Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Một góc nhìn phân biệt nghệ thuật thị giác và thiết kế đồ họa trong bối cảnh hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.31 KB, 10 trang )

Một góc nhìn phân biệt Nghệ thuật thị giác và Thiết kế đồ họa trong
bối cảnh Hiện đại
Từ lâu, những câu hỏi như: “Thế nào là nghệ thuật?”, “Thế nào là nghệ sĩ?”, “Làm sao để phân biệt giữa
nghệ thuật và thiết kế?” đã luôn được đặt ra và dường như vẫn chưa từng có câu trả lời thỏa đáng dành
cho tất cả mọi người. Quả thực, sự khác biệt giữa nghệ thuật và thiết kế là một chủ đề phức tạp, gây
nhiều tranh cãi, kéo theo nhiều tranh luận không hồi kết về ranh giới phân định của hai cơng việc sáng
tạo nói trên. Trong bài viết sau đây, người viết đưa ra góc nhìn riêng về chủ đề này – một chủ đề tuy
không mới nhưng vẫn thiết thực và thú vị – không chỉ cho những người người trong ngành mà còn đối
với tất cả những ai quan tâm đến các lĩnh vực sáng tạo.
Nghệ thuật và thiết kế là gì? Những điểm cơ bản để phân biệt nghệ thuật và thiết kế trong bối cảnh hiện
đại? Đâu là sự khác biệt giữa vai trò nghệ sĩ và vai trò nhà thiết kế?

Giới thiệu các khái niệm
Trước khi xác định khái niệm của nghệ thuật và thiết kế trong bối cảnh hiện đại, chúng ta cùng xem xét
lại nguồn gốc của những định nghĩa liên quan cần thiết.

1. Nghệ thuật
Trong tiếng Anh, Pháp, và Ý, nghệ thuật là “art” hay “arte”. Những từ này có chung gốc từ nguyên La-tinh
là “artem”, một từ có nghĩa là “kỹ thuật”, “kỹ năng thực hành”, hay “kỹ năng thủ công” (craft). “Craft” –
trong tiếng Việt vẫn hiểu là “thủ công” – có nguồn gốc từ “kraft”/”crỉft” với nghĩa là “kỹ năng” hay “sức
mạnh”.

Trong tiếng Việt, tương tự như tiếng Hán, “nghệ thuật” là “nghề”, “tài năng”, “kỹ thuật”, “học vấn”. Theo
giáo dục cơ bản của truyền thống văn hóa Trung Hoa, ta có khái niệm “lục nghệ” hay “sáu mơn nghệ
thuật” trong hệ thống học vấn cao cấp, là: Lễ (lễ nghĩa), Nhạc (âm nhạc), Xạ (bắn cung), Ngự (cưỡi ngựa),
Thư (thư pháp), và Số (toán học). Đối với những người thực hành nghệ thuật, chúng ta vẫn có hai khái
niệm thường dùng là “nghệ sĩ” và “nghệ nhân”; trong đó “nghệ sĩ” thường được hiểu là những người
sáng tác có tư tưởng cá nhân cùng tính sáng tạo cao, cịn “nghệ nhân” là những người có tay nghề thủ
cơng cao. Tác phẩm của nghệ sĩ là các tác phẩm nghệ thuật; còn nghệ nhân tạo ra những đồ vật thủ cơng
mỹ nghệ tinh xảo.


Hình ảnh miêu tả lục nghệ
Tương tự với lục nghệ, văn hóa phương Tây có khái niệm “nghệ thuật khai phóng” (artes liberales) bắt
nguồn từ các phương pháp học tập của Hy Lạp Cổ đại – với “mong muốn đạt được hiểu biết phổ quát” là
thứ mang lại tự do cho con người. Triết gia, nhà tốn học vĩ đại Pythagoras quan niệm rằng, có một trật


tự mang tính tốn học và hình học cho vũ trụ này. Vũ trụ này – cũng như cái đẹp theo Pythagoras – là có
thể hiểu và quy định được bằng những phép tốn. Do vậy, những mơn đồ của ông đã liên hệ bốn môn
nghệ thuật: Thiên văn học, tốn học, hình học, và âm nhạc, với quan điểm của Pythagoras. Những mơn
học đó cùng nhau được gọi là chương trình giáo dục quadrivium. Theo thời gian phát triển, có thêm các
mơn: hùng biện, ngữ pháp, biện chứng (logic). Chúng tạo thành chương trình trivium. Trivium và
quadrivium được gọi chung là bảy mơn nghệ thuật khai phóng.

