào tạo, Hà Nội. 8-2013.
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2009.
Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Triết Học Mác-Lênin, khoa Lý luận chính trị thuộc
trường Đại học Kinh tế TP.HCM phối hợp với Bộ mơn Lý luận chính trị thuộc trường
Đại Học Lâm-Nông TP.HCM biên soạn.
Triết học lý luận và vận dụng. Nxb Chính trị quốc gia-sự thật, Hà Nội, 2013
/> />
TIEU LUAN MOI download :


TIEU LUAN MOI download :



×