Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Tài liệu Đề tài: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Công ty cổ phần Hải Hưng. potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 83 trang )

-1-
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Hoạt động đầu tư phát triển đối với 1 Doanh nghiệp là vô cùng quan trọng vì nó
quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, phải làm
sao cho hoạt động đầu tư của Doanh nghiệp trở nên có hiệu quả cao nhất không phải là
1 điều đơn giản đối với tất cả các doanh nghiệp. Cho đến nay khái niệm đầu tư phát
triển không còn gì xa lạ với những doanh nghiệp sản xuất cũng như kinh doanh sản
phẩm dịch vụ, song việc nhìn nhận, thực hiện có hiệu quả các nội dung của hoạt động
đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp đối với mọi doanh nghiệp không phải là dễ dàng.
Không ngoại lệ, công ty cổ phần Hải Hưng cũng nhận thức rõ được tầm quan
trọng của hoạt động đầu tư phát triển. Từ khi thành lập năm 2002, công ty cổ phần
Hải Hưng luôn quan tâm chú trọng đến hoạt động đầu tư phát triển của công ty. Đến
nay trải qua hơn 10 năm hoạt động, công ty đã đạt những kết quả kinh doanh đáng
kể.
Tuy nhiên, công ty cũng không tránh khỏi có những khó khăn và hạn chế
trong hoạt động đầu tư phát triển,khiến cho hoạt động đầu tư phát triển không đạt
được kết quả và hiệu quả như mong muốn. Qua quá trình tìm hiểu tình hình thực tế
hoạt động đầu tư phát triển của công ty cùng những kiến thức đã được học, em đã
quyết định chọn đề tài: “Đầu tư phát triển trong công ty cổ phần Hải Hưng” làm
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề về lý luận có tính khoa học đối với
hoạt động sử dụng vốn đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Hải Hưng
Đánh giá thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Hải
Hưng.
Đề xuất các giải pháp cụ thể để tăng cường sử dụng hiệu quả vốn đầu tư phát
triển tại công ty cổ phần Hải Hưng trong thời gian sắp tới.
-2-
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu tình hình sử dụng vốn đầu tư tại


doanh nghiệp
Phạm vi nghiên cứu:chuyên đề tập trung nghiên cứu tình hình sử dụng vốn
đầu tư tại công ty cổ phần Hải Hưng từ năm 2010 đến năm 2012, định hướng phát
triển của công ty cổ phần Hải Hưng đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, phương pháp
dự báo, phương pháp suy luận logic để phân tích, đánh giá. Kế thừa một số kết quả
nghiên cứu của các công trình nghiên cứu có liên quan đến vốn đầu tư phát triển tại
địa bản tỉnh Kon Tum và công ty cổ phần Hải Hưng.
5. Các kết quả chính của đề tài:
Hệ thống các vấn đề lí luận và thực tiễn, các nhân tố tác động, kinh nghiệm
của một số công ty trong cả nước nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng, rút ra bài
học kinh nghiệm. Đánh giá thực trạng đầu tư phát triển trong công ty cổ phần Hải
Hưng.
6. Nội dung của đề tài:
Chuyên đề tốt nghiệp này ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Công ty cổ
phần Hải Hưng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động đầu tư phát
triển tại công ty cổ phần Công ty cổ phần Hải Hưng.
-3-
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1. Bản chất của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm về đầu tư phát triển trong nền kinh tế nói chung và trong
doanh nghiệp nói riêng.
Đầu tư, đầu tư phát triển.
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là sự bỏ ra hay sự hy sinh các nguồn lực ở hiện
tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt các kết quả, thực hiện được các mục

tiêu nhất định trong tương lai. Tuy nhiên, đứng dưới các góc độ khác nhau thì nó cụ
thể như sau:
− Theo quan điểm tài chính: đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ
đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn sinh lời.
− Theo góc độ tiêu dùng: đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu
về một mức độ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.
Để có thể hiểu rõ bản chất của hoạt động đầu tư chúng ta cần làm rõ những
yếu tố như: nguồn lực đầu tư, hoạt động đầu tư, đối tượng của hoạt động đầu tư.
Nguồn lực đầu tư: theo nghĩa hẹp được hiểu là bao gồm tiền vốn, còn theo
nghĩa rộng nó bao gồm vốn bằng tiền, đất đai, máy móc, lao động.
Mục tiêu của hoạt động đầu tư: bao gồm những lợi ích về mặt tài chính gắn
liền với doanh nghiệp, chủ đầu tư; những lợi ích về mặt kinh tế và những lợi ích về
mặt xã hội mà do hoạt động đầu tư tạo nên.
Đối tượng của hoạt động đầu tư: đầu tư vào tài sản hữu hình (tài sản vật chất),
đầu tư vào tài sản vô hình (nghiên cứu và phát triển, dịch vụ, quảng cáo, thương
hiệu), đầu tư vào tài sản sản xuất hay đầu tư vào tài sản lâu bền.
Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật
chất, nguồn lực trí tuệ và lao động để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ
tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực,
-4-
thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy
trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế
- xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu
chuyển từ đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế.
Vốn đầu tư
Căn cứ theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng: vốn đầu tư được hiểu là
tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm
của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào trong quá trình tái sản

xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở sẵn có và tạo ra tiềm lực
mới cho nền sản xuất xã hội.
Nguồn vốn đầu tư.
Là cụm từ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao
gồm: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển.
a. Trên góc độ vĩ mô.
• Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Về mặt lý luận, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng trưởng kinh
tế đều trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận đầu tư và việc tích lũy vốn cho đầu tư là
một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho
nền kinh tế. Từ các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith trong cuốn “của cải
của các dân tộc” đã cho rằng vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số lao
động hữu dụng và hiệu quả. Việc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp phần quan
trọng trong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân của mỗi lao
động. Theo mô hình của Harrod – Domar, mức tăng trưởng của nền kinh tế phụ
thuộc trực tiếp vào mức độ gia tăng vốn đầu tư thuần.
g =∆Y/Y =∆Y/Y *∆K/∆K =∆Y/∆K *∆K/Y = 1/ICOR *I/Y
-5-
Từ đó có thể suy ra: ∆Y =1/ICOR *I
Trong đó:
∆Y: mức gia tăng sản lượng
∆K: mức gia tăng vốn đầu tư
I: mức đầu tư đơn thuần
K: tổng quy mô vốn của nền kinh tế
Y: tổng sản lượng của nền kinh tế
ICOR: hệ số gia tăng vốn – sản lượng
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ nét trong tiến
trình đổi mới của nền kinh tế nước ta thời gian qua. Với chính sách đổi mới, các

nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài ngày càng được đa dạng hóa và gia
tăng về quy mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đạt được cũng rất thỏa đáng.
Cuộc sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận dân cư ngày càng được cải thiện.
• Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những chính
sách tác động đến cơ cấu đầu tư. Trong điều hành chính sách đầu tư, nhà nước có
thể can thiệp trực tiếp như thực hiện chính sách phân bổ vốn, kế hoạch hóa, xây
dựng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua các công cụ chính sách như
thuế, tín dụng, lãi suất để xác lập và định hướng 1 cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch
chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn.
Kinh nghiệm của nhiều nước đi trước cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp
lý sẽ tạo đà cho sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng phân bổ vốn
cho các ngành khác nhau sẽ mang lại hiệu quả và kết quả khác nhau. Vốn đầu tư
cũng như tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành và các vùng kinh tế có ảnh hưởng trực
tiếp tới sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và cũng đồng thời
đến tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Không những thế, giữa đầu tư và
-6-
tăng trưởng kinh tế cũng như dịch chuyển cơ cấu kinh tế có mối quan hệ khăng khít
với nhau. Việc đầu tư vốn nhằm mục đích mang lại hiệu quả kinh tế cao, tăng
trưởng nhanh trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hình thành cơ cấu
đầu tư hợp lý. Ngược lại tăng trưởng kinh tế cao kết hợp với việc chuyển dịch cơ
cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi dào, định hướng đầu tư vào các
ngành hiệu quả hơn.
• Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghệ của đất nước
Đầu tư và đặc biệt là đầu tư phát triển trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng
và năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và các đơn vị cơ sở. Chính vì vậy,
đầu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công
nghệ của quốc gia theo cơ cấu kỹ thuật của đầu tư, trong giai đoạn vừa qua, tỷ trọng
giá trị máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư của Việt Nam chiếm khoảng 28%
(xây dựng chiếm khoảng 57%).

Cơ cấu này chưa phản ánh đúng yêu cầu CNH – HĐH, tuy nhiên nó cũng là
con số không nhỏ tạo ra năng lực công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế. Đối với đầu tư
nước ngoài, hoạt động của doanh nghiệp FDI thường gắn với các chương trình
chuyển giao công nghệ trong đó nước nhận vốn cũng có thể là điểm đến của một số
công nghệ và phương thức sản xuất mới. Đối với chi đầu tư của Nhà nước cho
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới mặc dù vẫn còn nhỏ về quy mô,
thấp về tỷ trọng (giai đoạn 2001 – 2005 là 7,6 nghỉn tỷ đồng chiếm 0,9% vốn đầu tư
toàn xã hội) nhưng ở đây cũng là một trong những biểu hiện của đầu tư và ở mức độ
nhận định nó cũng có tạo ra và tăng cường năng lực khoa học công nghệ nước ta
(đạt được những thành tựu nhất định trong lĩnh vực nông nghiệp: giống mới, công
nghệ gen,…)
• Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh
tế.
Đầu tư là một bộ phận quan trọng của tổng cầu (AD = C + I + G – M). Vì vậy,
khi quy mô đầu tư thay đổi cũng sẽ có tác động trực tiếp tới quy mô tổng cầu. Tuy
-7-
nhiên, tác động của đầu tư đến tổng cầu là ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay
đổi, sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu tăng kéo theo sự gia tăng của sản
lượng và giá cả các yếu tố đầu vào. Trong dài hạn, khi các thành quả của đầu tư đã
được huy động và phát huy tác dụng, năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ gia
tăng thì tổng cung cũng sẽ tăng lên. Khi đó sản lượng tiềm năng sẽ tăng và đạt mức
cân bằng trong khi giá cả của sản phẩm sẽ có xu hướng đi xuống. Sản lượng tăng
trong khi giá cả giảm sẽ kích thích tiêu dùng và hoạt động sản xuất cung ứng dịch
vụ của nền kinh tế.
b. Trên góc độ vi mô
Trên góc độ vi mô thì nhà đầu tư là nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và
phát triển của các cơ sở sản xuất cung ứng dịch vụ và của cả các đơn vị vô vị lợi.
Để tạo dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở đơn vị sản xuất
và cung ứng dịch vụ nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua
sắm, lắp đặt máy móc thiết bị tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác và thực

hiện các chi phí gắn liền với hoạt động trong một chu kỳ chứa các cơ sở vật chất kỹ
thuật vừa được tạo ra. Đây chính là biểu hiện cụ thể của hoạt động đầu tư đối với
các đơn vị đang hoạt động, khi các cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở này hao
mòn, hư hỏng cần phải tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ
thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động
mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã
hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi
thời. Đó chính là hoạt động đầu tư.
1.1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Đầu tư phát triển: là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật
chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ
tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn
-8-
nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này
nhằm duy trì tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia,
là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật
chất, kỹ thuật của nền kinh tế. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hoạt
động đầu tư là một bộ phận quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất,
kỹ thuật hiện có và vì thế là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của
các doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư
khác, đó là:
− Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê đọng trong
suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của hoạt động
đầu tư phát triển bởi vì trong suốt quá trình đầu tư nó vẫn nằm dưới dạng các
công trình dở dang, do vốn lớn nên các nhà đầu tư cần phải cân nhắc lựa
chọn đầu tư vào đâu cho có hiệu quả cao nhất, phải nghiên cứu thị trường,…

Vốn nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư nên ảnh hưởng tới chi phí sử
dụng, quản lý vốn (thời gian, chi phí, chất lượng) và khả năng cạnh tranh
trên thị trường nếu vốn nằm khê đọng quá dài thì sẽ bỏ lỡ thời cơ và cơ hội
cạnh tranh.
− Hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài: thời gian để tiến hành
một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng
thường kéo dài trong nhiều năm tháng, nó phụ thuộc vào giai đoạn thực hiện
đầu tư. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ vốn
hoặc thanh lý tài sản cũng kéo dài, điều này chịu tác động của cung cầu thị
trường, của các yếu tố đầu vào hay đầu ra của dự án. Thời gian thực hiện đầu
tư dài còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố không dự đoán ảnh hưởng đến quá
-9-
trình thực hiện: môi trường, điều kiện tự nhiên, pháp lý, kinh tế, chính trị.
Điều này có thể thay đổi kết quả và hiệu quả của đầu tư.
− Hơn nữa thời gian của hoạt động đầu tư phát triển kéo dài nên mang tính rủi
ro cao. Vì vậy cần phải phân tích kỹ để loại trừ hạn chế tới mức thấp nhất các
rủi ro như: trong trường hợp rủi ro nhất thì hiệu quả của dự án là bao nhiêu,
những rủi ro nào có thể xảy ra nhất; trong trường hợp thuận lợi nhất thì hiệu
quả đạt được bao nhiêu để bù lại trong trường hợp rủi ro. Tuy nhiên đối với
những yếu tố rủi ro bất định, bất khả kháng thì chúng ta phải chấp nhận.
− Các thành quả của các hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài
nhiều năm, có khi hàng trăm năm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh
viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng (kim tự tháp Ai Cập, Vạn lý
trường thành ở Trung Quốc, Awngcovat ở Campuhcia,…). Điều này nói lên
giá trị lớn của các thành quả hoạt động đầu tư phát triển.
− Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ
hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do các điều kiện về địa lý,
địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác
dụng sau này của các kết quả đầu tư.
Ví dụ: quy mô đầu tư để xây dựng nhà máy sang tuyển than ở khu vực có