Triết học và bảy mơn nghệ thuật khai phóng – hình minh họa trong cuốn Hortus deliciarum (Khu vườn
của những hân hoan) của nữ tu và tu viện trưởng Herrad of Landsberg
Một số khái niệm khác cần quan tâm theo triết học Hy Lạp Cổ đại là “techne” và “episteme”. “Techne”
được hiểu là “nghệ thuật và thủ công” (arts và crafts), tức là gắn liền với thực hành, kỹ thuật, kỹ năng,
việc tạo ra một thứ gì đó. Trong khi đó, “episteme” lại gắn liền với hiểu biết về nguyên tắc. Plato thường
hoán đổi hai khái niệm triết học nói trên với nhau, với hàm ý rằng: Chúng đều dùng chỉ kiến thức ở nghĩa
rộng nhất có thể. Về phía Aristotle, ơng phân biệt hai khái niệm một cách rõ ràng: Ông gắn techne với
thực hành và episteme với lý thuyết. Chúng cùng đối lập với “doxa” – thứ được hiểu là “niềm tin” hay
“quan điểm cá nhân”.

Aristotle và Plato trong tranh của Raphael
Trong các diễn ngôn triết học, techne thường được dùng để phân biệt với poiesis – từ dùng để chỉ một
hoạt động của con người nhằm tạo ra một đồ vật chưa từng tồn tại trước đó. Tuy nhiên, trong bài viết
này, chúng ta sẽ không đi sâu vào những khía cạnh triết học mà chỉ tìm hiểu khía cạnh xã hội của các khái
niệm. Như trong Sự phát minh ra Nghệ thuật (The Invention of Art), Larry Shiner cho rằng, techne không
thể được diễn giải một cách đơn giản thành nghệ thuật hay thủ công, bởi nghệ thuật và thủ cơng là
những khái niệm mang tính xã hội, được cấu thành trong những thời điểm lịch sử cụ thể.


2. Thiết kế
Design gắn với động từ “to designate” và bắt nguồn từ “designare” tức là “de-” (bên ngoài, ra bên ngoài)
ghép với “signare” (đánh dấu). Động từ “design” vào cuối thế kỷ 14 có nghĩa là “thực hiện, định hình”, nó
cũng gắn với các nghĩa “lên kế hoạch, trù liệu, sắp xếp”. Động từ “to designate” là chỉ định, bổ nhiệm.
“Thiết” (設) là “sắp đặt, bày, đặt” và “kế” (設) là “mưu kế, kế sách”, vậy “thiết kế” là “sắp đặt kế sách”.
– /Tạo ra vật thể bằng cách sắp xếp 1 cách có kế hoạch, khoa học/

Bối cảnh lịch sử và xã hội của “nghệ thuật”


Trong bài viết này, chúng ta sẽ chỉ tập trung vào lịch sử của phương Tây do – có thể nói là – phương Tây
đã dẫn dắt sự phát triển của nhân loại, từ thời kỳ Phục Hưng cho tới khoảng những năm 1960. Các khái
niệm mà chúng ta sẽ bàn luận sau đây cũng có nguồn gốc từ phương Tây vào khoảng thời gian này.

1. Thời kỳ cổ điển
Tổ chức chuyên nghiệp đầu tiên cho việc sản xuất các tác phẩm nghệ thuật chính là những nghiệp đồn
(guild). Vào thời Trung Cổ tại châu Âu, tồn tại hai loại nghiệp đồn chính là: Nghiệp đồn thương nhân
và Nghiệp đồn thợ thủ cơng. Vào thời điểm này, khơng có sự phân biệt giữa thợ thủ công/nghệ nhân
(artisan) và nghệ sĩ (artist). Công việc của những người ở trong một nghiệp đồn thợ thủ cơng chính là
tạo ra tất cả những đồ vật đẹp đẽ bằng chính đơi bàn tay của mình, cho dù là một bức tranh, một cái
bình hay một bộ quần áo. Người dẫn dắt các nghiệp đoàn là các bậc thầy (master) và kiệt tác
(masterpiece) vốn dĩ chỉ tác phẩm do một người học việc tại các nghiệp đoàn tạo ra, khi anh ta muốn trở
thành bậc thầy, và được các bậc thầy chứng nhận chất lượng.

