Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Pháp luật đại cươngHoàng Khánh Chi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.42 KB, 7 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ DU LỊCH VÀ LỮ HÀNH

~~~~~~*~~~~~~

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI

PHÁP LUẬT VỚI ĐẠO ĐỨC

Sinh viên thực hiện
Lớp
Mã sinh viên
Giáo viên hướng dẫn

:
:
:
:

Hồng Khánh Chi
DL26.02
2621150427
Nguyễn Bích Huệ

HÀ NỘI– 2022

1



LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta biết rằng xã hội loài người cùng với sự phát triển của nó đã trải qua 5
hình thái kinh tế - xã hội chính: cơng xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến,
tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có những
đặc thù riêng, phù hợp với từng giai đoạn phát tri ển c ủa xã hội lồi người.
Song,dù là hình thái kinh tế - xã hội nào đi chăng nữa thì vai trị của pháp luật vẫn
ln được đề cao. Bởi pháp luật chính là cơng cụ đ ể quản lí xã hội của giai cấp
cầm quyền. Pháp luật cịn là phương tiện khơng thể thiếu đảm bảo cho sự tồn
tại,vận hành bình thường của xã hội nói chung cũng như từng lĩnh vực (kinh
tế,chính trị,văn hóa,giáo dục,đạo đức…) nói riêng. Trong đó, pháp luật có vai trị
đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành và phát triển của ý thức đạo đức.
Pháp luật và đạo đức đều là những bộ phận của hình thái ý thức xã hội. Giữa
chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, thường xuyên tác động, ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau mặc dù bản thân chúng có những đặc thù riêng biệt.
Để làm rõ hơn về khía cạnh này,chúng ta phải đi vào phân tích mối liên hệ mật
thiết giữa pháp luật và đạo đức trong sự hình thành và phát triển xã hội nay, đặc
biệt là trong giai đoạn đổi mới của đất nước ta.

2


MỤC LỤC

3


I.

KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT, ĐẠO ĐỨC VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA CHÚNG

1. Khái niệm:
1.1 Pháp luật là gì ?
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã
hội do Nhà nước ban hành và bảo vệ, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và
được thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Mỗi hình thái kinh
tế - xã hội đều có một kiểu Nhà nước và một kiểu pháp luật tương ứng. Lịch sử
xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái xã h ội khác nhau,và có các kiểu pháp
luật chủ nơ, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Tuy xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước cũng chưa hề biết
đến pháp luật là gì, nhưng cũng đã có một trật tự nhất định cho cuộc sống cộng
đồng; trật tự xã hội đó hình thành trên các cơ sở chuẩn mực xã hội như tập
qn, tín điều tơn giáo, đạo đức… cũng mang tính quyền lực, nhưng theo Mác
thì đó chỉ là quyền lực xã hội chứ khơng phải là pháp luật vì nó nhằm phục vụ
cho cả cộng đồng. Pháp luật hoàn toàn khơng phải là sản phẩm thuần túy của lý
tính hay bản tính tự nhiên phi giai cấp c ủa con người như học thuyết pháp luật
tự nhiên quan niệm. Theo Mác – Ph.Ăngghen phân tích thì pháp luật chỉ phát
sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp, có Nhà nước; bản chất của
pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng
mang tính xã hội, bởi vì ở mức đ ộ nhất định, nó phải thể hiện và bảo đảm
những yêu cầu chung của xã hội v ề văn hóa, phúc lợi, mơi trường sống… Về
mặt này thì pháp luật xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính giai cấp và
tính xã hội.
Pháp luật cịn là một bộ phận quan trọng của cấu trúc thượng tầng xã hội. Nó
do cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Nếu như pháp luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của
xã hội, nhất là các quy luật kinh tế thì pháp luật sẽ có tác động tích cực đối với
phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển đó.
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị, được thể hiện thành luật lệ. Như
vậy, có nghĩa pháp luật "là biện pháp chính trị". Điều này được C. Mác và Ph.