mỏ than tùy thuộc rất nhiều vào trữ lượng của mỏ than. Nếu trữ lượng của
mỏ ít thì quy mô của nhà máy cũng không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy
hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự
kiến trong dự án. Vì thế cần có chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư đúng
đắn và đầu tư phải theo quy hoạch, kế hoạch, cần phải có cơ sở khoa học để
lựa chọn địa điểm mà doanh nghiệp hoạt động trên đó. Nếu công trình không
tiến hành cẩn thận có thể ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế không chỉ một
hai năm mà là lâu dài.
− Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao
đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này được thể hiện trong
việc soạn thảo các dự án đầu tư (lập dự án đầu tư) có nghĩa là phải thực hiện
đầu tư theo dự án được soạn thảo với chất lượng tốt. Đó là quá trình thực
hiện đầu tư và quá trình vận hành khai thác. Quá trình thực hiện đầu tư ảnh
-10-
hưởng tới việc lựa chọn địa điểm, đến giá thành, chi phí xây dựng (giá đất)
như chọn những nơi địa hình bằng phẳng sẽ giảm được chi phí san bằng,…
Quá trình vận hành khai thác ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn cao nếu
địa lý thuận lợi, phải cân đối giữa giá thành xây dựng công trình, chi phí vận
chuyển và chi phí cung cấp sản phẩm với khả năng tiêu thụ yếu tố đầu ra.
Ngoài ra việc lựa chọn địa điểm còn ảnh hưởng đến dân cư, địa bàn, môi
trường sống.
1.1.4. Phân loại đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Để tạo thuận lợi cho quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả
kinh tế xã hội cao, có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản mục sau:
− Trên góc độ quản lý vĩ mô, vốn đầu tư được phân thành bốn khoản mục lớn
như sau:
+ Những chi phí tạo ra tài sản cố định (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn
cố định).
+ Những chi phí tạo ra tài sản lưu động (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn
lưu động) và các chi phí thường xuyên gắn với một chu kỳ hoạt động

của tài sản cố định vừa được tạo ra.
+ Những chi phí chuẩn bị đầu tư chiếm khoảng 0,3 – 15% vốn đầu tư.
+ Chi phí dự phòng.
− Trên góc độ quản lý vi mô tại các cơ sở, những khoản mục trên đây lại được
tách thành những khoản chi tiết hơn:
+ Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm: chi phí ban đầu cho đất
đai; chi phí xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng; chi phí mua
sắm, lắp đặt thiết bị, dụng cụ mua sắm, phương tiện vận chuyển; chi phí
khác.
+ Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm: chi phí nằm trong giai
đoạn sản xuất như chi phí mua nguyên vật liệu, trả lương người lao
động, chi phí điện nước…; chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm
có sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hóa bán chịu, vốn bằng tiền; chi phí
chuẩn bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứu cơ hội đầu tư, chi phí
nghiên cứu tiền khả thi, chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án
đầu tư; chi phí dự phòng.
-11-
Qua phân tích trên ta thấy tăng số lượng vốn là rất quan trọng nhưng thường
có giới hạn về nguồn, còn nâng cao hiệu quả đầu tư quan trọng hơn vì vừa tốn ít
vốn vừa gần như không có giới hạn.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư trên cơ sở giảm suất đầu tư xuống là nhiệm vụ rất
khó khăn. Muốn vậy, cần phải có giải pháp quyết liệt ở tất cả các khâu của quá trình
đầu tư và đặc biệt quan tâm đến khu vực vốn đầu tư nhà nước.
Trước hết ở khâu quy hoạch chúng ta cần phải quy hoạch đồng bộ, phải kết
hợp quy hoạch theo ngành và theo vùng lãnh thổ tránh trùng chéo, dàn trải, đồng
thời phải có tầm nhìn để tránh việc vay vốn đầu tư xây dựng đưa vào hoạt động
chưa được mấy năm, chưa trả được nợ đã phải di chuyển khỏi khu vực đông dân
hoặc không gần nguồn nguyên liệu…
Khắc phục tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng hiện đang ở mức rất lớn
mà báo chí, chính phủ, quốc hội đã đề cập rất nhiều. Khắc phục tình trạng khép kín

để đảm bảo tính minh bạch, công khai.
Khắc phục tình trạng thi công kéo dài làm cho công trình vừa chậm đi vào
hoạt động, vừa lỡ thời cơ, trong khi lãi chồng lên vốn vay.
Giảm thiểu chi phí giải phóng mặt bằng hiện đang quá lớn, ở những công trình
còn lớn hơn cả vốn đầu tư cho công trình chính.
1.1.5. Nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư. Đứng trên góc
độ vĩ mô, nguồn vốn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong
nước và nguồn vốn nước ngoài.
a. Nguồn vốn đầu tư trong nước: được hình thành từ phần tích lũy của nội bộ
nền kinh tế. Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn
vốn khu vực dân doanh:
Nguồn vốn nhà nước bao gồm: nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quan trọng cho hoạt động
đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam thời gian qua.
• Nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Đây là nguồn đầu tư chủ yếu, quyết định sự phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở
kỹ thuật xã hội, là nền tảng để thực hiện CNH – HĐH đất nước. Nhà nước của bất
kỳ quốc gia nào cũng quan tâm đến hoạt động đầu tư này. Đặc biệt là ở các nước
-12-
đang phát triển như nước ta là yếu tố vật chất có ý nghĩa quyết định để thực hiện tốt
nhất các chủ trương, chính sách phát triển KTXH của đất nước. Ở Việt Nam đây là
điều kiện vật chất ổn định và củng cố chế độ chính trị, nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước cũng như không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Vốn ngân sách đầu tư
hiện nay chia làm hai loại:
− Vốn ngân sách TW dùng để đầu tư xây dựng các dự án (trồng rừng
phòng hộ, rừng đầu nguồn, các công trình chủ yếu của nền kinh tế…)
− Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các địa phương đầu tư vào những
vấn đề quan trọng của địa phương.