Thợ may người Anh thời Trung Cổ
Từ thế kỷ 16, 17, xu hướng academia (học viện) nở rộ ở Ý. Về nguồn gốc, khái niệm “academia” là tên
của khu vườn nơi Plato đã dạy học vào thời cổ đại. Ban đầu, academia dùng chỉ những nhóm học giả có
chung niềm hứng thú với việc phục hưng lại những giá trị cổ đại cổ điển, đặc biệt là chủ nghĩa Plato và
văn hóa ngoại giáo. Dần dà, các academia văn học, triết học và mỹ học hình thành, kế đến là các học viện

khoa học, ngôn ngữ, xã hội, quân đội, và nghệ thuật. Các học viện nghệ thuật phân cấp rõ ràng rằng mỹ
thuật (hội họa và điêu khắc) là cao cấp hơn nghệ thuật ứng dụng (tất cả loại nghệ thuật tạo ra các sản
phẩm có cơng năng). Tại các học viện, nghệ sĩ sáng tác và trưng bày tác phẩm mỹ thuật. Tới thế kỷ 18-19,
chủ nghĩa học viện hay chủ nghĩa hàn lâm thậm chí cịn quy định rõ ràng các chủ đề được phép sáng tác
trong hội họa và thứ tự về mức độ quan trọng của chúng từ cao đến thấp như sau: tranh lịch sử, chân
dung vĩ nhân (vẽ người quan trọng), tranh sinh hoạt (vẽ người “không quan trọng”), phong cảnh (thiên
nhiên “sống), và tĩnh vật (thiên nhiên “chết”).

2. Thời kỳ hiện đại
Tới cuối thế kỷ 19, Cách mạng Công nghiệp và các thay đổi về cấu trúc xã hội, kinh tế đã thay đổi ln vai
trị nghệ sĩ cũng như vịng trịn sản xuất nghệ thuật. Tài lực từ sản xuất và thương mại đã tạo ra giới
nouveau riche (những kẻ giàu mới), hình thành giới thượng lưu và trung lưu mới; tầng lớp lao động đấu
tranh giành lấy các quyền lợi đáng có cho mình; hệ thống phân bậc xã hội cũ dần sụp đổ và khoảng cách
giữa các tầng lớp được rút ngắn lại. Các nghệ sĩ và nghệ nhân không cịn làm việc trong các nghiệp đồn
hay tại các học viện hay bị bó buộc theo những quy tắc bên cạnh hệ thống đánh giá ngặt nghèo, cứng
nhắc.


The Great Exhibition – Hội chợ quốc tế đầu tiên trên thế giới, tổ chức vào năm 1851 tại London
Vòng tròn sản xuất nghệ thuật cũ là các nghệ sĩ tạo ra tác phẩm theo đơn đặt hàng và dưới sự bảo trợ
của tầng lớp chóp bu của xã hội – quý tộc và tăng lữ. Khi hiểu điều này, ta thậm chí có thể nhìn nhận rằng
các nghệ sĩ, dù giỏi tới mức độ nào, lúc bấy giờ vẫn mang vai trị là cơng cụ tinh hoa của tầng lớp tinh hoa
thống trị xã hội. Nghệ thuật, do vậy, chắc chắn cũng khơng dân chủ.

Vịng trịn nghệ thuật sản xuất mới là các nghệ sĩ tự sáng tác theo nhu cầu và quan điểm của mình. Sau
khi tác phẩm được hồn thiện, họ mới mang chúng tới cơng chúng thông qua việc trưng bày ở các triển
lãm tư nhân hoặc khơng gian gallery, và chúng có thể được mua sau đó. Vai trị của nghệ sĩ do vậy cũng
thay đổi theo, họ, ngồi được tồn quyền là chính mình, thì cũng là một phần của xã hội – phản ánh xã
hội hoặc góp phần mang lại những thay đổi cần thiết cho xã hội. Nghệ thuật đã bắt đầu trở nên dân chủ.


