Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

TIỂU LUẬN môn PHÁP LUẬT đại CƯƠNG đề tài trách nhiệm của công dân trong việc phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 28 trang )

1

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

-----------------

TIỂU LUẬN
MÔN: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Đề tài: Trách nhiệm của cơng dân trong việc phịng, chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.

Sinh viên: NGUYỄN BẢO HƯNG
Mã sinh viên: 2155220024
Lớp tín chỉ: NP01001_4
Lớp: XDĐ&CQNN_CTTC K41

HÀ NỘI – 2021


2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU:………………………………………………………………………...3
NỘI DUNG:……………………………………………………………………...5
PHẦN I: KHÁI NIỆM THAM NHŨNG:……………………………………...5
I.
Đĩnh
nghĩa
về
hành


……………………………………………........5

vi

tham

nhũng:

II. Đặc điểm của hành vi tham nhũng:…………………………………………….......5
III. Chủ thể của tội tham nhũng:………………………………………………………..7
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG DÂN TRONG
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG:………………………………………......8
I. Thực trạng tham nhũng hiện nay:……………………………………………………8
1.1. Trong lĩnh vực quản lý xã hội, quản lý hành chính cơng:………………...9
1.2. Trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính:……………………………………..10
1.3. Trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản:…………………………………10
II. Thực tiễn phòng, chống tham nhũng:……………………………………………..11
III. Giải pháp phòng, chống tham nhũng:……………………………………………
13
3.1. Mở rộng thêm nội hàm đấu tranh tham nhũng:………………………….14
3.2. Hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để “khơng thể tham nhũng,
không dám tham nhũng, không cần tham nhũng”:…………………………….15
3.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đạo đức, năng lực, liêm chính:……………16
3.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan các cấp về phòng, chống tham
nhũng:…………………………………………………………………………...17
3.5. Thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về cơng tác tổ chức - cán bộ:……17
3.6. Xử lý nghiêm minh vụ việc tham nhũng:………………………………..18
3.7. Huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong phịng, chống
tham nhũng:……………………………………………………………………..19
3.8. Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ người chống tham nhũng:……..19

3.9. Phát huy vai trị của các cơ quan báo chí, truyền thơng trong đấu tranh,
phịng, chống tham nhũng:……………………………………………………...19
IV. Trách nhiệm của cơng dân trong việc phòng, chống tham nhũng:………….20
V. Liên hệ bản thân về vấn nạn tham nhũng hiện nay:…………………………….25


3

KẾT LUẬN:………………………………………………………………........27
TÀI LIỆU THAM KHẢO:……………………………………………………28

MỞ ĐẦU
Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn
mạnh trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai
trị của xã hội, các tổ chức đồn thể và quần chúng nhân dân. Đấu tranh phòng,
chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới kinh tế - xã hội, giữ
vững ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết toàn dân và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới. Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí
Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người thầy vĩ
đại của cách mạng Việt Nam đã từng viết “Tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu
là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ. Nó là kẻ thù khá nguy
hiểm vì nó khơng mang gươm mang súng mà nó nằm trong các tổ chức ta để
làm hỏng công việc của ta”. Khắc ghi lời dạy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Đảng
và Nhà nước ta ln chú trọng cơng tác phịng, chống tham nhũng và xác định
đây một nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài và coi đây là một trong
bốn nguy cơ làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với Nhà nước
và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm gần đây, tệ nạn tham nhũng đã có những diễn biến hết sức

phức tạp, tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Chiến lược quốc
gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 của Chính phủ cũng xác định
“Phịng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự


4

lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp,
nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề
cao vai trị của xã hội, các tổ chức đồn thể và quần chúng nhân dân phòng,
chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài, xuyên
suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới”. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phịng,
chống tham nhũng góp phần vào việc xây dựng Đảng, Nhà nước ta ngày càng
trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, lối sống, được
nhân dân tin yêu, mến phục, lãnh đạo và tổ chức thành công sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, thời gian vừa qua với sự chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của Đảng,
của Chính phủ và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cùng với sự đồng lịng,
ủng hộ cao của tồn dân, cơng tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã đạt
được những kết quả rất quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý
nhà nước; giúp cải thiện môi trường kinh doanh và đạt được những mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, góp phần
giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và các giá trị đạo đức liêm
chính, làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội và củng cố lòng tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, tình hình tham
nhũng vẫn diễn biến phức tạp với những hành vi nhũng nhiễu, quan liêu, hách
dịch, cửa quyền của một số cán bộ, công chức, viên chức đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến uy tín, danh dự của Đảng, làm xói mịn lịng tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước ta.


