Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

(SKKN 2022) một số biện pháp hướng dẫn học sinh đọc hiểu thơ hai cư trong chương trình ngữ văn lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.52 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Mặc dù là nước vinh dự có tiểu thuyết sớm nhất thế giới (truyện Genji thế
kỉ XI), song nhìn vào lịch sử văn học Nhật Bản, thơ vẫn chiếm vị trí áp đảo cả
về số lượng và chất lượng nghệ thuật. Hai-cư- loài hoa đậm hương sắc nhất của
vườn hoa thơ ca xứ sở Phù Tang, từ giữa thế kỉ XX đã vượt ra biên giới đất nước
và trở thành tài sản chung cho nhân loại. Hình thức thơ hai-cư tuy ko cầu kì, trau
chuốt nhưng lại hàm chứa những nội dung uyên áo, những thiền ý sâu xa mà hết
sức gần gũi, có ý nghĩa với đời sống hiện tại. Vừa là quốc hồn, quốc túy của
Nhật Bản, vừa là thể thơ mang tính quốc tế, hai-cư đã vượt qua rào cản về ngơn
ngữ, văn hóa và chạm đến vỉa tầng sâu kín nhất trong hồn người.
Trong chương trình Ngữ văn 10 phổ thông hiện nay, cùng với sử thi Hi
Lạp, sử thi Ấn Độ, thơ Đường, tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa, thơ hai-cư Nhật
Bản cũng được lựa chọn để giảng dạy cho học sinh. Mặc dù chỉ chiếm một tỉ lệ
khiêm nhường (2 tiết cho chương trình Ngữ văn 10 nâng cao, 1 tiết đọc thêm
cho chương trình Ngữ văn 10 cơ bản) nhưng thơ hai-cư luôn được xem là mới
và khó so với các mảng văn học nước ngồi khác trong chương trình phổ thơng,
khơng chỉ đối với học sinh mà ngay cả đối với giáo viên. Thực tế giảng dạy cho
thấy, đa số các giáo viên, dù đã rất cố gắng tìm hiểu và đổi mới phương pháp
giảng dạy nhưng vẫn có cảm giác chưa chạm được vào hồn cốt của thơ hai-cư,
vẫn chưa lột tả hết được cái hay, cái đẹp, những tầng nghĩa sâu xa của những bài
thơ dù ngắn nhỏ nhưng chứa đựng “ba nghìn thế giới” này. Để tiếp cận, giảng
dạy tốt phần nội dung này địi hỏi bản thân người dạy phải có sự đầu tư lớn.
Trong khi đó, hiện nay những tài liệu (bằng tiếng Việt) liên quan đến thơ hai-cư
vẫn còn rất hạn chế.
Đó là những lí do thúc đẩy chúng tôi mạnh dạn chia sẻ với đồng nghiệp
một số biện pháp hướng dẫn học sinh đọc hiểu thơ hai-cư trong chương trình
Ngữ văn lớp 10.
1.2. Mục đích của đề tài
Viết sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi mong muốn đưa ra được một
số biện pháp giúp học sinh đọc hiểu tốt hơn một số bài thơ hai-cư trong chương


trình Ngữ văn 10, đồng thời có kĩ năng cảm thụ tốt các bài thơ hai-cư ngồi
chương trình sách giáo khoa.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là những bài thơ
hai-cư trong chương trình Ngữ văn 10 (gồm cả sách giáo khoa cơ bản và sách
nâng cao). Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tơi có mở rộng một số bài haicư ngồi chương trình để làm rõ thêm cho luận điểm cần bàn luận.
1


- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tổng thể thơ hai-cư là một việc làm đòi hỏi
nhiều thời gian và công sức. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung
đưa ra một số biện pháp hướng dẫn học sinh đọc hiểu thơ hai-cư trong chương
trình Ngữ văn lớp 10, từ đó giúp các em có kĩ năng đọc mở rộng những bài thơ
hai-cư ngồi chương trình.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Sáng kiến được thực hiện dựa trên các phương pháp nghiên cứu chính sau
đây:
- Thu thập thơng tin, thống kê
- Phân tích, tổng hợp
- Đối chiếu, so sánh
1.5. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn hướng đến những đóng góp cụ
thể như sau:
- Về lí luận: góp phần làm phong phú lí luận dạy học bộ môn, đặc biệt là về các
biện pháp hướng dẫn học sinh đọc hiểu thơ hai- cư ở trường THPT.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài được chúng tôi vận dụng vào thực tiễn
dạy học ở trường THPT Chuyên Lam Sơn.

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2.1.1. Khái niệm đọc hiểu
Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và
chữ viết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và sử
dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe. Hiểu là
phát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ý
nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu cịn là sự bao quát hết nội dung và có thể vận
dụng vào đời sống.
Đọc, hiểu được chia thành các cấp độ sau: Đọc tái hiện, đọc giải thích,
đọc sáng tạo, đọc đánh giá, đọc nghiên cứu, đọc suy ngẫm và liên tưởng. Các
phương pháp đọc hiểu văn bản bao gồm: Đọc lướt, đọc tập trung, đọc hồi cố,
đọc nhấn mạnh, đọc diễn cảm.

2


Điều kiện đầu tiên để có thể tiến hành đọc hiểu là văn bản, tài liệu, sách
công cụ, tri thức. Ngồi ra cịn phụ thuộc vào ý thức của người đọc. Người đọc
là người tiếp nhận văn bản. Khơng có người đọc, văn bản chỉ cịn tồn tại ở khía
cạnh vật thể. Bởi vậy, người đọc cần có ý thức rõ ràng là đọc thực dụng hay đọc
thưởng thức.
2.1.2. Việc đọc hiểu tác phẩm văn học ở trường THPT
Đọc hiểu là khái niệm bao trùm các nội dung quan trọng trong q trình
dạy văn ở trường THPT. Nó là một khái niệm khoa học chỉ mức độ cao nhất của
hoạt động học. Việc đọc hiểu tác phẩm văn học không chỉ đơn giản là vấn đề
giải mã ngôn ngữ mà cịn là đọc “tồn tâm, tồn ý, tồn hồn”, đọc bằng tất cả
con người bên trong mình. Xét về góc độ ấy, vấn đề đọc hiểu tác phẩm văn học
đối với học sinh bao giờ cũng mới mẻ và đầy tính khám phá, là khâu đột phá
trong phương pháp dạy văn hiện nay ở trường THPT.
Những bài đọc hiểu văn bản văn học trong chương trình THPT thể hiện
rất rõ mối quan hệ hai chiều giữa giáo viên và học sinh. Nhưng thực tế, một số

giờ học đọc hiểu tác phẩm hiện nay ở trường THPT thực chất là do giáo viên
đọc hộ, hiểu hộ học sinh. Học sinh là người tiếp nhận thông tin, người đơn thuần
ghi nhớ. Đọc tác phẩm trong chương trình thường tuân thủ theo quy tắc định
hướng (định hướng bằng cách cảm thụ của giáo viên, bằng những tài liệu có sẵn,
theo các mục đích giáo dục cụ thể của bậc học, đặc trưng môn học,…).
2.2. Thực trạng giảng dạy thơ hai-cư ở trường THPT hiện nay
Hai-cư là một thể thơ độc đáo, có giá trị nội dung và nghệ thuật cao, là
thành quả tiêu biểu cho thơ ca Nhật Bản, thể hiện những đặc trưng triết lí và
nghệ thuật phương Đơng. Tuy nhiên, việc lĩnh hội những tầng nghĩa sâu xa của
thể loại nghệ thuật "ẩn tàng trong cái vẻ không nghệ thuật" này ln là điều khó
khăn đối với cả người dạy và người học.
Hiện nay, thực trạng dạy, học thơ hai-cư trong nhà trường THPT còn một
số bất cập sau đây:
2.2.1. Về văn bản thơ
Trong chương trình sách giáo khoa hiện nay, thơ hai-cư được đưa vào cả
hai bộ sách: Bộ sách cơ bản (SCB: bài Thơ hai-cư của Ba-sơ do Đồn Lê Giang
soạn đưa ra 8 bài thơ hai-cư của Ba-sô. Bộ sách nâng cao (SNC): bài Thơ haicư do Lưu Đức Trung soạn, đưa ra 6 bài hai- cư, trong đó có 3 bài của Ba-sơ, ba
bài của Bu-sơn. Các bài trong SCB đều được dịch từ tiếng Nhật cổ qua sự chú
giải của các học giả Nhật, có tham chiếu với các bản đã được dịch ra tiếng Việt
để tránh những chỗ sai lầm và non yếu của các bản dịch ấy. Các bài của SNC
đều được dịch từ tiếng Anh hoặc tiếng Hoa, không phải từ tiếng Nhật nên rất
3