Một trong những áp-phích quảng cáo đầu tiên trên thế giới – quảng cáo xà phòng Pears
Cách mạng Công nghiệp, cùng với các cuộc chiến tranh, cũng tạo ra một nhu cầu đặc biệt dành cho thiết
kế đồ họa và bước đầu phân định hai vai trò nghệ sĩ – nhà thiết kế. Cách mạng Công nghiệp tạo ra sản
xuất hàng loạt, tức là tăng cao nhu cầu thương mại, đi kèm với đó là nhu cầu quảng cáo. Chiến tranh,
đặc biệt là Thế chiến, tạo ra nhu cầu tuyên truyền. Nhu cầu tuyên truyền và nhu cầu quảng cáo cùng tạo
ra nhu cầu thiết kế đồ họa. Sự phát triển của công nghệ, lúc bấy giờ đặc biệt phải kể đến nhiếp ảnh và in
ấn, cũng giúp công việc sáng tạo được dễ dàng, đa dạng, và mở rộng hơn – đồng nghĩa với việc khiến cả
nghệ thuật lẫn thiết kế cùng phát triển.

Áp-phích kêu gọi tham gia quân đội Anh (1914) vào Thế chiến I, nguồn cảm hứng của áp-phích tuyên
truyền của Mỹ sử dụng hình ảnh Chú Sam (Uncle Sam) để kêu gọi tham gia quân đội Mỹ cho cả hai Thế
chiến I và II
Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người nghệ sĩ dần từ bỏ được vai trò bắt buộc như là một
người làm nghề, và nghề thiết kế dần hình thành. Ban đầu, các nghệ sĩ cùng với các nhà in ấn hẳn nhiên
đảm trách công việc thiết kế, nhưng rồi vai trò nhà thiết kế cũng tách rời khỏi vai trò nghệ sĩ.

3. Phân biệt vai trò nghệ sĩ thị giác và vai trò nhà thiết kế đồ họa trong bối cảnh
Hiện đại


Nhiệm vụ của vai trò nghệ sĩ là kể câu chuyện của riêng mình, khơng được định sẵn bởi bất cứ ai khác,
cho đối tượng khán giả không định sẵn và theo cách khơng định sẵn.

Trong khi đó, nhiệm vụ của nhà thiết kế là kể câu chuyện được định sẵn bởi khách hàng của họ, cho đối
tượng khán giả được định sẵn và theo cách phù hợp với câu chuyện cần kể và đối tượng khán giả hướng
tới.

Có thể so sánh nhà thiết kế với người tìm cách giải bài toán được đưa tới cho họ, và nghệ sĩ thì đi tìm bài
tốn của riêng mình.


Sự phân biệt giữa nghệ thuật và thiết kế chính là cơng năng. Thiết kế phục vụ cơng năng, và nghệ thuật
thì khơng. Theo quan điểm này thì nghệ thuật ứng dụng là thiết kế và không phải nghệ thuật. Mỹ thuật là
nghệ thuật, và cùng với thời gian, sự mở rộng về hình thái, công cụ, và ngôn ngữ sáng tạo khiến mỹ thuật
trở thành nghệ thuật thị giác. Bên cạnh hội họa và điêu khắc, giờ chúng ta có nhiếp ảnh, nghệ thuật sắp
đặt, nghệ thuật video (video art)… và thậm chí cả nghệ thuật trình diễn (performance art – khác với nghệ
thuật sân khấu như kịch, múa, âm nhạc).

Trong khi đó, vai trò thiết kế đồ họa dần trở thành thiết kế truyền thông (communication design)hay rõ
hơn là thiết kế mặt thị giác của truyền thông (visual communication). Truyền thông là “truyền bá thông
tin”, nhà thiết kế truyền thông đảm bảo công năng truyền bá thông tin của sản phẩm thiết kế và các yếu
tố đồ họa là công cụ của anh ta.