Xuất phát từ đặc điểm tình hình trên, việc nghiên cứu chuyên đề “Khái
niệm hành vi tham nhũng các nội dung về phòng, chống tham nhũng trong


5

giai đoạn hiện nay” là hết sức cần thiết, góp phần trong việc hiện thực hóa các
chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phòng, chống tham nhũng,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao và niềm tin yêu, mong đợi của nhân dân.

NỘI DUNG
PHẦN I: KHÁI NIỆM THAM NHŨNG
I.

Đĩnh nghĩa về hành vi tham nhũng.

Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất
trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm
hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Trong luật hình sự Việt Nam, nhiều
hành vi tham nhũng cụ thể như hành vi tham ô, nhận hối lộ... đã được quy định
tương đối sớm. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 6 thơng qua ngày 20
tháng 11 năm 2018. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2019. Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định về phòng ngừa, phát hiện tham
nhũng; xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống
tham nhũng.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 3 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm
2018 đã nêu rõ: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Ở khoản 2, Điều 3 của Luật phòng,

chống tham nhũng năm 2018 cũng đã giải thích rõ người có chức vụ, quyền hạn
bao gồm:
 Cán bộ, công chức, viên chức;
 Sỹ quan, qn nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng trong cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ quan,
hạ sỹ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân;
 Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
 Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
 Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ và có quyền
hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó.
II.

Đặc điểm của hành vi tham nhũng.

Thứ nhất: Tham nhũng phải là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
Bởi vì chỉ khi “có chức vụ, quyền hạn” họ mới dễ lợi dụng chức vụ quyền
hạn để nhu cầu lợi ích riêng. Chức vụ, quyền hạn mà chủ thể của hành vi tham
nhũng có được có thể do được bầu cử, do được bổ nhiệm, do hợp đồng,do tuyển


6

dụng, hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương,
được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó. Chức vụ, quyền hạn phải gắn với
quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực và các cơ quan khác nhau: cơ quan lập
pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, trong các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế Nhà n ước hoặc
lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương.

Đây là dấu hiệu giúp ta phân biệt hành vi tham nhũng với những vi phạm
pháp luật có yếu tố vụ lợi nhưng khơng phải là hành vi tham nhũng do người
thực hiện hành vi đó khơng có chức vụ và quyền hạn ví dụ như trộm cắp tài sản,
lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc buôn lậu,…
Thứ hai: Khi thực hiện hành vi tham nhũng, người có chức vụ, quyền hạn
lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình làm trái pháp luật để mưu lợi cá nhân.
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham
nhũng. Khi thực hiện hành vi tham nhũng phải sử dụng “chức vụ, quyền hạn của
mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình
hoặc cho người khác. Nếu khơng có chức vụ, quyền hạn đó họ sẽ khơng thể thực
hiện được hoặc khó có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để đáp ứng nhu
cầu hưởng lợi (trái pháp luật) của bản thân.