khó đảm bảo chính xác về cách hiểu, cách dịch. Thơ hai-cư vốn rất kiệm lời,
mỗi bài chỉ có mấy từ, âm điệu rất đặc biệt, cho nên việc dịch từ ngôn ngữ trung
gian không phải nguyên tác rất dễ sai lệch với nguyên nghĩa. Đa số giáo viên
phổ thông không biết tiếng Nhật cổ nên không thể tiếp cận trực tiếp với nguyên
bản, nhằm thẩm thấu tốt hơn nội dung, ý nghĩa của bài thơ. Dịch là phản, dịch là
diệt, rào cản ngôn ngữ khiến cả giáo viên và học sinh càng thêm phần khó khăn

khi tiếp cận tác phẩm văn học nước ngồi nói chung, thơ hai-cư nói riêng.

2.2.2. Về phía giáo viên
Thơ hai-cư là thể thơ cơ đúc, khó hiểu, thậm chí khá xa lạ với truyền
thống thưởng thức thơ ca của người Việt. Muốn hiểu thơ hai-cư, khơng chỉ cần
có khả năng cảm thụ thơ ca mà trước hết phải có kiến thức nền về văn hóa, văn
học Nhật Bản, phải có hiểu biết nhất định về Thiền tơng và mỹ học Thiền. Trong
khi đó nhiều giáo viên chưa từng được học văn học Nhật Bản ở đại học, nhiều
người khơng tìm được các giáo trình, sách nghiên cứu về văn học Nhật Bản,
nhất là ở vùng sâu vùng xa. Cho nên người dạy đã hiểu và bình giảng thơ hai- cư
bằng những kiến thức nhiều khi khơng hồn tồn chính xác.
2.2.3. Về phía học sinh
Các em khó cảm nhận được cái hay cái đẹp của những bài thơ hai-cư, bởi
khoảng cách không gian, thời gian, cảm thức thức thẩm mĩ, cách tư duy. Học
sinh quen với nhịp sống nhanh, hiện đại, thiên về tư duy duy lí, cụ thể, rõ ràng.
Trong khi đó, thơ hai-cư lại thiên về sự hàm súc, mơ hồ, trực cảm. Học sinh cảm
thấy lạ lẫm đối với thể thơ này cả về hình thức lẫn cảm thức thẩm mĩ. Từ chỗ
khó tiếp thu, cảm nhận, học sinh dễ nản chí, bỏ cuộc khi học mảng thơ này.
2.2.4. Về cách thi cử
Việc dạy và học văn hiện nay khá thực dụng, giáo dục khơng cốt ở chỗ
phát triển trí tuệ, nhân cách con người mà chỉ nhằm phục vụ cho các kì thi. Học
sinh học văn khơng cịn nhiều hứng thú đam mê mà theo tiêu chí thực dụng hơn,
thi gì học nấy. Việc ra đề thi tốt nghiệp THPT chỉ khoanh vùng vào một số tác
phẩm văn học Việt Nam trong sách giáo khoa. Thực tế thi cử ấy khiến nhiều
thầy cô và học sinh cũng lẳng lặng, chủ động loại thơ hai- cư ra khỏi chương
trình dạy và học.
Những bất cập trên đây khiến cho việc dạy, học thơ hai-cư ở trường phổ
thông hiện nay khá ảm đạm. Người dạy không hiểu hết đặc trưng thể loại thơ
hai-cư và những vỉa tầng văn hóa, thẩm mĩ lắng kết trong những câu thơ súc tích
ấy, dẫn tới việc dạy "khơng tới", "không ra" được cái chất riêng của của thơ haicư. Người học cũng vì thế mà khơng cảm nhận được giá trị của những bài thơ

này.
2.3. Một số biện pháp hướng dẫn học sinh đọc hiểu thơ hai-cư trong chương
trình Ngữ văn lớp 10
4


2.3.1. Trang bị kiến thức nền về văn hóa Nhật Bản
Văn học là sự tự ý thức văn hóa. Văn học chẳng những là một bộ phận
của văn hóa, chịu sự chi phối, ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa mà còn là một
trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa. Mặt khác, nhà văn là con đẻ
của một cộng đồng, thuộc về một cộng đồng nhất định, muốn hay không anh ta
cũng đã tiếp nhận những thành tố văn hóa của cộng đồng mình.
Các nhà thơ Nhật Bản khi sáng tác thơ hai-cư cũng không ngoại lệ. Họ đã
ảnh hưởng một cách ý thức và vô thức những giá trị văn hóa truyền thống của
cộng đồng, từ mô thức tư duy, đặc trưng thẩm mĩ, đến cách cảm, cách nghĩ, cách
thể hiện. Vì vậy, mỗi bài thơ hai-cư luôn là sự thẩm thấu và phô bày những nét
đặc trưng nhất trong quan niệm nhân sinh và quan niệm thẩm mĩ của người
Nhật. Để tiếp cận thơ hai-cư, một thể thơ được đánh giá là tinh hoa của văn hóa
Nhật Bản, người học khơng thể khơng có sự hiểu biết nhất định về văn hóa Nhật
Bản. Theo chúng tôi, quan niệm của Phật giáo Thiền tông về sự hịa hợp, tương
giao, bình đẳng, vơ ngã vơ thường và cảm thức thẩm mĩ đề cao cái đẹp đơn sơ
(wabi), nhẹ nhàng (karumi), tịch lặng (sabi) đã thẩm thấu và thể hiện rõ trong
những bài thơ hai-cư.
2.3.1.1. Tinh thần Thiền tơng
Nói đến văn hóa phương Đơng khơng thể khơng kể đến sự ảnh hưởng, chi
phối mạnh mẽ của tư tưởng, tinh thần Thiền tông. Nếu ở Trung Quốc, Thiền
tông chủ yếu tồn tại ở dạng học thuyết tôn giáo thì ở Nhật Bản, Thiền tơng đã
thấm sâu vào văn hóa cũng như đời sống con người. Riêng trong thơ hai-cư, tinh
thần mĩ học Thiền đã ảnh hưởng trên mọi mặt, đặc biệt là chủ đề.
Tương giao và hòa hợp là chủ đề thường thấy trong thơ hai-cư. Theo

quan niệm của Phật giáo Thiền tông, vạn vật tồn tại trong mối tương giao và hòa
hợp. Mỗi sự vật tồn tại là một giao điểm nối liền những mạch sống cuồn cuộn
trải khắp vũ trụ này. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó trong bài thơ sau đây của
Ba-sơ
Từ bốn phương trời
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa.