Trong những năm gần đây, quy mô vốn đầu tư nhà nước không ngừng gia tăng
nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau. Trong những năm 2001 – 2004 đầu tư cho
lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chiếm khoảng 25%, công nghiệp 7,9%, GTVT và
bưu chính viễn thông là 28,7%.
Tuy nhiên nguồn vốn này có một số hạn chế như hiệu quả sử dụng thấp, tỷ lệ
thất thoát cao, vốn đầu tư thường dàn trải, không trọng tâm trọng điểm, hệ thống
các cơ quan quản lý vốn ngân sách chồng chéo, chức năng không rõ giữa quản lý
nhà nước và quản lý kinh doanh. Do vậy chúng ta cần có một số giải pháp như làm
thế nào để tăng nền kinh tế cao và liên tục, tận thu chống thất thu thuế, phân bổ
ngân sách cho chi đầu tư và chi thường xuyên cho hợp lý.
• Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển
Tín dụng đầu tư là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước là người đi vay để đảm
bảo các khoản chi của ngân sách đồng thời nhà nước cũng là người cho vay để đảm
bảo các chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế. Là nguồn vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao
cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Ngoài ra nó còn có tác dụng khuyến khích các
doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả đầu tư vì với cơ chế tín dụng các doanh
nghiệp vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Do có yếu tố ưu đãi nên
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư theo định hướng của nhà nước.
Trong những năm gần đây đã sử dụng nguồn vốn này hỗ trợ cho các chương
trình đầu tư lớn. Đầu tư cho các dự án thuộc các ngành công nghiệp và xây dựng
chiếm 51,6%, vào các ngành nông lâm thủy sản chiếm 16,2%, GTVT chiếm 28,8%,
-13-
các dự án khác chiếm 4,2%. Quá trình này góp phần tích cực trong việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
• Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích
lũy của các doanh nghiệp dân doanh, của hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ khu vực
kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được
huy động triệt để. Việc phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân

hàng thương mại quốc doanh cho thấy chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được
hàng nghìn tỷ đồng và hàng chục tỷ đồng từ khu vực dân cư. Cụ thể năm 2010, tổng
giá trị trong năm đạt 47 nghìn tỷ đồng, tăng 76% so với năm 2009. Trong đó, trái
phiếu doanh nghiệp của các doanh nghiệp sản xuất, thương mại và bất động sản
chiếm tỷ trọng 55%; các ngân hàng thương mại chiếm khoảng 45%. Theo báo cáo,
tính đến 31/12/2011, tổng số doanh nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp là
622.977, số lượng đăng ký mới đạt 77.548 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký đạt
trên 513 nghìn tỷ đồng.
Vốn của hộ gia đình: là phần thu nhập của hộ gia đình không bị tiêu dùng,
được tiết kiệm để đầu tư và tiền tích lũy từ các hoạt động kinh doanh mà không phải
là công ty.
• Thị trường vốn:
Là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán chứng khoán và các giấy ghi nợ trung
và dài hạn. Đây không phải là các sự kiện mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ
có giá từ tay của một chủ thể này sang tay một chủ thể khác một cách đơn thuần nếu
nhìn nhận từ bên ngoài. Về thực chất, đây là quá trình vận động tư bản ở hình thái
tiền tệ - là quá trình chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường vốn
mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn tiết
kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp,
các tổ chức tài chính, chính phủ và chính quyền địa phương tạo ra một nguồn
vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một
phương thức huy động nào có thể làm được. Gần đây việc phát hành trái phiếu
doanh nghiệp ra công chúng đã huy động được một nguồn vốn đáng kể. Kênh
-14-
huy động này ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia. Từ gần 3.000 tài khoản
của nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán khi mới mở cửa vào năm 2000, tính
đến tháng 12/2011, con số này đã tăng lên 1.17 triệu tài khoản, tính đến cuối năm 2011,
đã có 708 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai Sở giao dịch chứng khoán và
chứng chỉ quỹ, với tổng số lượng chứng khoán niêm yết đạt 26,82 tỷ đơn vị. Tổng giá trị
vốn hóa thị trường tính tại thời điểm ngày 31/12/2011 đạt 535,673 nghìn tỷ đồng, suy

giảm 32% so với thời gian trước đó.
b. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là
dòng lưu chuyển vốn quốc tế, đó là quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính
giữa các quốc gia trên thế giới. Theo tính chất lưu chuyển của vốn, có thể phân
loại các nguồn vốn nước ngoài chính như sau:
• Tài trợ phát triển chính thức ODF:
Nguồn vốn này bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức
tài trợ phát triển khác. Dòng vốn này phải qua chính phủ quốc gia tiếp nhận hoặc
được bảo lãnh chính thức, dòng vốn phải đáp ứng cho đầu tư phát triển, duy trì và
tạo mới để đảm bảo sự hoạt động của nền kinh tế và các cơ sở, nó không bao hàm
các nguồn vốn mang tính chất dài hạn, trong đó ODA chiếm phần lớn trong ODF.
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ
nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các
hình thức tài trợ khác ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF
nào khác. Nguồn vốn này thường lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với
việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy
nhiên tiếp nhận vốn này thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình
trạng nợ nần chồng chất nếu sử dụng không hiệu quả vốn vay nếu thực hiện
không nghiêm ngặt việc trả nợ vay.
Thời gian qua, việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH ở Việt
Nam đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi. Theo báo
cáo từ Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KH&ĐT), hiện Việt Nam
có 51 nhà tài trợ, gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương với
các chương trình ODA thường xuyên. Tổng vốn ODA cam kết mà các nhà tài trợ
-15-
dành cho Việt Nam tính đến thời điểm tháng 12/2011 đạt trên 64,322 tỷ USD. Mức
cam kết này cho thấy, sự đồng tình và ủng hộ chính trị mạnh mẽ của cộng đồng
quốc tế đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam.
Mặc dù có tính ưu đãi cao song sự ưu đãi của loại vốn này thường đi kèm với