Ăng-ghen khái quát khi nói về pháp luật tư sản rằng, pháp quy ền của các ông

chỉ là lý trí của giai cấp tư sản đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung
trong đó là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp quyết định. Pháp
luật đã trở thành hình thức thể hiện tập trung, trực tiếp chính trị của giai cấp
cầm quyền, là một công cụ sắc bén thể hiện quyền lực của Nhà nước thực hiện
những yêu cầu, mục đích, nội dung chính trị của nó. Do đó, Nhà nước nào, pháp
4


luật ấy. Những thuộc tính cơ bản của pháp luật là tính quy phạm, tính cưỡng
chế, tính khách quan, tính Nhà nước, tính hệ thống và tương đối ổn định.
I.2 Đạo đức là gì?
Đây là một trong những câu hỏi đã làm bận lòng biết bao nhà ngiên cứu trên
thế giới ở mọi thời đại. Hàng ngàn, hàng ngàn ý kiến, định nghĩa đã được nếu ra
xoay quanh chủ đề này. Và rồi hàng ngàn, hàng ngàn ý kiến, định nghĩa tiếp
theo về chủ đề này cũng đã và đang được nêu ra trong những năm tiếp theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơng đưa ra định nghĩa trực tiếp về đạo đức mà
sử dụng cách đối lập giữa các sự việc, hiện tượng để nêu khái niệm đạo đức:
“Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại
mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với
đồng bào”(1)... Người cũng lấy sự thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ của
công dân để định nghĩa đạo đức công dân: “Tuân theo pháp luật nhà nước, tuân
theo kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng
số..., hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ
quốc”(2).
Ở đây chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất rằng: Đạo đức là hệ thống
những chuẩn mực xã hội, những tiêu chuẩn, nguyên tắc nhằm điều chỉnh hành
vi đối xử giữa con người với con người, giữa cá nhân với gia đình, tập thể, với
xã hội… Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức không chỉ là các giá trị trong quan hệ giữa
người và người, giữa con người với xã hội, mà còn là tính tự trọng, sự tự ý thức

về danh dự, nhân phẩm mỗi con người.
Như vậy, đạo đức là cái tốt ở bên trong nhưng được đánh giá bằng biểu hiện
ở bên ngoài. Chúng ta khẳng định được là đạo đức khơng phải là hành vi hay
lời nói bên ngồi. Đạo đức chỉ chi phối hành vi và lời nói bên ngồi ấy. Điều đó
chứng tỏ rằng đạo đức chính là cái gốc của những hành vi, lời nói tốt đẹp bên
ngồi.
Ngồi ra đạo đức cịn mang tính giai cấp. Đạo đức chiếm vị trí chi phối, giữ
địa vị thống trị đạo đức xã hội là đạo đức của giai cấp cầm quyền.
2. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức:

5


Theo quan điểm của C. Mác và Ph.Ăng-ghen, việc nghiên cứu đạo đức nếu
chỉ đơn thuần xuất phát từ các mối quan hệ kinh tế thì sẽ khơng thể làm sáng tỏ
bản chất và đặc trưng của đạo đức, mà cịn cần phải nghiên c ứu nó trong sự tác
động qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác, như chính tr ị, pháp luật, kinh
tế, khoa học, văn hố nghệ thuật... Với tư cách một hình thái ý thức xã hội, đạo
đức không phải là kết quả do tác động của một yếu tố riêng biệt, duy nhất nào.
Tính phức tạp, thống nhất và biện chứng trong sự phát triển của nó ln gắn
liền với nhiều tác động lớn, trong đó quan hệ giữa đạo đức và pháp luật là đáng
chú ý hơn cả.
Bất kỳ một giai cấp nào, một nhà nước của giai cấp cầm quyền nào cũng đều
có ý thức trong việc sử dụng hai hình thái ý thức này phục vụ cho l ợi ích của
mình. Thơng thường, pháp luật, đạo đức là của một giai cấp cụ thể nào đó trong
một hình thái xã hội cụ thể nào đó. Chúng là các hệ thống những nguyên tắc,
quy tắc, quy phạm chung tham gia quy định, điều chỉnh các hành vi và hoạt
động xã hội của con người, nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế, lợi ích chính tr ị của
giai cấp thống trị. Pháp luật có vai trị bảo vệ, duy trì và củng cố một kiểu đạo
đạo nhất định; ngược lại, đạo đức cũng có tác dụng củng cố, bảo vệ hệ thống

pháp luật nhất định. Đấy chính là nghệ thuật của quyền lực chính trị.