Q Ba-sơ ở tỉnh Shiga, gần hồ Bi-oa nổi tiếng của Nhật Bản. Danh thắng hồ
Bi-oa được nhiều người biết đến bởi vẻ đẹp thơ mộng của nó. Vào mùa xuân,
hoa anh đào trồng ven hồ nở rộ tạo thành những đám mây hoa. Mỗi khi gió thổi,
những cánh hoa hồng nhạt mong manh rụng xuống mặt hồ. Những cánh hoa nhỏ
5


bé tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến mặt nước hồ Bi-oa trong khoảnh
khắc ấy dường như đã làm cho mặt hồ gợn sóng. Cánh hoa rơi làm cho mặt hồ
gợn sóng hay chính sóng nước hồ Bi-oa đã làm cho những cánh hoa rơi rụng?
Một hình ảnh đơn sơ nhưng rất nên thơ, bay bổng, thể hiện một triết lí sâu xa,
một tư tưởng của Phật giáoThiền tơng: vạn vật trong vũ trụ tồn tại trong mối
tương giao hịa hợp. Chúng ln tác động và chuyển hóa lẫn nhau trong một chu
trình bí ẩn bất tuyệt.
Vơ ngã, vơ thường cũng là chủ đề xuất hiện trong nhiều bài thơ hai-cư.
Phật giáo Thiền tông cho rằng cái tôi bất biến, tồn tại tạm thời trong thân xác
thực chất không hề tồn tại. Con người của một phút trước đây đã không phải là
con người của phút này. Cuộc đời vô thường, đời người hữu hạn. Tất thảy mọi
sinh linh đều không ngừng biến đổi theo quy luật sinh trụ dị diệt. Đó cũng là sự
thật được phản ánh trong bài thơ sau đây của Ba-sô:
Mùa thu năm nay
sao tôi chóng già thế

chim sa ở mây trời.
Vào buổi xế chiều, trên bước đường lưu lạc, nhìn về phương trời xa thấy đàn
chim rũ cánh về tổ, người lữ khách nhạy cảm không khỏi bâng khuâng về thân
phận con người như áng mây ngàn, như cánh chim trời bị cơn gió cuốn đi. Ba-sơ
nhận thức chân lí đó để bước vào cuộc sống đầy bất trắc, đầy ba động với nụ
cười trên mơi, để có cái tâm thường nhiên, thường lạc, vững tay lái đưa con
thuyền vượt qua những sóng gió vơ thường.
Bình đẳng: dưới cái nhìn của Phật giáo, mọi vật đều bình đẳng như nhau.
Phật có thể là anh, là tơi, là láng giềng của chúng ta. Cái nhìn của Ba-sơ trong
bài thơ sau đây thấm nhuần thuyết bình đẳng của thiền.
Con quạ ô
sáng mai trong tuyết
đẹp không ngờ.
Ở đây, con quạ và tuyết bình đẳng với nhau tạo nên một bức tranh đẹp không
ngờ. Tuyết trắng đẹp nhờ có chú quạ đen làm vật tương phản và ngược lại chú
quạ được tơn thêm màu đen mượt mà, óng ả nhờ tuyết trắng làm nền. Nhà thơ
phát hiện ra quy luật tự nhiên của tạo hóa, sự phụ thuộc và bình đẳng với nhau
của tạo vật, đó chính là chân lí của cuộc sống.
2.3.1.2. Cảm thức thẩm mĩ

6


Ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng, triết lí Thiền tơng, cảm thức thẩm mĩ trong
thơ hai-cư cũng mang đậm màu sắc Thiền. Thơ Haiku thể hiện những cảm thức
thẩm mĩ khác nhau:
Sabi: cảm thức về sự cô tịch, hiu hắt, về cái vắng lặng. Đó là niềm tịch
tĩnh mà trong những kinh nghiệm thiền quán, người ta cảm thấy. Ví dụ trong
một không gian vắng lặng, tiếng ve như thấm sâu vào đá.
Vắng lặng u trầm

Thấm sâu vào đá
Tiếng ve ngâm (Ba-sô)
Bài thơ được sáng tác trong 1lần Ba-sô viếng thăm chùa Riusakuji. Nhà thơ cảm
nhận được sự tịch lặng của không gian sơn tự, nghe được mối tương giao bí ẩn
của vạn vật trong vũ trụ. Trong yên ắng, tiếng ve chợt vang lên như xé toang cái
tịch lặng. Tiếng ve đang thấm xuyên vào đá hay nỗi tịch liêu thấm xuyên vào
đá? Giữa hai sự vật tưởng chừng như khơng có mối liên hệ là đá - vật thể hữu
hình, cứng, rắn, thơ ráp và tiếng ve - âm thanh vơ hình trong cảm nhận của Basơ lại có mối tương tác kì diệu, dung chứa lẫn nhau. Ta có cảm giác âm thanh
của tiếng ve cùng với nỗi tịch liêu như làm cho cả đá núi cũng tan ra để rồi tất cả
hòa vào nhau tạo thành cái Một. Một trong những triết lí của Thiền là tất cả trở
về cái Một. Và một tuyệt diệu của nghệ thuật Thiền là Một trong tất cả và tất cả
trong Một. Đấy cũng là đặc điểm của vạn vật trong vũ trụ. Chúng tồn tại trong
một mối quan hệ mật thiết nhưng lại vơ cùng bí ẩn, huyền nhiệm như thế.
Wabi: nhận ra cái đẹp ở sự bình dị, thân thuộc, đơn sơ, chất phác. Đó là
những cảm nhận lắng đọng về những thứ nhỏ nhoi, mong manh như con ốc nhỏ,
một chiếc lá rơi, một giọt sương mai.
Ví dụ
Dọc theo đường núi
ngọt ngào và duyên dáng sao
đóa hoa tím nở.
(Ba-sơ)
Cảnh vật trong bài thơ rất đơn sơ, thanh đạm: dọc theo con đường nhỏ ven núi,
một bông hoa cỏ tím khiêm nhường nở. Hình ảnh chỉ có vậy thôi nhưng đã là
tâm điểm thu hút sự chú ý của thi sĩ bởi theo quan niệm của người Nhật: “chính
sự giản phác trong hình ảnh sẽ làm nên vẻ đẹp tự nhiên cho bài thơ”. Bông hoa
cỏ dại màu tím nở trong bài thơ trên của Ba-sơ mang vẻ đẹp tự nhiên như vậy.
Karumi: sự nhẹ nhàng, thanh thoát, phong thái ung dung tự tại. Ví dụ:
7



Trên chng chùa
một con bướm đậu
nghiêng mình ngủ mơ
(Ba-sơ)
2.3.2. Trang bị kiến thức về đặc trưng thể loại
Thơ hai-cư Nhật Bản có những đặc trưng riêng về nội dung và hình thức
so với các thể thơ khác trên thế giới, đặc biệt là thơ Việt Nam. Việc nắm rõ đặc
trưng đối tượng sẽ giúp ta tìm ra cách tiếp cận hợp lí, khơng sa vào suy diễn,
bình tán khơng có căn cứ. Trong quá trình dạy đọc hiểu thơ hai- cư cho học sinh,
chúng tôi thường hướng dẫn các em nắm vững những nét đặc trưng sau về nội
dung, nghệ thuật, từ đó soi vào từng bài cụ thể để có thể cảm nhận đúng và hay.
2.3.2.1. Đề tài thơ
Thơ hai-cư điển hình cho thứ văn chương ln nâng niu những sự vật
bình thường của cuộc đời trần gian, thể hiện rõ đặc trưng thơ là sự cất lời của
lòng hiếu sinh. Đề tài chủ yếu trong thơ hai-cư là thiên nhiên. Đó thường là
những cảnh vật bình dị, những con vật nhỏ bé và dễ bị lãng quên như chú ếch,
con quạ, con khỉ, chim đỗ quyên, tiếng ve, đóa hoa dại nở bên bờ suối, hịn đá,
một dây thường xuân, chú chim sẻ... Theo nhà phê bình Nhật Chiêu: "Thơ haicư khơng hồnh tráng, thênh thang như đại lộ thơ của nhiều xứ khác, không
giông tố sấm sét, cũng ko lề luật trang trọng như ai. Không tiêu đề, khơng đối,
khơng vần, khơng cầu kì. Thơ ca ấy là lối đi dưới lá. Hoặc một cửa động cô tịch.
Bạn gọi thì nó sẽ thưa, sẽ mở khi có tri âm ".
Ví dụ:
Cầu treo vực thẳm đời
quanh dây thừng quấn quýt
những nhánh thường xuân tươi
(Ba-sô)
Trong chuyến du hành miên viễn, Ba-sơ cùng người học trị của mình một
hơm du hành qua núi Kiso. Bên trái là hẻm núi, dưới sâu là dòng nước cuồn
cuộn chảy xiết. Họ dò từng bước qua một cây cầu làm bằng dây thừng. Chính
trong hành trình này, nhà thơ đã phát hiện và trân trọng sự sống vốn rất nhỏ