Vậy phần giao giữa thiết kế và nghệ thuật ở đâu? Chúng ta sẽ tìm hiểu điều này qua một nghiên cứu
tính huống là trường hợp của hai trào lưu De Stijl và Swiss Style hay International Typographic Style.

Trường hợp De Stijl và Phong cách Thụy Sĩ (Swiss style)

1. De Stijl
Bố cục với mặt phẳng lớn màu đỏ, vàng, đen, xám và xanh lam (Composition with Large Red Plane,
Yellow, Black, Grey and Blue) (1921) – Piet Mondrian
De Stijl thường được gọi là một trào lưu nghệ thuật do mức độ ảnh hưởng đáng kể của nó, nhưng trên
thực tế, nó lại là tên của một nhóm nghệ sĩ cùng chí hướng (collective of artists) – do Theo van Doesburg
và Piet Mondrian cùng thành lập, dẫn dắt. Ban đầu, “De Stijl” là tên của tạp chí nghệ thuật đương đại do
van Doesburg tạo ra, nhằm mục đích tìm kiếm và thâu nạp các nghệ sĩ, kiến trúc sư tiếp nhận một khái
niệm nghệ thuật mới mẻ và được mở rộng, những ý tưởng mang tính khơng tưởng và hướng tới sự hài
hịa siêu hình mang đậm tính tâm linh, tinh thần. Mondrian là người đầu tiên van Doesburg tìm tới,


cũng chính nhờ Mondrian mà nhóm lớn mạnh, và để lại dư âm mãi cho tới tận bây giờ. Tạp chí De Stijl
xuất bản và quảng bá những tư tưởng, quan điểm, và tun ngơn của nhóm nghệ sĩ này, đặc biệt là

những người dẫn dắt nhóm.

Mondrian là một cái tên cực kỳ quen thuộc với bất cứ ai, ngay cả những người chưa biết tới ơng thì vẫn
có khả năng rất cao là họ đã nhìn thấy một vài thiết kế lấy cảm hứng trực tiếp từ tranh của ông, hoặc các
thiết kế thừa kế ít nhiều tính chất thị giác của chúng.

Váy Mondrian – một thiết kế đã trở thành biểu tượng của Yves Saint Laurent

Một thiết kế nội thất lấy cảm hứng từ tranh của Mondrian
Neoplasticism (Tạo hình mới) là phong cách và ý tưởng hội họa do Mondrian phát triển từ năm 1917 và
được thúc đẩy bởi De Stijl. Nó thể hiện tầm nhìn của Mondrian về loại hình nghệ thuật phù hợp với thời
hiện đại. Bài luận “Tạo hình mới trong nghệ thuật hình ảnh” của ơng được xuất bản trong 12 kỳ của tạp
chí De Stijl, trong hai năm 1917-1918.

Nói một cách tóm tắt, Mondrian hướng tới cách tiếp cận nghệ thuật mang tính giản lược, loại bỏ những
yếu tố truyền thống của nghệ thuật như phối cảnh và tính đại diện, và chỉ sử dụng ba màu cơ bản: đỏ,
vàng, lam; các sắc độ đen, trắng, xám, và các đường thẳng/trục ngang và dọc. Ơng hướng tới sự hài hịa
phổ qt được tạo ra bởi sự cân bằng, và sự cân bằng đó là giữa các ‘thế lực’ đối lập được đặt cạnh
nhau: âm và dương, động và tĩnh, tính nam và tính nữ… được thể hiện bằng các yếu tố hình ảnh tối giản
như đã đề cập ở trên. Cái Mondrian hướng tới là trừu tượng tuyệt đối, trừu tượng thuần khiết.
Mondrian đã từng ngưỡng mộ và học hỏi nhiều từ trừu tượng phân tích của Picasso và Braque, nhưng
ơng đã sớm nhận ra rằng, như thế là chưa đủ để đạt tới cái tối hậu mà ơng kiếm tìm: trừu tượng tuyệt
đối, thuần khiết.