các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển
giao vốn và thị trường …). Vì vậy chúng ta cần xem xét kỹ khi tiếp nhận viện trợ và
cần có nghệ thuật thỏa thuận để có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có
tính nguyên tắc.
• Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại
Điều kiện huy động loại vốn này không dễ dàng như nguồn vốn ODA. Tuy
nhiên nó lại có ưu điểm rõ ràng là không gắn liền với các ràng buộc về chính trị xã
hội. Mặc dù vậy thủ tục vay tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt,
mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hàng, nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương
mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và
thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể dùng để đầu tư
phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền
kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng
sủa. Đối với Việt Nam việc tiếp cận với các nguồn vốn này vẫn còn khá hạn
chế.
• Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với
các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển. Nguồn vốn này khác cơ bản
với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận này không phát sinh nợ
cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận
được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu
tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước
nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những
ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghiệp hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn
vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình CNH, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư. Do vậy để sử dụng
-16-
hiệu quả vốn đầu tư FDI tùy thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý

sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không phải ở ý đồ của người đầu tư.
Không những là nguồn bổ sung vốn quan trọng, nguồn vốn FDI còn đóng
góp vào bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế. Theo đánh giá, tỷ trọng đóng góp của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào GDP có xu hướng tăng dần qua các năm. Năm 2000 đạt 12,7%, giai đoạn
2001-2005 tăng cao hơn, đạt mức bình quân khoảng 14,5%/năm. Tỷ trọng này tiếp
tục tăng trong các năm 2006-2009 với các con số là 16,98%-18,33%. Bên cạnh đó
nó còn đóng góp vào ngân sách một phần đáng kể, đặc biệt nó góp phần tích cực
vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông
vận tải, bưu chính viễn thông … dần dần hình thành khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao góp phần thực hiện CNH – HĐH và đô thị hóa các khu vực phát
triển, hình thành các khu dân cư mới, tạo việc làm cho người lao động tại các địa
phương.
• Thị trường vốn quốc tế
Với xu hướng toàn cầu hóa, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường
vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc gia đã tạo ra vẻ đa dạng của các nguồn
vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn
cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối
lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn
các luồng vốn khác.
Đây là phần tích lũy từ các đối tượng kinh tế ở nước ngoài được chính phủ và
doanh nghiệp Việt Nam huy động trong hoạt động đầu tư phát triển của mình thông
qua hình thức phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty (ra nước ngoài
hoặc phát hành trên nội bộ Việt Nam nhưng cho phép người nước ngoài mua).
Đối với Việt Nam, đây là một hình thức huy động vốn khá mới mẻ và còn
phức tạp. Tuy nhiên nguồn vốn này có thể huy động với số lượng lớn trong thời
gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế mà không bị ràng buộc về điều
kiện tín dụng, tạo cho Việt Nam tiếp cận với thị trường vốn quốc tế …, bên cạnh đó
hệ số tín nhiệm của Việt Nam thấp nên nếu phát hành thì trái phiếu của Việt Nam sẽ
chịu lãi suất ở mức cao và Việt Nam vẫn còn quá ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này.

-17-
Bởi vậy đối với hình thức huy động này chúng ta cần phải nghiên cứu, lựa
chọn loại hình trái phiếu phát hành, thời gian đáo hạn thị trường phát hành và nhà
bao tiêu phù hợp với điều kiện Việt Nam.
1.2. Nội dung chủ yếu của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
1.2.1. Đầu tư phát triển tài sản cố định
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bên cạnh sức lao động và đối
tượng lao động, các doanh nghiệp còn cần phải có tư liệu lao động. Trong đó, bộ
phận tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài trong quá trình sản
xuất kinh doanh được gọi là TSCĐ.
TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu và các tài
sản khác có giá trị lớn, tham gia nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, khi tham gia
vào quá trình sản xuất kinh doanh vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu,
nhưng giá trị của TSCĐ đã bị giảm dần và được chuyển vào giá trị sản phẩm, dưới
hình thức khấu hao.
Tài sản cố định trong doanh nghiệp, có nhiều công dụng khác nhau trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, tùy theo mục đích nghiên cứu, để quản lý tốt cần
phải phân loại tài sản cố định. Phân loại tài sản cố định là việc sắp xếp, các tài sản
cố định trong doanh nghiệp thành các loại, các nhóm tài sản cố định có cùng tính
chất, đặc điểm theo các tiêu thức nhất định. Trong doanh nghiệp thường phân loại
TSCĐ theo một số tiêu thức sau:
• Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện:
Tài sản cố định hữu hình: Là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể như
đất đai, nhà cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị sản xuất, thiết bị
truyền dẫn, dụng cụ quản lý, cây lâu năm và TSCĐ hữu hình khác,…
Tài sản cố định vô hình:Là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể
như giá trị quyền sử dụng đất, nhãn hiệu hàng hóa, bản quyền, bằng sáng chế,
phần mềm máy vi tính; giấy phép, giấy phép nhượng quyền, quyền phát hành,…
Cách phân loại này dùng làm căn cứ cho việc đề ra các quyết định đầu tư,
hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư, cho phù hợp với tình hình thực tế của

doanh nghiệp.
• Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế
Căn cứ theo công dụng kinh tế, TSCĐ được phân thành 2 loại:
Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh: Là những TSCĐ tham
gia trực tiếp, hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
-18-
như nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị động lực, máy móc thiết bị sản xuất,. . và những
TSCĐ không có hình thái vật chất khác.
Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh: Là những TSCĐ, dùng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh phụ trợ trong doanh nghiệp; và những TSCĐ
dùng cho phúc lợi công cộng gồm nhà cửa, máy móc thiết bị sản xuất, phục vụ
cho sản xuất kinh doanh phụ; nhà cửa và phương tiện dùng cho sinh hoạt văn
hóa, nghiên cứu, và các công trình phúc lợi tập thể.
Giúp người quản lý thấy được kết cấu TSCĐ theo công dụng kinh tế và trình
độ cơ giới hóa của doanh nghiệp từ đó xác định được mức độ đảm bảo đối với
nhiệm vụ sản xuất và có phương hướng cải tiến tình hình trang bị kỹ thuật, nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định.
• Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng
Tài sản cố định đang dùng: Là những TSCĐ đang sử dụng cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh, hay các hoạt động khác của doanh nghiệp như hoạt
động phúc lợi sự nghiệp, hay an ninh quốc phòng.
Tài sản cố định chưa cần dùng: Là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, hay các hoạt động khác của doanh nghiệp, nhưng hiện tại
chưa đưa vào sử dụng đang được dự trữ để sử dụng cho kỳ sau.
Tài sản cố định không cần dùng: Là những TSCĐ không còn sử dụng được
cho sản xuất của doanh nghiệp, vì không còn phù hợp với qui trình sản xuất
hiện nay của doanh nghiệp.
• Phân loại tài sản cố định theo quyền sở hữu
Tài sản cố định tự có: Là những TSCĐ do doanh nghiệp tự mua sắm, xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách cấp, vốn vay, vốn tự bổ sung và vốn góp liên