nhoi: những nhánh thường xuân tươi. Hình ảnh "nhánh thường xuân tươi" quấn
quanh cây cầu làm bằng dây thừng vừa thể hiện sự bất diệt, vừa thể hiện sự giao
hòa, quấn quýt, đồng thời phát hiện ra một chân lý: sự sống có thể hiện ra ngay
8


cả ở những nơi gắn liền với hệ lụy và sự chết như dịng sơng cuộn xiết, cầu tre
vực thẳm.
Qua việc chọn đề tài nhỏ, các thi sĩ thể hiện tình yêu với thiên nhiên, quay
lưng lại với những giá trị mà người đời hằng theo đuổi như quyền lực, của cải,
danh vọng. Từ đó cũng góp phần thể hiện một đặc điểm nổi bật của văn chương
Nhật là duy tình, nơi cái đẹp được thánh hóa và niềm đau được thanh tẩy, là văn
chương của tình cảm và thiên nhiên, người nghệ sĩ ln có sự nhạy cảm, rung
động trước những biến chuyển tế vi của vạn vật.
2.3.2.2. Hình ảnh thơ
Do các nhà hai-cư thuần túy ghi lại khoảnh khắc hiện hữu của đời sống
nên hình ảnh trong thơ hai-cư thuộc về khoảnh khắc thực tại chợt hiện ra
trước mắt nhà thơ, khơng phải là hình ảnh q khứ trong kí ức hay hình ảnh
tương lai trong mộng tưởng. Đó là hình ảnh gắn liền với khoảnh khắc con ếch
nhảy vào ao, cánh bướm đang ngủ mơ trên chuông chùa, con ốc nhỏ đang trèo
đỉnh Fuji, giọt sương đang tan trên lá.... Haiku chứng minh được điều đặc biệt
mà chỉ ngơn ngữ thi ca mới làm được, nó nắm bắt một khoảnh khắc của hiện tại,
được nhìn ra, được sáng tạo và được thuần khiết hóa. Vì những khoảnh khắc
được chưng cất và lưu lại ấy trong hình thức tinh giản của ngôn từ mà thơ ca
luôn cần cho chúng ta. Đặc điểm này của thơ hai-cư thể hiện rõ sự chi phối của
Thiền. Thiền vốn coi giây phút thực tại là thứ tài sản quý giá nhất, là sự sống
thực sự nơi mỗi con người. Bởi vì chúng ta không thể sống lại một phút của quá
khứ, cũng chẳng sống trước dù một phút của tương lai. Nếu chúng ta xao lãng
giây phút sống thực tại, có thể ta sẽ bỏ lỡ bao điều. Chỉ sống với khoảnh khắc
thực tại, chúng ta mới thực sự sống và hòa nhập vào dịng sinh hóa triền miên

của vũ trụ bằng tồn bộ sinh lực của mình.
Ngồi ra, hình ảnh trong thơ hai-cư thường tự nhiên, gần gũi, bình dị,
đơn sơ và mang tính hiện thực. Các nhà thơ hai-cư khơng miêu tả những hình
ảnh hùng vĩ, tráng lệ mà đặt điểm nhìn vào những hình ảnh bình dị, đơn sơ,
những con vật nhỏ bé. Chẳng hạn ở biển là vỏ sò, vỏ ốc; ở cánh đồng là chim sẻ,
chim chiền chiện, bướm, dế, đom đóm; trên núi có hoa mơ, hoa mận, hoa diên
vĩ, hoa dại tím...
Ví dụ:
Trên cổng bụi cây
Nằm thay cho ổ khóa
Con ốc nhỏ này
(Issa)

9


Bài thơ thể hiện sự nhận thức, phát hiện về sự sống qua một hình ảnh nhỏ bé,
bình dị: con ốc bám vào cánh cổng. Qua đó nhà thơ thể hiện sự trân trọng cuộc
sống từ những điều đơn sơ, bình dị nhất. Hình ảnh con ốc được đặt trong tương
quan với ổ khóa. Nếu ổ khóa khơi gợi người đọc cảm nhận về một hành động
"nhân vi", thể hiện sự tác động trực tiếp, áp đặt, thậm chí có thể đầy tính thơ bạo
từ con người thì hình ảnh con ốc nhẹ nhàng bám vào cánh cổng đúng vào vị trí ổ
khóa lại thể hiện một hành động tự nhiên. Thay cho ổ khóa phiền tạp và đầy áp
đặt là cái tự nhiên nhi nhiên của thiên nhiên, là sự giao cảm của vạn vật với thế
giới của con người. Chính sự giao cảm tự nhiên này dẫn tới sự tương thơng mà
sự tương thơng hài hịa giữa con người và tự nhiên là một biểu hiện của đức hiếu
sinh, cũng là một chủ đề thường được nói đến trong thơ hai-cư.
2.3.2.3. Ngôn ngữ thơ
Trong bài thơ hai-cư, nhà thơ ít dùng tính từ và trạng từ để miêu tả, cụ
thể hóa sự vật, làm hạn chế sự tưởng tượng của người đọc. Việc lược bỏ tối đa

những tính từ, trạng từ, động từ tạo khoảng trống giữa các hình ảnh được đặt
cạnh nhau, nhằm khuyến khích sự liên tưởng, sáng tạo phong phú nơi người tiếp
nhận. Theo Tagore: "Trong bài thơ hai-cư, các nhà thơ chỉ làm một việc là giới
thiệu đề tài sau đó nhanh chóng bước qua một bên, lấp đầy chỗ trống mà nhà thơ
bỏ ngỏ. Và đó chính là sự tinh giản của tâm hồn".
Ví dụ:
Ơi đóa nazuna
đơi mắt tơi nhìn thấy
bên hàng giậu nở hoa.
(Ba-sô)
Bài thơ thuần túy kể lại sự việc nhà thơ nhìn thấy một lồi hoa dại mọc ven
đường, khơng ai để ý. Khơng có những từ miêu tả cụ thể lồi hoa ấy. Những
bơng hoa bên vệ đường mà ta thường quên lãng lại lôi cuốn tâm hồn thanh cao
như Ba-sơ. Và ta có thể tưởng tượng bơng hoa ấy là tặng vật của tình yêu, là kết
tinh của đất trời, dù đơn sơ và khiêm nhường vẫn rạng ngời vinh quang của sáng
tạo, vẫn huyền diệu một làn hương bí ẩn, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của thi sĩ, một
tâm hồn luôn nâng niu từng sự vật nhỏ bé, bình thường.
Trong bài thơ hai-cư bao giờ cũng có kigo (quý ngữ, tức là từ chỉ mùa).
Có loại quý ngữ trực tiếp là tên mùa như haru (mùa xn), natsu (mùa hạ), aki
(mùa thu), fuyu (mùa đơng) có loại quý ngữ gián tiếp là hình ảnh tiêu biểu cho
mùa, chẳng hạn: quý ngữ chỉ mùa xuân là anh đào, hoa mơ, liễu xanh, chim
oanh, chim yến... quý ngữ chỉ mùa hạ là hoa diên vĩ, chim quyên, ve sầu, mặt
trời; quý ngữ chỉ mùa thu là trăng, hoa đinh hương, hoa cúc, lá phong, dế, gió
thu, sương, quạ, quý ngữ chỉ mùa đông là tuyết, cánh đồng hoang, thông, tùng...
10