Tác phẩm của Pablo Picasso và Georges Braque vào thời kỳ Lập thể Phân tích
Trong lúc đó – người đồng hành và thậm chí đã chịu rất nhiều ảnh hưởng từ Mondrian – van Doesburg,
thì cuối cùng lại bất đồng với ông. Cảm thấy rằng các quy tắc của Neoplasticism là quá cứng nhắc, thậm
chí dẫn đến hạn chế, van Doesburg đã phát triển phong cách riêng của mình và đặt tên là
“Elementarism” (chủ nghĩa Nguyên tố). Vào năm 1924, ơng chính thức giới thiệu phong cách này – dẫn
tới là xích mích với Mondrian. Mondrian đã rời De Stijl chỉ vài tháng sau đó.



Bố cục đối ngược trong sự bất hòa số 16 (Counter – Composition in dissonance 16) (1925) – Theo van
Doesburg
Điểm khác biệt lớn nhất giữa phong cách Elementarism và phong cách của Mondrian là nằm ở việc cho
phép sử dụng các đường chéo – mà theo như Theo van Doesburg – là “một trạng thái của sự phát triển
liên tục”. Ngoài ra, mặc dù Mondrian cũng hướng tới việc áp dụng các quy tắc tạo hình của mình cho các
hình thức nghệ thuật và thiết kế khác, sự quan tâm của van Doesburg với Gesamtkunstwerk (total
artwork – tác phẩm “nghệ thuật tổng lực”) là lớn hơn. Do vậy, ông làm việc, một mình và cùng các đồng
nghiệp khác, khá nhiều trong lĩnh vực kiến trúc và nội thất.

Café Aubette, Strasbourg, Pháp – thiết kế của van Doesburg, Jean Arp, và Sophie Taebeur
Sau cuộc chia tay giữa van Doesburg và Mondrian vào năm 1924, năm 1928 tạp chí De Stijl cũng đã xuất
bản số cuối cùng. Theo van Doesburg mong muốn tạo ra một nhóm nghệ sĩ mới với sự tiếp cận nghệ
thuật tương tự. Năm 1930, ông đã đưa ra bản tun ngơn quan trọng của mình là tun ngơn về Nghệ
thuật Cụ thể (Concrete Art). Vẫn hướng tới nghệ thuật trừu tượng thuần khiết bên cạnh những quy tắc
sáng tác sẵn có, nhưng Theo van Doesburg khơng muốn sử dụng khái niệm “trừu tượng” (abstract) vì
ơng cho rằng: Khi áp dụng vào nghệ thuật, nó sẽ mang nét nghĩa tiêu cực. Thay vào đó, ơng chọn sử
dụng khái niệm vốn có nghĩa trái ngược với “trừu tượng” là “cụ thể” (concrete), nghĩ là nó tích cực hơn
và hợp lý hơn (và cũng có thể là để thách thức Mondrian). Concrete Art (Art Concret) là tên của tờ tạp
chí mới cũng như tên của nhóm nghệ sĩ mới do Theo van Doesburg thành lập tại Paris vào năm 1930.
Đáng tiếc là, ông đã sớm qua đời, chỉ một năm sau đó …

2. Swiss Style
Swiss Style (Phong cách Thụy Sĩ) hay International Typographic Style (Phong cách Ký tự pháp Quốc tế) là
tên của một trào lưu thiết kế hình thành ở Thụy Sĩ và Đức vào những năm 1950. Trào lưu này phủ khắp
thế giới một cách mạnh mẽ trong vòng hơn hai thập kỷ, và những ảnh hưởng của nó cịn kéo dài cho tới
nay.

Về mặt tính chất thị giác của tác phẩm và tư tưởng nằm sau đó, International Typographic Style thừa kế

tinh thần cũng như học hỏi trực tiếp từ De Stijl, Bauhaus và The New Typography (Ký tự pháp mới) của
Jan Tschichold. Họ có chung một mantra với Bauhaus, đó là “hình thức đi theo cơng năng”. Những người
tiên phong của trào lưu này, phải kể tới Ernst Keller, Théo Ballmer, và Max Bill.