Pháp luật phải dựa trên đạo đức, là chuẩn của đạo đức, pháp luật và đạo đức
gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau.
Đạo đức là để hành động, hành động thì phải có chuẩn đích rõ ràng, phải có
kỷ luật thúc đẩy. Cho nên, nếu đạo đức là gốc của pháp lý, thì pháp lý là chuẩn
của đạo đức. Pháp luật và đạo đức đều là những chuẩn mực giá trị định hướng
cho hành động của con người. Đạo đức là cái nền thì pháp luật đảm bảo cho
chuẩn mực đạo đức được thực hiện và bảo vệ nếu bị vi phạm. Chuẩn mực cao
nhất của đạo đức phong kiến là tôn quân (vua) tuyệt đối thì vua có quy ền tuyệt
đối, kể cả quyền đứng trên pháp luật và giết vua là tội nặng nhất trong pháp luật
phong kiến. Còn trong xã hội ngày nay nếu vi phạm pháp luật, sẽ bị chính tịa
án lương tâm và tòa án pháp quyền xử lý. Bản chất của sự kết hợp pháp luật và
đạo đức trong quản lý xã hội của nhà nước chính là phát huy thế mạnh và khắc
phục hạn chế của hai công cụ pháp luật và đạo đức. Ở phương Tây có câu thành
ngữ: “Cuộc đi săn không đáng sợ bằng lúc chia phần” , cho thấy phương Tây
đề cao pháp luật hơn đạo đức, kết quả là xã hội nhiều luật nhưng đạo đức thì ít
đến tối thiểu, ngay cả hơn nhân cũng là kết quả của những tính tốn về lợi ích.
6


Điều đó được thể hiện qua các vụ ly lị, chia tay, họ thường đấu tranh, kiện tụng,
nhờ luật sư can thiệp để có được phần tài sản “bồi thường” sao cho lớn nhất.
Cịn ở phương Đơng, đạo đức lại là yếu tố được đ ề cao hơn, điển hình là trong
trường phái Nho gia (Khổng – Mạnh) hay trong các bài giảng đạo của Phật
giáo.
Vai trò của pháp luật đối với đạo đức, trước hết là đảm bảo thực hiện đạo
đức:“Để thực hiện chữ Liêm, trước hết phải có tuyên truyền và kiểm soát, giáo
dục và pháp luật từ trên xuống, từ dưới lên trên”. Nếu đạo đức bị xâm hại thì
pháp luật cũng bị vi phạm: “Do bất liêm mà đi đến tội ác, trộm cắp”, khi đó
pháp luật thể hiện vai trị khơng thể thay thế trong việc đưa xã hội trở lại ổn

định, đồng thời khôi phục, bảo vệ đạo đức: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị
những kẻ bất liêm”(3).
II.

ĐẶC ĐIỂM VÀ TÍNH CHẤT CỦA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT:
1. Sự giống nhau của pháp luật và đạo đức :

Như đã trình bày ở trên, pháp luật và đạo có sự thống nhất với nhau ở mục
tiêu của nó là điều chỉnh hành vi của con người để bảo đảm hoạt động của xã
hội. Một người vi phạm đạo đức thường là vi phạm pháp luật và ngược l ại vi
phạm pháp luật cũng chính là vi phạm đạo đức. Đạo đức và pháp luật khơng
phải tự nhiên mà có, bỗng dưng mà xuất hiện. Để con người có được ý thức
đạo đức và ý thức pháp luật đều là kết quả giáo dục và tiếp thu lâu dài. Giáo dục
cho con người có đạo đức cũng là giáo dục cho con người biết tôn tr ọng pháp
luật, kỷ cương phép nước. Giáo dục pháp luật cho con người cũng là đ ể bảo vệ
giá trị đạo đức, nhân văn, truyền thống và nâng cao nhận thức con người. Tuy
nhiên đạo đức và pháp luật có những đặc điểm và tính chất khác nhau trong q
trình điều chỉnh hành vi con người. Điều đó sẽ được nêu ở phần dưới đây.
2.

Sự khác biệt giữa đạo đức và pháp luật :

7



×