2.3.2.4. Kết cấu thơ
Đặc điểm lớn nhất của kết cấu thơ hai-cư là hư không. Hư không là thuật
ngữ của Thiền Tông, chỉ cảnh giới tịch lặng trong tâm hành giả lúc nhập định,

một cái tâm trong sáng, không tạp niệm, do đó có khả năng tri kiến sáng suốt.
Hư khơng cũng là lí tưởng thẩm mĩ của nghệ thuật Nhật Bản nói chung và thơ
hai-cư nói riêng. Thơ hai-cư chủ trương im lặng, hai-cư trống rỗng chứ khơng
đầy. Nó có nhiều khoảng trống, dành chỗ cho người đọc tự làm đầy bằng cảm
thức đốn ngộ (sự bừng hiểu), khả năng đồng sáng tạo. Nói cách khác, những
khoảng hư khơng không phải trống rỗng tuyệt đối, ngược lại, tiềm tàng rất nhiều
ý nghĩa mà người đọc, với kinh nghiệm, tưởng tượng, tri kiến khác nhau sẽ có
những cảm nghiệm khác nhau. Theo nhà phê bình Chu Văn Sơn: "Thơ Hai-cư
được ví như những viên sỏi gieo xuống mặt nước. Nhưng nó ko phải phép cộng
thơ sơ của những viên sỏi ngơn từ và những quầng sóng dư ba. Tinh vi hơn, thơ
Hai-cư phải là cái khoảnh khắc những viên sỏi chạm vào mặt nước, xơ dậy
những vịng sóng, làm loang xa những viền sóng"[365]
Ví dụ:
Qn bên đường
các du nữ ngủ
trăng và đinh hương
(Ba-sô)
Khi Ba-sô làm chuyến lữ hành trên con đường đi lên miền Oku, ơng tình cờ gặp
hai người du nữ trong một quán trọ. Sau khi nghe các cô thổ lộ những mảnh đời
cơ cực, ông đã sáng tác bài thơ này. Hình thức bài thơ thật giản dị, tác giả chỉ
gọi đúng tên, lần lượt các hình ảnh, sự vật, không trau chuốt, gọt giũa, không
diễn giải lịng vịng. Các hình ảnh đặt cạnh nhau rất rời rạc, khơng liên quan gì
với nhau trên bề mặt, tạo nên khoảng trống. Người đọc phải dùng kinh nghiệm,
kiến thức, trí tưởng tượng để kết nối chúng lại. Bằng kinh nghiệm, chúng ta biết
du nữ là những người bị coi là ngụp lặn dưới đáy sâu cuộc đời. Trăng và hoa tử
đinh hương tượng trưng cho sự cao sang, thanh quý. Bằng thủ pháp liệt kê, Basô đã nâng niu, trân trọng các cô du nữ vốn bị đời khinh rẻ lên địa vị tôn quý
cùng với trăng, sao, hoa cỏ. Trong cảm quan khoáng đạt của nhà thơ lãng du,
khơng có sự vật nào bản tính đích thực là hèn mọn, xấu xa, thậm chí cả những
cơ kĩ nữ. Khi ngủ họ trở về với con người đích thực của mình, với bản tính
ngun sơ, tìm thấy sự bằng an trong tâm hồn. Họ như hòa làm một với đất trời,

với trăng sao, hoa cỏ. Họ đã được siêu việt hóa để đạt tới tầm cao của thi ca.
Qua đó người đọc thấy được niềm cảm thơng của nhà thơ đối với các du nữ,
thấy được cách nhìn cuộc đời và con người của Ba-sô cũng như của các nhà thơ
hai-cư khác: phát hiện ra sự bình đẳng của vạn vật với nhau và trân trọng sự
sống dù là nhỏ nhất.
11


2.3.3. Vận dụng thao tác so sánh, đối chiếu trong việc đọc hiểu thơ hai-cư
Thơ hai-cư vừa giống vừa có những nét đặc trưng, khu biệt với thơ của
các nước khác. Trong quá trình đọc hiểu, việc vận dung thao tác so sánh, đối
chiếu nhằm chỉ ra được những nét riêng, độc đáo của thơ hai-cư, bản sắc văn
hóa Nhật Bản, những nét riêng trong phong cách nhà thơ, những điểm gặp gỡ về
tư tưởng của các nhà thơ bậc thầy trên thế giới, từ đó nâng cao tầm đón nhận của
học sinh. Để có thể so sánh, bản thân người dạy, người học phải có vốn tri trức
rộng về văn chương, phải hiểu biết về văn hóa của nước đó.
Có thể so sánh trên nhiều bình diện khác nhau:
2.3.3.1. So sánh trong phạm vi thơ hai-cư
Ví dụ: Thi sĩ Yoda sáng tác bài thơ sau đây:
Con chuồn chuồn ngô
bứt hai cánh
quả ớt
Khi đến tay Ba-sô, ông thay đổi như sau:
Quả ớt
chắp hai cánh
chuồn chuồn ngô.
Bài thơ của thi sĩ Yoda là 1 bài thơ đúng luật, đúng kĩ thuật, biết nhìn thế giới
bằng tư duy quan hệ (nhìn chuồn chuồn liên hệ tới quả ớt). Con chuồn chuồn là
một thực thể sống động, thơng qua một hành động có tính bạo lực (bứt hai
cánh), trở thành quả ớt. Hành động này đi ngược lại tính thẩm mĩ của thơ Hai-cư

là tôn trọng trạng thái tự nhiên của đời sống, là sự lên tiếng của lịng hiếu sinh.
Vì vậy, bài thơ không khơi dậy cảm xúc thẩm mĩ và nhân văn, khơng kích thích
trí tưởng tượng của chúng ta. Ba-sơ giữ lại những chất liệu đời sống trong bài
thơ của thi sĩ trẻ: quả ớt, con chuồn chuồn. Ông chỉ đảo lại trật tự câu thơ, tạo ra
những thay đổi nhỏ. Nhà thơ đã thay thế một hành động bạo lực bằng hành động
của mơ mộng, của tưởng tượng (chắp thêm đôi cánh). Một sự sống tưởng chừng
đang mất đi lại là một sự sống sinh sơi, kì diệu. Liên hệ quả ớt như con chuồn
chuồn là đã thắng được thói quen trong hình dung của chúng ta. Điều đó khiến
bài thơ ko chỉ đúng luật, đúng quy phạm mà cịn đầy chất thơ. Hình tượng trở
nên sống động, kích thích mạnh mẽ trí tưởng tượng của con người.
2.3.3.2. So sánh thơ hai-cư với thơ của các nền văn học khác trong khu vực
12


Ví dụ:
Đất khách mười mùa sương
Về thăm quê ngoảnh lại
Edo là cố hương
(Ba-sơ)
Q Ba-sơ ở Mie. Ơng lên sống ở Edo (thủ đô Tokyo ngày nay), mười năm mới
trở về thăm quê. Khi còn sống ở Edo, mặc dù đã qua mười mùa sương nhưng
ông thấy Edo cũng chỉ là nơi đất khách q người, khơng có gì là gần gũi thân
quen. Bản thân ơng có cảm giác của một người tha hương. Nhưng khi rời khỏi
Edo, trong khoảnh khắc ngoảnh lại, ông chợt nhận ra rằng, Edo đã để lại biết
bao lưu luyến, nhớ thương trong trái tim mình. Biết bao vấn vương, lưu luyến
gửi trong cử chỉ ngoảnh lại. Sau cử chỉ ấy, trong tim nhà thơ, tình cảm dành cho
Edo đã có sự thay đổi kì diệu. Từ nơi đất khách, Edo đã trở thành cố hương, nơi
lưu giữ những kỉ niệm xiết bao trìu mến khơng thể nào quên. Từ cảm giác của
một người lưu lạc tha hương, Ba-sơ thấy mình trở thành một người con của
Edo. Bài thơ của Ba-sô gợi ta nhớ tới Độ Tang càn của Giả Đảo- một nhà thơ

nổi tiếng đời Đường. Nếu khơng có cái khoảnh khắc qua sơng Tang Càn, có lẽ
đến mãn đời, thi sĩ- nhà sư Giả Đảo cũng chỉ thấy Tinh Châu là đất khách. Động
tác qua sông, ngoảnh lại trông đã làm nên "sát na đốn ngộ" khiến người khách
chợt nhận ra Tinh Châu là q cũ. Nhưng nếu khơng có mười năm ở Tinh Châu
thì khơng có cái "ngoảnh nhìn" đó. Tâm tình của nhà thơ Giả Đảo đã đồng vọng
với đời sau. Ba-sô cũng chung tâm tình ấy. Đó cũng là tâm lí phổ biến của con
người. ta thường không thỏa mãn với cái mình đang có. Chỉ khi nó rời xa, ta mới
yêu quý và tiếc nuối.