Áp-phích một triển lãm tại Kunstgewerbemuseum Zürich (Bảo tàng Nghệ thuật và Thủ công Zurich) của
Théo Ballmer


Từ năm 1918, khi Keller bắt đầu dạy học tại Kunstgewerbeschule Zurich (Trường Nghệ thuật Ứng dụng
Zurich), ông đã đưa ra quan điểm rằng: Phương án cho một vấn đề thiết kế cần phải nảy sinh từ nội dung
của nó thay vì tạo ra một phong cách cụ thể. Các giải pháp thiết kế thực tế của ông quả thực rất đa dạng.
Bên cạnh khóa dạy về thiết kế và Ký tự pháp (typography) này của Keller, các dấu vết ban đầu của Swiss
Style cũng có thể được tìm thấy trong chương trình dạy học cấp tiến của Schule für Gestaltung Basel
(Trường Thiết Kế Basel). Chương trình này đặt cơ sở trên các bài tập về hình học cơ bản liên quan tới
khối lập phương và đường thẳng có từ thế kỷ 19, giúp hình thành khóa Vorkurs (khóa học nền tảng) của
trường vào năm 1908 và tiếp tục được sử dụng trong chương trình dạy những năm 1950. Với các mốc
thời gian như vậy, ta có thể thấy rằng việc phát triển giáo dục đào tạo tại trường Basel độc lập với
Bauhaus và De Stijl.

Áp-phích một triển lãm tại Kunstgewerbemuseum Zürich của Max Bill
Trong khi đó, Théo Ballmer đã từng theo học Ernst Keller, sau đó học một thời gian ngắn cuối những năm
1920 tại trường Bauhaus tại Dessau với sự hướng dẫn của Paul Klee, Walter Gropius, và Hannes Meyer.
Max Bill cũng từng học tại Bauhaus với Gropius, Meyer, László Moholy-Nagy, Josef Albers, và Wassily
Kandinsky từ năm 1927 tới năm 1929. Ballmer và Keller đều chịu sự ảnh hưởng rõ ràng từ các quy tắc
tạo hình của De Stijl, sau khi theo học tại Đức, cả hai đều trở về quê hương của mình là Thụy Sĩ để làm
việc và giảng dạy. Từ giữa những năm 1940, họ cùng nhau chính thức khởi xướng International
Typographic Style và khiến nó phát triển mạnh mẽ.

Vượt lên cả những thành tựu về phong cách và tư tưởng trong thực hành thiết kế, International
Typographic Style là cực kỳ quan trọng trong lịch sử thiết kế đồ họa bởi vì đó là trào lưu đầu tiên mà nhà

thiết kế hoạch định vai trò của mình và tách biệt nó hồn tồn khỏi vai trò nghệ sĩ.

3. So sánh De Stijl và Swiss Style
a) Tun ngơn của Hội họa Cụ thể:

“Chúng tơi nói:

Nghệ thuật là phổ quát
Một tác phẩm nghệ thuật phải được hình thành và định hình trọn vẹn bởi tâm trí trước khi được thực
hiện. Nó sẽ khơng nhận được bất cứ dữ liệu hình thức nào của tự nhiên, nhục dục, hay tình cảm. Chúng
tơi muốn loại bỏ tính thơ trữ tình, kịch tích, tính biểu tượng, và mọi điều tương tự.


Bức tranh phải được xây dựng bởi những yếu tố đơn thuần là tạo hình, cụ thể là các bề mặt và màu sắc.
Một yếu tố hình ảnh khơng có bất cứ ý nghĩa nào ngồi “chính nó”; do đó, một bức tranh khơng có bất
cứ ý nghĩa nào ngồi “chính nó”.
Việc xây dựng một bức tranh cũng như từng yếu tố của nó phải đơn giản và có thể trực quan kiểm sốt
được.
Kỹ thuật vẽ phải mang tính cơ học, tức là chính xác, phản – ấn tượng.
Nỗ lực hướng tới sự rõ ràng tuyệt đối là bắt buộc. ”
b) Các nguyên tắc của Phong cách Thụy Sĩ:

“Thiết kế phẳng” (Flat design) hẳn kế thừa tinh thần của De Stijl và Swiss Style
Thiết kế phải sạch sẽ, gọn gàng, dễ đọc, khách quan
Tập trung vào trật tự và sự rõ ràng.
Tổ chức các yếu tố thiết kế một cách bất đối xứng và hài hòa dựa trên hệ thống lưới toán học.
Nhiếp ảnh (thay cho tranh minh họa) được trọng dụng do tính khách quan.
Loại bỏ hồn tồn tính biểu hiện cá nhân và các phương pháp thể hiện kỳ quặc.
Nhà thiết kế xác định rõ vai trò của mình “khơng phải như một nghệ sĩ mà như một ống dẫn khách quan
để truyền thông tin giữa các thành phần của xã hội”, và rằng “thiết kế là một hoạt động có ý nghĩa và

quan trọng về mặt xã hội”.
c) So sánh
Dù là Mondrian hay Theo van Doesburg, Neoplasticism hay Elementarism, hay Concrete Art, thì những
nghệ sĩ này và phương pháp tiếp cận nghệ thuật của họ đều đã hướng tới nghệ thuật trừu tượng. Tác
phẩm của họ không mang ý nghĩa gì khác ngồi chính nó, hồn tồn khơng biểu tượng cho bất cứ điều
gì. Và, như thế, có thể nói tư tưởng của họ là phản đề của thiết kế, phản đề của Swiss Style, bởi thiết kế
ln ln có cơng năng phản ánh nội dung, truyền tải đi một thơng điệp, mang tính biểu tượng cao.

Tuy nhiên, hai trào lưu trái ngược về động cơ và vai trị này lại có chung nhiều quy tắc thể hiện. Quả thực
là những người tiên phong của Swiss Style đã chủ động áp dụng các quy tắc thị giác của De Stijl, những
quy tắc đó phù hợp với tư tưởng sáng tạo và vai trị cơng việc họ đặt ra cho mình. Quy tắc thể hiện của
De Stijl bắt nguồn từ mục đích hướng tới trừu tượng của nó, nhưng lại hoàn toàn áp dụng được lên thiết
kế – thứ có mục đích ngược lại. De Stijl sử dụng các yếu tố tạo hình cơ bản để loại bỏ mọi tính chất biểu
tượng, đạt đến trạng thái “khơng là gì ngồi chính nó” để đạt được trừu tượng thuần khiết. Cịn Swiss
Style sử dụng các yếu tố tạo hình cơ bản để đạt được sự khách quan tuyệt đối nhằm đảm bảo công năng
truyền thông tin của sản phẩm thiết kế. Từ khóa ở đây là sự “hài hịa” – tính chất gắn liền với cảm giác về


cái “đẹp” của con người. Và, cuối cùng thì, nghệ thuật và thiết kế đều hướng tới thẩm mỹ, hướng tới cái
đẹp?

Đôi lời kết luận
Bản chất của khái niệm “nghệ thuật” vốn dĩ chỉ mọi kiến thức, nhận thức, và kỹ năng mà con người có
thể học được để đạt đến tự do. Ý nghĩa xã hội và lịch sử của nghệ thuật sinh ra từ nhu cầu sản xuất các
tạo vật có tính thẩm mỹ cao, rồi sau đó chính là nhu cầu được tồn quyền thể hiện và khám phá chính
bản thân mình.

Thực tế, nghệ thuật (cổ điển) đã vận hành theo cách là nghệ thuật được tạo ra theo cho một nhóm
người rất nhỏ nằm ở đỉnh xã hội. Nghệ sĩ khi đó là cơng cụ, thiết kế là một phần của quá trình sản xuất
nghệ thuật.


Khi xã hội loài người phát triển mạnh mẽ nhờ sức mạnh của công nghệ, cấu trúc xã hội thay đổi, kiến
thức được dân chủ hóa, nghệ thuật cũng được dân chủ hóa, con người lại có được quyền để tìm đến tự
do. Mọi người đều có trở thành nghệ sĩ.

Đồng thời, vai trị thiết kế hình thành rõ rệt và tách biệt với vai trò nghệ sĩ. Sự phân biệt giữa nghệ thuật
và thiết kế là công năng, và một trong những điểm chung lớn nhất giữa nghệ thuật và thiết kế là hướng
tới thẩm mỹ. Phân biệt được hai vai trò này giúp việc thực hành lẫn tiếp nhận tác phẩm sáng tạo được dễ
dàng hơn.

Bài viết: Lê Hương Mi



×