doanh.
Tài sản cố định đi thuê: Là những TSCĐ mà doanh nghiệp thuê của các
doanh nghiệp khác (không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp).TSCĐ đi thuê
gồm 2 loại: TSCĐ thuê hoạt động và TSCĐ thuê tài chính.
+ TSCĐ đi thuê hoạt động: doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử
dụng theo các quy định trong hợp đồng thuê. Doanh nghiệp không
có trích khấu hao đối với TSCĐ này, chi phí thuê TSCĐ được hạch
toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
-19-
+ TSCĐ thuê tài chính: doanh nghiệp phải theo dõi, quản lý, sử dụng và
trích khấu hao như đối với TSCĐ thuộc sở hữu của mình và thực hiện
đầy đủ các nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng thuê TSCĐ.
Vai trò của tài sản cố định
Là một trong những cơ sở đầu tiên được hình thành trong quá trình từ thời
điểm doanh nghiệp bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh. Bất kỳ doanh nghiệp nào
khi bắt đầu đi vào hoạt động cũng đều phải trải qua các giai đoạn tiền đề sau:
+ Chi phí ban đầu về đất đai: tiền thuê đất, mua đất, đền bù giải phóng
mặt bằng.
+ Chi phí xây dựng, lắp đặt nhà xưởng công trình, hạ tầng cơ sở.
+ Chi phí mua sắm máy móc phương tiện vận tải.
+ Chi phí mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất.
Cùng với các chi phí khác, các chi phí cho tài sản cố định hữu hình thực sự trở
thành một trong những yếu tố không thể thiếu được trong quá trình hình thành, vận
hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Một khi hệ thống nhà xưởng, văn phòng và vật kiến trúc không đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động quản lý, sẽ gây ra một sự cản trở rất
lớn tới sự thành công của doanh nghiệp. Do đặc điểm được sử dụng trong một thời
gian dài nên tầm quan trọng của hệ thống nhà xưởng lại càng lớn, cần phải tính toán
một cách kỹ lưỡng để tránh gây ra những hậu quả lâu dài.
Đầu tư vào máy móc thiết bị công nghệ lại là một trong những hoạt động cần

chú ý hàng đầu. Nhất là trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và
thay đổi nhanh chóng như hiện nay. Một dây chuyền công nghệ sản xuất thích hợp
với các công nghệ mới đạt được các hiệu quả, sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được
sản lượng lớn với giá thành thấp và chiếm lĩnh được thị trường.
Hệ thống phương tiện vận tải cũng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong rất nhiều doanh nghiệp, nó quyết định
đến doanh số bán hàng, khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu thị trường, đặc biệt
với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Do đó các doanh nghiệp không
những cần thiết phải chú trọng hoạt động đầu tư cho hệ thống phương tiện giao
thông vận tải mà còn phải chú trọng vấn đề bảo hiểm tài sản, đặc biệt đối với cả các
loại hình phương tiện vận tải đường thủy như tàu thủy, xà lam cũng như đối với các
phương tiện cơ giới đường bộ thường xuyên phải đối mặt với các rủi ro khác.
-20-
Nội dung đầu tư phát triển cho tài sản cố định hữu hình của doanh nghiệp.
• Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là toàn bộ chi phí bỏ ra để đạt được mục đích đầu
tư, bao gồm:
+ Chi phí cho việc khảo sát quy hoạch công trình chuẩn bị đầu tư.
+ Chi phí thiết kế và xây dựng.
+ Chi phí mua sắm lắp đặt thiết bị.
+ Các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán.
+ Chi phí dự phòng (bằng 10% tổng dự toán).
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản có thể chia ra theo các mục sau:
Chi phí xây dựng và lắp đặt bao gồm:
+ Chi phí phá hủy tháo dỡ các kiến trúc cũ.
+ Chi phí san lấp mặt bằng xây dựng.
+ Chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công.
+ Chi phí xây dựng các hạng mục công trình như làm mới mở rộng cải
tạo và khôi phục các công trình xây dựng.
+ Chi phí lắp đặt thiết bị bao gồm việc lắp đặt trang thiết bị vật dụng, các

hoạt động thăm dò phục vụ cho hoạt động lắp đặt đó.
+ Các chi phí di chuyển thiết bị thi công và vật liệu, lực lượng xây dựng.
Chi phí mua sắm thiết bị máy móc bao gồm:
+ Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ và các trang thiết bị khác phục vụ
sản xuất, làm việc, sinh hoạt.
+ Chi phí vận chuyển từ cảng hoặc từ nơi mua đến công trình, chi phí lưu
kho lưu bãi, chi phí bảo quản bảo dưỡng tại kho, chi phí gia công sửa
chữa, chi phí kiểm tra thiết bị máy móc khi tiến hành lắp đặt.
+ Các loại thuế và phí bảo hiểm thiết bị công trình cần thiết.
Chi phí liên quan đến đất đai:
+ Tiền thuê đất, hoặc tiền chuyển quyền sử dụng đất.
+ Chi phí đền bù và tổ chức thực hiện trong quá trình đền bù.
• Mua sắm tài sản cố định khác dùng cho hoạt động sản xuất.
Doanh nghiệp cần ý thức được tầm quan trọng của việc mua sắm và đổi mới
trang thiết bị theo hướng hiện đại, nhập các máy móc thiết bị hoặc mua trong nước
các loại máy trong nước đã sản xuất với giá cả và công nghệ phù hợp với điều kiện
của doanh nghiệp cũng như điều kiện khí hậu, từng bước tăng tỷ lệ nội địa hóa của
sản phẩm công nghệ.
Chi phí này bao gồm:
+ Chi phí cho thiết bị máy móc cần lắp toàn bộ hoặc từng bộ phận trên
nền máy cố định.
+ Chi phí cho thiết bị không cần lắp đặt trên nền máy cố định.
-21-
+ Chi phí cho các máy móc thiết bị dụng cụ phục vụ cho quá trình quản
lý, kinh doanh, báo cáo tổng hợp.
Vốn đầu tư sửa chữa lớn tài sản cố định bao gồm:
+ Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định: sửa chữa các tài sản hư hỏng sau
một thời gian sử dụng mà cần vốn lớn.
+ Chi phí nâng cấp tài sản cố định: nâng cấp các tài sản cố định cho phù
hợp với sự biến động của khoa học công nghệ, giúp cải tiến sản phẩm