2.3.4. Luyện đọc hiểu thêm một số bài thơ hai-cư ngồi chương trình
Bên cạnh việc hướng dẫn cho học sinh đọc hiểu những bài thơ hai-cư
trong chương trình Ngữ văn 10, người dạy cũng có thể giới thiệu thêm một số
bài ngồi chương trình. Biện pháp này nhằm kích thích khả năng cảm nhận của
học sinh về một bài thơ hoàn toàn mới lạ và vận dụng nhuần nhuyễn những biện
pháp đọc hiểu mà giáo viên đã cung cấp để đọc một bài thơ cùng thể loại.
Sau đây là một số bài thơ ngồi chương trình mà theo chúng tơi, người
dạy có thể định hướng cho học sinh tìm hiểu.
Bài 1:
Chậm rì, chậm rì
kìa con ốc nhỏ
leo đỉnh Fuji"
(Issa)
13


Bài thơ thể hiện hình ảnh chú ốc sên nhỏ leo chầm chậm lên núi Fujingọn núi cao bậc nhất Nhật Bản. Trạng thái chậm rì được đảo lên câu thơ đầu để
nhấn mạnh đặc điểm của chú ốc bình dị nhỏ bé ấy. Sự đối lập giữa hình ảnh con
ốc nhỏ và đỉnh núi Fuji cao lớn cho thấy hành trình gian nan, nhọc nhằn. Con ốc
nhỏ có thể chết mà chưa leo tới đỉnh, nhưng ngay cả việc nó miệt mài như thế,
cặm cụi như thế, hy vọng và tuyệt vọng đến thế, cũng không thể nào làm thay

đổi thế giới này. Thế giới khơng ngắm nhìn nó để rồi thán phục. Nó cũng khơng
thể mang theo thế giới lên đỉnh Fuji. Tất cả những gì nó mang theo, chỉ là cái vỏ
rỗng không trên lưng, song cũng là nơi trú ngụ duy nhất của nó. Rỗng khơng,
nhưng ít nhất là khơng vơ nghĩa. Nó leo và leo, cần quan tâm gì đến những nghi
ngại về sự bất khả, về sự khờ khạo của hành trình này.
Trong thực tế cuộc sống, mỗi người đều là chú ốc nhỏ bé bình dị nhưng
đều ấp ủ một giấc mơ cháy bỏng của riêng cuộc đời mình. Tuy nhiên, tạo dựng
và theo đuổi những giá trị lớn ln là hành trình bị thử thách nhiều hơn, chúng
ta dễ bất mãn, dễ cay đắng, nhất là dễ mỏi mệt và cô độc, vì vậy mà dễ bỏ cuộc.
Điều mà chúng ta cần làm đó chính là ln ln cố gắng khơng ngừng nghỉ trên
hành trình, nỗ lực hết sức mình trên hành trình chinh phục lý tưởng sống. Đừng
lấy thành cơng là tiêu chí lớn nhất làm nên ý nghĩa của đời sống. Quan trọng
hơn là mình nhìn ra mình qua những thử thách.
Bài 2:
Trong vườn cánh bướm
đứa bé bò theo bướm bay
đứa bé bò theo bướm bay.
(Issa)
Bài thơ thuần túy trưng ra sự kiện và hành động, với hai hình ảnh vốn dĩ
khơng liên quan đến nhau: đứa bé bị, bướm bay. Nếu hình ảnh bướm bay tượng
trưng cho sự phù du, cho cái đẹp hướng thượng thì hình ảnh đứa bé bò lại thể
hiện tất cả sự bi đát của kiếp người. Nếu chỉ dừng bài thơ ở câu 2 thì tác phẩm
thuần túy nói với ta về giới hạn của kiếp người, về sự chật hẹp của thân phận,
trong khi bướm thì bay mà con người chỉ có thể bò. Con người mãi mãi khạo
khờ, mãi mãi rơi vào trạng thái bi kịch.
Tuy nhiên, bằng việc lặp lại nguyên văn câu 2, vừa phá luật vừa tiếp tục
tạo ra khoảng trống, khoảng trắng giữa các ngôn từ, tác phẩm nhằm thể hiện một
sự liên kết ngầm trong hình ảnh đứa bé đối với hành động bướm bay. Cánh
bướm vừa là thực thể phù du vừa tượng trưng cho cái đẹp, vừa thuộc thế giới
này vừa thoát khỏi thế giới này. Nó rong chơi vơ cầu, nó hiện thân cho sự tự do

mà con người luôn luôn khao khát. Đứa bé bị theo bướm bay là đang đặt mình
vào cuộc chơi vô sở cầu, một cuộc chơi không màng kết quả. Dường như hình
ảnh này ko cịn gợi cho chúng ta bi kịch về điều bất khả nữa. Rất có thể đứa bé
14


biết nó chẳng thể nào bắt được bướm, nhưng nó ko từ bỏ điều đó, nó vẫn tiếp tục
cuộc chơi. Và cuộc chơi đẹp nhất trong đời này là cuộc chơi vơ cầu, ko nề hà kết
quả. Chính trong sự chơi ấy, nó có cái tự do tự tại, thong dong. Đây chính là
biểu hiện đẹp đẽ nhất của tự do tinh thần.
Bài 3
Cái chết gần kề
mặc ai hay biết
vẫn hồi tiếng ve.
(Ba-sơ)
Có thể hiểu bài thơ theo hai cách: Cách thứ nhất, chủ thể trữ tình trong bài
thơ đang đối mặt với cái chết gần kề. Tuy nhiên, trước giới hạn của đời người,
thi sĩ không buồn đau về cái chết, không trầm tư về lẽ sinh tử mà tâm hồn vẫn
hướng về sự sống (lắng nghe được tiếng ve, hoài tưởng về tiếng ve).
Cách 2: Nếu cảm nhận từ góc độ con ve sầu là chủ thể bài thơ, chúng ta sẽ
thấy hai dòng đầu là suy tư của con người nói chung về sự phù du của cuộc
sống. Trong cõi phù du ấy, đời ve được xem là kiếp đời ngắn ngủi phù du nhất.
Tuy vậy, mặc cho cái chết gần kề, con ve vẫn không buồn lịng về sự ngắn ngủi
của đời mình. Nó vẫn cất tiếng râm ran ngay cả khi sự sống có thể chấm dứt bất
cứ lúc nào. Điều đó có nghĩa là mặc dù cảm nhận được sự phù du của chính đời
mình, nó vẫn cháy đến tận cùng của khoảnh khắc hiện sinh. Hay cũng có thể
hiểu: chính vì khơng cảm nhận được sự phù du của đời mình, khơng cảm nhận
được cái chết đang gần kề, con ve vẫn cất lên bài ca về sự sống, vẫn tham gia
vào một cuộc chơi vơ sở cầu, một cuộc chơi hồn tồn tự do, không bận tâm về
sự phù du, sống chết.