tăng năng suất để hạ giá thành, tăng hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp cả trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong
hoạt động quản lý.
1.2.2. Đầu tư vào hàng tồn trữ.
Ta thường nói một cách đơn giản hàng dự trữ của doanh nghiệp bao gồm tồn
kho nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm. Tuy nhiên trên thực tế để
nghiên cứu kỹ về vấn đề này cần phải tiếp cận nó ở những góc độ khác nhau và đặt
trong những mối quan hệ cụ thể.
Xuất phát từ vai trò của hàng dự trữ đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, nó được sử dụng để đảm bảo sự ổn định cho sản xuất và đáp ứng nhu cầu
của khách hàng. Vì vậy đầu tư vào hàng tồn trữ là việc làm không thể thiếu đối với
sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Dựa trên cơ sở lý luận, vai trò của
hàng dự trữ có bốn mặt chủ yếu, biểu hiện cụ thể ở bốn loại hàng tồn kho cơ bản:
+ Quay vòng tồn kho: mỗi khi sản xuất và đặt hàng là một lần đặt ra số lượng
lô nhất định, mà không phải là mỗi lần một lô, kiểu tồn kho được hình thành
từ tính chu kỳ của số lượng lô được gọi là quay vòng tồn kho.
+ Lượng tồn kho dự phòng: hay còn gọi là lượng tồn kho bảo hiểm, là lượng
tồn kho nhất định mà nhà sản xuất chuẩn bị để ứng phó với tính không ổn
định của nhu cầu và tính không ổn định của cung ứng, nhằm tránh sự tổn thất
do thiếu hàng gây nên. Nếu như nhà sản xuất có thể dự đoán được về sự thay
đổi về nhu cầu trong tương lai hoặc có thể xác định được số lượng và thời
gian hàng tương ứng, thì không cần phải thiết lập lượng hàng tồn kho dự
phòng. Số lượng tồn kho dự phòng ngoài việc chịu ảnh hưởng của sự bất ổn
định về nhu cầu và cung ứng, còn liên quan đến việc doanh nghiệp hy vọng
-22-
đáp ứng kịp nhu cầu của khách hàng. Đây là nhân tố xem xét chính khi
đưa ra quyết sách về lượng tồn kho dự phòng.
+ Tồn kho vận chuyển: là sự tồn kho giữa hai đơn vị công tác hoặc hai tổ
chức tiêu thụ gần nhau, bao gồm lượng tồn kho trong quá trình vận
chuyển và lượng tồn kho tạm dừng giữa hai nơi. Tồn kho vận chuyển

được quyết định bởi số lượng lô vận chuyển và thời gian vận chuyển.
+ Lượng tồn kho dự định theo thời kỳ: do đặc điểm mang tính thời vụ của
nhu cầu hoặc tính thời vụ của việc mua sắm, nên doanh nghiệp buộc
phải sản xuất, tích trữ và bán hàng vào mùa bán ế để duy trì và tăng
cường phục vụ khách hàng vào mùa bán hàng chạy hoặc tăng cường
lượng tồn kho của mùa thu hoạch, ví dụ như nông sản, để dự trù sản
xuất cho cả năm còn gọi là tồn kho theo thời kỳ. Sự cần thiết của tồn kho
theo thời kỳ ngoài nguyên nhân về mùa vụ còn xuất phát từ việc bảo
đảm sự ổn định cho sản xuất. Do vậy, nguyên nhân quyết định lượng
hàng tồn kho dự định theo thời kỳ, ngoài chi phí mang tính cơ hội của
việc khan hàng hết hàng, còn phải xét đến chi phí tăng thêm khi sản
xuất ổn định (chi phí khấu hao, khi thiết bị sản xuất ngừng nghỉ, lương
công nhân rảnh rỗi và các chi phí phát sinh khác…)
Dựa trên cơ sở thực tiễn, vai trò của hàng dự trữ được biểu hiện trong
mối quan hệ giữa việc khống chế lượng hàng dự trữ trong kho và hai loại nhu
cầu:
Nhu cầu độc lập: là nhu cầu do thị trường quyết định. Ví dụ như nhu cầu
đối với các thành phẩm như xe ô tô, máy giặt gia dụng và linh kiện dễ hỏng
như tấm phanh xe, vòng đệm cao su. Những nhu cầu này lúc nào thì sẽ nảy
sinh? Mỗi lần bao nhiêu? Không theo kế hoạch sắp xếp của doanh nghiệp nó
được gọi là nhu cầu độc lập. Tuy nhiên với phạm vi lao động và xu hướng thay
đổi nhất định trong một khoảng thời gian cùng những đặc trưng thay đổi, nhu
cầu này có thể dự đoán thông qua những số liệu lịch sử và các nhân tố tương
quan khác.
Nhu cầu phụ thuộc: là nhu cầu do nhu cầu của sản phẩm cuối cùng hay
hạng mục khác quyết định, nó có thể đoán trước và có thể khống chế được. Ví
-23-
dụ như: với một số lượng máy giặt cần sản xuất cho trước, thì số lượng nhu
cầu của nguyên vật liệu hoặc linh kiện như thùng giặt, máy định giờ, động cơ
điện, hoàn toàn có thể được quyết định căn cứ vào linh kiện, vì vậy nó được gọi

là nhu cầu phụ thuộc.
Tóm lại, nhu cầu xuất phát từ bên ngoài doanh nghiệp hay từ thị trường
là nhu cầu độc lập, còn gọi là nhu cầu khách hàng, những nhu cầu này nảy
sinh từ yêu cầu sản xuất bên trong doanh nghiệp gọi là nhu cầu phụ thuộc, hay
còn gọi là nhu cầu sản xuất. Nhu cầu độc lập có tính tùy cơ ứng biến cho nên
chỉ có thể dựa trên dự toán để tính toán. Nhu cầu phụ thuộc có tính xác định,
đặc trưng thay đổi theo thời gian đã được biết trước, vì vậy không cần dự toán
mà chỉ cần xác định theo kế hoạch sản xuất. Đáp ứng sự khác nhau về mặt tính
tồn kho của hai loại nhu cầu. Tức là do tính chất tùy cơ của nhu cầu độc lập
mà ta cần phải thiết lập lượng hàng tồn kho dự phòng nhằm tránh tổn thất do
thiếu hàng. Do tính xác định của nhu cầu phụ thuộc, về mặt lý thuyết thì không
cần thiết lập lượng tồn kho dự phòng, hơn nữa lý tưởng nhất là tất cả những
lượng tồn kho sản xuất đều nên ở dạng bán thành phẩm. Chính sự khác nhau
này đã quy định số lượng từng loại hàng dự trữ ở những thời điểm khác nhau
của chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời khẳng định lại vai trò rất
quan trọng của hàng dự trữ và vấn đề khống chế hàng dự trữ trong việc quay
vòng vốn, tiết kiện chi phí, ổn định sản xuất và đáp ứng nhu cầu luôn biến đổi
của khách hàng.
Đầu tư vào hàng dự trữ có thể được phân thành 3 loại chi phí chủ yếu sau:
Chi phí bảo tồn hàng được tạo bởi:
+ Chi phí cơ hội sử dụng vốn: thông thường được xác định dựa trên
tỷ lệ lãi suất đầu tư, trong tình huống đơn giản hóa, có thể sử dụng
tỷ lệ lãi suất với kỳ hạn tương ứng để thay thế.
+ Chi phí bảo hiểm và chi phí hao mòn cơ sở hạ tầng kho bãi…
+ Chi phí mất mát, hư hỏng và không có hiệu quả của hàng tồn. Chi
phí về mặt này có sự chênh lệch rất lớn dựa trên tính chất khác
-24-
nhau của hàng tồn, ví dụ như lỗi của hàng điện tử tương đối cao,
mà chi phí tổn thất của thực phẩm lại còn cao hơn.
Do chi phí cơ hội của vốn và chi phí hỏng hóc, mất hiệu quả luôn