Bài 4
Trong thế giới này
bước đi trên mái địa ngục
ta nhìn hoa bay.
(Issa)
Nhà thơ Issa sinh ra đời dường như để nếm trải mọi điều bất hạnh trần ai,
như để hát cho nhân thế và hát cho mn lồi những khúc bi ca bi thiết nhất,
cũng là những khúc bi ca đẹp nhất, phát tiết từ một trái tim trần. Bài thơ vừa thể
hiện niềm đau của Issa khi phát hiện ra thế giới này là một địa ngục- cái địa
ngục trần gian từng rất nhiều lần dìm ơng trong nước mắt, trong bất hạnh chất
chồng, vừa thể hiện phong thái ung dung, an nhiên vượt lên nghịch cảnh. Bước
đi trên mái địa ngục, bước trên chông gai, đi trong tối tăm, trong vực thẳm, tâm
15


hồn ông vẫn hướng thượng, ánh mắt ông vẫn dõi theo cái đẹp (hoa bay), trái tim
ơng vẫn hịa cùng nhịp đập với thi ca và Phật tính. Đó là sự đạt đạo của con
người sau khi đã nếm trải mọi điều bi lụy, thức nhận sâu sắc đời là bể khổ và an
nhiên tự tại ngắm nhìn hoa bay. Đây cũng là sự thể hiện cảm thức thẩm mĩ
karumi (nhẹ nhàng, thanh thoát, ung dung tự tại), mang màu sắc Thiền.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Trong những năm học qua, chúng tôi đã trực tiếp hướng dẫn cho học sinh
đọc hiểu thơ hai-cư theo những biện pháp trên đây. Đặc biệt, đối với học sinh
chuyên văn, chúng tôi yêu cầu các em vận dụng kiến thức đọc hiểu ấy trong bài
văn nghị luận văn học. Kết quả bước đầu có thể chưa hồn tồn thật tốt, song
điều đáng mừng là kích thích được hứng thú của học sinh đối với việc tiếp cận
những bài thơ hai-cư vốn rất khó hiểu này.
Dưới đây là một số vận dụng cụ thể vào đề kiểm tra và trích đoạn sản
phẩm của học sinh.
Vận dụng 1

Đề bài:
Nhà thơ Tố Hữu cho rằng: Thơ là cái đó: sự im lặng giữa các từ. Nếu
người ta lắng nghe cái im lặng đó thì có những tiếng dội rất đa dạng và tinh tế.
Bằng trải nghiệm về thơ hai-cư, anh/ chị hãy bình luận ý kiến trên.
Trích bài làm của học sinh:
Bản chất của văn học nghệ thuật ln là sự khơng nói hết. Điều đó tạo nên
những khoảng trắng, khoảng lặng, sự im lặng giữa lời. Từ sự im lặng của các từ
đến những tiếng dội vang tinh tế là cả một quá trình tiếp nhận, khơi mở, đồng
sáng tạo, tri âm từ phía người đọc để văn bản thơ trở thành một tác phẩm đa
nghĩa. Thơ hai-cư càng có nhiều những khoảng lặng, tạo nên kiểu kết cấu hư
không như thế. Bài thơ sau đây của Ba-sơ là một ví dụ điển hình
Lệ trào nóng hổi
Tan trên tay tóc mẹ
Làn sương thu
Bài thơ bắt nguồn từ một hiện thực có thật: năm Ba-sơ 40 tuổi, ơng hành hương
đến Kansai. Sau những năm tháng dài lãng du khắp nơi, khi trở về thì mẹ ơng đã
mất, thứ cịn lại chỉ là một hộp gỗ và nắm tóc bạc phơ của mẹ. Đau đớn, buồn
16


thương, ông đã sáng tác bài thơ này. Nhà thơ đã phác họa ba hình ảnh: giọt lệ
nóng hổi, mái tóc bạc của mẹ trên tay, làn sương thu. Ba hình ảnh này dường
như khơng có mối quan hệ ngữ pháp rõ ràng nào. Có một khoảng trống lớn giữa
các hình ảnh, một khoảng lặng về ngơn từ. Tuy nhiên, bằng tri kiến, bằng tưởng
tượng, người đọc có thể hiểu sợi dây liên hệ giữa hình ảnh sương thu và hai hình
ảnh trên: cầm trên tay mớ tóc bạc cịn lại, xót xa, nhà thơ nhỏ những giọt nước
mắt nóng hổi muộn màng. Những giọt nước mắt tan nhanh như sương mùa thu.
Quý ngữ "sương thu" có thể hiểu theo nhiều cách: là làn sương thật, làn sương
mùa thu, là mái tóc bạc phơ của người mẹ, có thể là giọt nước mắt đau đớn của
người con khi nghe tin mẹ mất, là cuộc đời (cuộc đời ngắn ngủi vô thường như

giọt sương thu). Những tầng nghĩa này nối tiếp nhau khiến người đọc nhận ra
được sự mãnh liệt của cảm xúc và suy tưởng. Từ nỗi đau cá nhân, nhà thơ đã
nâng lên thành những suy ngẫm ngàn đời về lẽ sống chết, về tình mẫu tử. Bài
thơ chạm vào chủ đề rất quen thuộc của thơ hai-cư: vô ngã, vô thường. Đời
người hữu hạn, vô thường, hữu hạn như nắm tóc mẹ trên tay, như làn sương thu
vừa long lanh đấy đã chợt tan biến. Đây cũng là chủ đề thường thấy trong cảm
niệm của các nhà thơ phương Đông, đặc biệt là các nhà thơ đời Đường.
Vận dụng 2
Đề bài:
Nhà phê bình Chu Văn Sơn cho rằng: Văn học, xét đến cùng, là sự cất lời
của đức hiếu sinh.
Bằng trải nghiệm về thơ hai-cư, anh/ chị hãy bình luận ý kiến trên.
Trích bài làm của học sinh:
Thơ hai-cư là sự cất lời của đức hiếu sinh, thể hiện niềm trân trọng sự
sống từ những biểu hiện bình dị nhất, nhỏ bé nhất. Nhà thơ nữ nổi tiếng Chiyo
sống cô đơn trong những hồi tưởng về người chồng và đứa con trai đã chết. Một
thi sĩ trẻ đến thăm và đã tặng cơ bài hai-cư sau:
Khơng có hoa trên mình
Đời sao mà thầm lặng
Cây liễu xanh.
Khi Chiyo nhận được bài thơ, tác giả đã thay đổi thành bài thơ sau:
Khơng có hoa trên mình
Thân khơng cịn hệ lụy
17


Cây liễu xanh.
Bài thơ của thi sĩ trẻ thiên về cảm nhận sự cô đơn thầm lặng của nhân vật trữ
tình. Tín hiệu nghệ thuật cây liễu xanh trong bài thơ không nhằm thể hiện sự
mong manh, yếu đuối, cô đơn- một yêu cầu thường thấy trong thơ ca cổ điển

phương Đông khi các nhà thơ sử dụng biểu tượng này. Đây là bài thơ thể hiện
niềm bi cảm và sự sống bị hủy diệt. Chỉ thay đổi 1 câu, từ một bài thơ hủy diệt
sự sống, Chiyo đã biến thành bài thơ truyền đi tín hiệu của sự sống và cái đẹp.
Cuộc đời ln chứa đựng những bất tồn, khiếm khuyết (khơng có hoa trên
mình) nhưng ngay cả sự bất toàn ấy cũng chứa đựng những giá trị và ý nghĩa
của đời người nằm ở chỗ không ngừng hướng về sự sống. Biểu tượng dương
liễu xanh trong bài thơ của Chiyo gắn liền với cái đẹp, với sự sống và cũng là
biểu trưng của mùa xuân, gắn liền với quan niệm cuộc đời ln thênh thang,
hướng thượng, dù có cơ đơn thì cũng là nỗi cơ đơn huy hồng.
Vận dụng 3
Đề bài:
Nhà phê bình Nhật Chiêu cho rằng: Thơ ca, ấy là lối đi dưới lá, hoặc một
cửa động cơ tịch. Bạn gọi thì nó sẽ thưa, sẽ mở khi có tri âm.