chiếm đa số tỷ lệ của phí bảo tồn. Vì vậy các doanh nghiệp thường theo
thói quen, đem chi phí bảo tồn thể hiện là hình thức tỷ lệ thuận với giá cả
mua bán của đơn vị hàng tồn.
Chi phí đặt hàng
Là chi phí bình quân để xử lý nghiệp vụ đặt hàng, bao gồm các tư liệu kỹ thuật
sản phẩm cần thiết như sổ ghi chép, thông tin, phán đoán và lương nhân viên đặt
hàng, đặc điểm của nó là không liên quan đến số lượng hàng đặt. Trên lĩnh vực sản
xuất, chi phí này là chi phí sản xuất và điển hình máy móc khi thay đổi linh kiện và
tác nghiệp, gọi là chi phí chuyển đổi tác nghiệp và chi phí lắp đặt.
Chi phí thiếu hàng
Là những tổn thất do thiếu hàng gây nên. Từ góc độ bán hàng nếu thiếu
hàng cung cấp, khách hàng sẽ chuyển sang đặt hàng của doanh nghiệp khác và
hơn nữa uy tín của doanh nghiệp cũng bị tổn hại nghiêm trọng. Từ góc độ sản
xuất, trong quá trình sản xuất, thiếu hàng dẫn đến việc ngừng sản xuất đợi
nguyên liệu, ứ đọng bán thành phẩm, kéo dài thời gian giao hàng và dẫn đến
ngưng ca… chi phí của nó được tính lần lượt với ảnh hưởng của hoạt động
tương ứng.
1.2.3. Đầu tư vào nghiên cứu đổi mới và phát triển KHKT – CN
Theo quan điểm hiện đại, có thể hiểu: đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển
khoa học kỹ thuật là hình thức của đầu tư phát triển nhằm hiện đại hóa dây chuyền
công nghệ và trang thiết bị cũng như trình độ nhân lực, tăng năng lực sản xuất kinh
doanh cũng như cải tiến đổi mới sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, đây cũng là hoạt động
đầu tư vào lĩnh vực phần mềm của công nghệ như thông tin, thương hiệu và thể chế
doanh nghiệp.
Về đầu tư phát triển phần cứng của khoa học kỹ thuật – công nghệ ở doanh
nghiệp có nghĩa là hoạt động đầu tư phát triển những dây chuyền máy móc, trang
thiết bị hiện đại. Trước tiên là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để tiếp nhận dây
chuyền máy móc thiết bị mới. Hai là, thực hiện đầu tư vào việc nhập khẩu dây
-25-
chuyền sản xuất phù hợp. Ba là thực hiện việc tiếp nhận công nghệ của dây chuyền

máy móc dựa vào công nghệ được tiếp nhận.
Về đầu tư phát triển phần mềm của khoa học kỹ thuật – công nghệ ở doanh
nghiệp có nghĩa là hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực, phát triển công nghệ
bao gồm thương hiệu, bí quyết kinh nghiệm doanh, uy tín …, và phát triển cơ cấu
thể chế tổ chức.
Về công nghệ, cần tiến hành nội dung như sau: thứ nhất, là doanh nghiệp
có thể mua công nghệ theo các cách khác nhau đó là:
Mua đứt công nghệ tức là công nghệ thuộc quyền sở hữu độc quyền của
doanh nghiệp, doanh nghiệp là người duy nhất có quyền quyết định về công
nghệ đó. Từ đó doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ
hiệu quả nhất, tốt nhất, tạo lợi thế cạnh tranh cao nhất cho doanh nghiệp. Tuy
nhiên trong thực tế các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực thi điều này rất
khó, mặt khác việc mua đứt công nghệ thường gặp rủi ro lớn vì chưa hẳn công
nghệ là tốt nhất. Nếu trong tương lai doanh nghiệp chưa kịp khấu hao hết công
nghệ thì đã xuất hiện công nghệ mới tốt hơn… chính vì thế mà người ta
thường chỉ mua đứt những công nghệ ít biến động, sản xuất hàng hóa đặc biệt,
hay với công nghệ xuất hiện lần đầu trong một loại sản phẩm dịch vụ cấp thiết,
nhu cầu thị trường là rất lớn.
Mua quyền sử dụng công nghệ: doanh nghiệp thường áp dụng hình thức
này bởi hình thức này có ít rủi ro hơn và tốn ít chi phí hơn. Tuy nhiên doanh
nghiệp phải chấp nhận đối thủ của mình cũng sở hữu công nghệ như mình và
sức ép cạnh tranh là rất lớn. Nhưng ít ra nó cũng giúp cho doanh nghiệp có
những lợi thế hơn so với những sản phẩm không có công nghệ đó hoặc lợi thế
giá thành do công nghệ giúp khai thác tối đa những nguồn lực mà đối thủ
không có.
Và ngoài ra doanh nghiệp còn có thể đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra
công nghệ mới hay có sự cải tiến trong việc sử dụng hay tăng năng lực sản xuất
của doanh nghiệp.
Về nhân lực, cần tiến hành những nội dung cụ thể như dân chủ hóa khoa
học kỹ thuật – công nghệ, xây dựng một chiến lược tổng thể rõ ràng nhằm phát

triển thị trường lao động theo hướng đẩy mạnh tính hiệu quả, tạo điều kiện

×