Bằng trải nghiệm về thơ Hai-cư, anh/ chị hãy bình luận ý kiến trên.
Trích bài làm của học sinh:
Thơ hai-cư là thơ của niềm im lặng, thơ của giọng thầm thì, thứ thơ ca
nhẫn nại giữ lại cho chúng ta những lát cắt của đời sống mà khi nhìn ngắm lại,
chúng ta nhận ra sự bí ẩn của niềm im lặng và trạng thái nhẹ của đời sống. Và
chỉ trong trạng thái lặng im bất chợt ấy con người mới nhận ra ý nghĩa của đời
sống. Đây là điểm đặc sắc của thơ hai-cư so với các loại thơ khác. Trong những
nền thơ khác, nhiều khi chúng ta chỉ gặp những giọng nói lớn, khi thì ca tụng,
khi thì bất bình, khi thì hùng biện, khi thì răn dạy, bảo ban. Nghe chim hót, nhà
thơ nữ Chigetsu viết:
Tay ngưng việc làm
Bên chậu nước
Tiếng chim chích vang
So sánh bài này với bài tứ tuyệt Tức cảnh ngày xuân của Sư Huyền Quang đời
Trần, ta sẽ hiểu hơn về sự tối giản của hai-cư:
Nhị bát giai nhân thích tú trì

Tử kinh hoa lạ chuyển hồng ly
18


Khả liên vơ hạn thường xn ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
(Đường kim bỗng chậm lại trên tay cơ nàng đẹp mười sáu xuân xanh
Mấy chú oanh vàng thỏ thẻ trong lùm tử kinh hoa rộ
Thương quá đi bao nỗi lịng thương xn vơ hạn
Đang trút cả vào giây phút ngừng kim và im phắc)
Hai bài thơ giống nhau ở cái tứ: hình ảnh cơ gái ngừng tay làm việc khi lắng
nghe tiếng chim hót trong mùa xuân. Tuy nhiên, sự khác biệt nằm ở cách thức
thể hiện. Trong bài thơ của nhà sư Huyền Quang, chúng ta cảm nhận được rõ độ
tuổi và xúc cảm của nhân vật trữ tình (cơ gái đẹp 16 xn xanh mang nỗi lịng
thương xn vơ hạn), hình ảnh con chim hót trong lùm tử kinh. Trong khi đó,
bài hai-cư hồn tồn tước đi dấu hiệu của cảm xúc, tâm trạng, những miêu tả về
hình thức, độ tuổi của nhân vật trữ tình. Chính điều này tạo nên dư ba cho bài
thơ, khiến bài thơ chỉ còn lại mối liên hệ giữa âm thanh hót vang của tiếng chim
và niềm im lặng của con người. đó là khoảnh khắc dừng lại để cảm nhận sự
sống, để trân trọng sự sống (hiện qua âm thanh tiếng chim), để từ đó lắng nghe
được lịng mình. Phải chăng tâm hồn của nhân vật trữ tình cũng như đang thăng
hoa cùng với âm thanh tiếng chim hay chính âm thanh tiếng chim đang đánh
thức những nỗi niềm, những tâm tư thầm kín.
Vận dụng 4
Đề bài:
Văn học ngay cả khi viết về bóng đêm, về cái chết cũng nhằm hướng con
người đến với ánh sáng và sự sống.
Bằng trải nghiệm về thơ hai-cư, anh/ chị hãy bình luận ý kiến trên.
Trích bài làm của học sinh:
Nằm bệnh giữa cuộc lãng du

mộng hồn còn phiêu bạt
những cánh đồng hoang vu.
Ba-sô quan niệm đời người là chuyến lữ hành, là những hành trình khơng dứt,
hành trình đi tìm giá trị thực của nhân thế. Nhà thơ đã từ bỏ cuộc sống của 1
samurai để tu tập Thiền đạo, lánh cõi bụi trần. Thế nhưng nơi nhà thơ ngộ được
chân lý, tìm được những điều kì diệu của cuộc sống này không phải trong thiền
thất âm u, không phải nơi xa xôi, cách biệt cõi tục, mà ngược lại, nhà thơ luôn bị
những linh hồn đường xá vẫy gọi, suốt cuộc đời luôn bị giấc mộng hải hồ thôi
19


thúc. Nón lá, gậy khơ, dép rơm, gót chân gầy guộc, Ba-sơ lang thang trên nhiều
miền đất, hịa cùng cuộc sống giản dị đời thường, lắng nghe âm thanh của thiên
nhiên vũ trụ và tiếng dội từ miền tịch mịch tâm thức. Vì thế ngay cả khi sắp từ
giã cõi đời, ơng vẫn cịn lưu luyến lắm, vẫn cịn muốn tiếp tục cuộc đi - đi bằng
hồn mình. Và ta lại như thấy hồn Ba-sô lang thang trên khắp những cánh đồng
hoang vu. Ông vẫn tha thiết, ước mong được đi đến mọi miền của quê hương để
được ngắm nhìn, được tìm hiểu và chiêm nghiệm cuộc đời. Thân xác phải ở một
nơi nhưng tâm hồn vẫn phiêu bồng với những ước mơ lớn. Khát vọng được sống
luôn đốt cháy tâm can và tấm lòng yêu đời, tha thiết sống của thi nhân đã được
thể hiện trọn vẹn, nồng nàn trong một bài thơ đầy trăn trở, khao khát.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Với dung lượng ngắn, sáng kiến kinh nghiệm của chúng tôi đã đưa ra một
số biện pháp hướng dẫn học sinh đọc hiểu thơ hai-cư trong chương trình
ngữ văn lớp 10. Viết sáng kiến này, chúng tơi mong muốn đóng góp những kinh
nghiệm thực tế để góp phần hướng dẫn học sinh đọc hiểu tốt hơn thể loại thơ
hai-cư vốn rất khó và mới này. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ khó khăn, có lẽ
trong q trình thực hiện vẫn cịn một số thiếu sót. Chúng tơi rất mong nhận

được sự chia sẻ và các ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp. Xin chân
thành cảm ơn!
3.2. Kiến nghị
Bản thân tơi ln có niềm đam mê và tha thiết với mảng văn học nước
ngoài trong nhà trường. Thực tế giảng dạy và thi cử cho thấy, thơ hai-cư nói
riêng, văn học nước ngồi nói chung chưa được coi trọng trong nhà trường
THPT. Vì vậy, để những bài thơ giàu giá trị như thơ hai-cư đi vào tâm hồn các
em, ngoài việc cần thay đổi cách dạy và học, cần làm mới những biện pháp đọc
hiểu, thiết nghĩ, cần thiết phải đưa vào chương trình thi cử. Có như vậy mới tạo
động lực cho học sinh tìm hiểu, học tập.

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hố, ngày 10 tháng 5 năm 2022
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

20


Nguyễn Thị Tuyết

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Lê Bảo, Giải mã văn học từ mã văn hóa, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2011
2. Nhật Chiêu, Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục, 1997
3. Nhật Chiêu, Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, NXB Giáo dục, 2000

21


4. Nhật Chiêu, Câu chuyện văn chương phương Đông, NXB Giáo dục, 1997
5. Nguyễn Thanh Hùng, Hiểu văn dạy văn, NXB Giáo dục Việt Nam, 2001
6. Nguyễn Thanh Hùng, Kĩ năng đọc văn, NXB ĐH Sư phạm, 2011
7. Nguyễn Thị Thanh Hương, Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học,
NXB Giáo dục, 1998
8. Nguyễn Thị Mai Liên, Đặc điểm thơ hai-cư Nhật Bản, Viện nghiên cứu
Đông Bắc Á, số 2, 2010
9. Chu Văn Sơn, Đa mang một nỗi lịng khơng yên định, NXB Hội nhà văn,
2021
10. Trần Đăng Suyền, Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm văn
học, NXB Giáo dục, 2012
11. Nguyễn Phương Khánh, Nhật Bản từ mỹ học đến văn chương, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2018

22



×