 *Ví dụ: A là thủ quỹ, A lợi dụng cơng việc của mình lấy quỹ c ơ quan
để đầu tư mua bán đất đai riêng, nếu không phải là thủ quỹ thì A
khơng thể hoặc khó có thể lấy được tài sản trong kho quỹ của cơ
quan. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn là thủ kho trong trường hợp


7

này đã giúp A đạt được mục đích hưởng lợi ích vật chất trái pháp
luật. Đó chính là tham nhũng.
Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một người có chức
vụ, quyền hạn nhưng khơng lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì khơng có hành vi
tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là hành vi tham nhũng. Ở
đây có sự giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần
lưu ý khi phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
 *Ví dụ: Trường hợp một cơng chức có hành vi trộm cắp tài sản của

người khác hoặc của cơ quan, tổ chức khác. Hành vi trộm cắp tài sản
và chức vụ của người đó khơng có quan hệ gì với nhau trong các
trường hợp này. Hành vi trộm cắp tài sản có thể được thực hiện bởi
bất kỳ người nào khơng có chức vụ, quyền hạn hoặc có chức vụ,
quyền hạn nhưng chức vụ, quyền hạn đó khơng liên quan đến việc
quản lý, bảo vệ tài sản. Như vậy, dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền
hạn làm trái pháp luật là một dấu hiệu không thể thiếu của hành vi
tham nhũng.
Thứ ba: Động cơ của người có hành vi tham nhũng là vì vụ lợi
Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để
mưu cầu lợi ích riêng, hành vi của họ khơng phải là vì nhu cầu công việc hoặc
trách nhiệm của cán bộ, công chức mà hồn tồn vì lợi ích riêng và của đơn vị để
nhằm chiếm đoạn tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất của nhà
nước, xã hội và nhân dân như vậy thiếu yếu tố vụ lợi thì hành vi lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức khơng bị coi là tham
nhũng. Như vậy có thể khẳng định rằng một hành vi được coi là tham nhũng khi
thỏa mãn hai điều kiện, điều kiện cần đó là người thực hiện hành vi phải là người
có chức vụ, quyền hạn và điều kiện đủ đó là người có chức vụ, quyền hạn phải
lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình và động cơ của hành vi đó là vì vụ lợi.
III.

Chủ thể của tội tham nhũng.

Chủ thể thực hiện tội phạm tham nhũng không chỉ trong khu vực Nhà nước,
những người có chức vụ trong khi thực hiện cơng vụ mà cịn mở rộng sang khu
vực ngồi Nhà nước. Những người này bao gồm: cán bộ, công chức làm việc
trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, cơ quan đơn vị quân đội
nhân dân, cơ quan đơn vị công an nhân dân. Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ
trong các doanh nghiệp, cán bộ xã, phường, thị trấn.
Tội phạm về chức vụ ở khu vực ngoài Nhà nước áp dụng đối với 4 tội danh

là: “Tội tham ô tài sản”, “Tội nhận hối lộ”, “Tội môi giới hối lộ” và “Tội đưa
hối lộ”. Trong đó, tội danh tham nhũng có hai tội là: “Tội tham ô tài sản” quy
định tại khoản 6, Điều 353 và “Tội nhận hối lộ” quy định tại khoản 6, Điều 354.


8

Luật này cũng bổ sung việc xử lý hình sự đối với hành vi hối lộ cơng chức nước
ngồi, cơng chức các tổ chức quốc tế công. Đồng thời mở rộng nội hàm "của hối
lộ" cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo quy định của
BLHS năm 1999, "của hối lộ" chỉ bao gồm tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác
trị giá được bằng tiền. BLHS năm 2015 đã bổ sung “lợi ích phi vật chất” vào các
cấu thành định tội đối với tội nhận hối lộ, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây
ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi.
Hành vi đưa hối lộ được quy định cụ thể hơn: “Người nào trực tiếp hay qua
trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người
khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền
hạn làm hoặc khơng làm một việc vì lợi ích hoặc theo u cầu của người đưa hối
lộ” (Điều 354, khoản 1).
Luật mới bổ sung cấu thành tăng nặng định khung hình phạt đối với một số
tội, quy định cụ thể các tình tiết định tội, định khung hình phạt. Ví dụ như Điều
353 tội tham ơ tài sản, bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm
hình sự: Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền,
phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có cơng với cách mạng; các loại quỹ dự
phịng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai,
dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn; ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội...

PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CƠNG DÂN
TRONG PHỊNG, CHỐNG THAM NHŨNG

I.

Thực trạng tham nhũng hiện nay.

Sau gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ một đất nước nghèo nàn,
có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp,
đến nay, nước ta đã vươn lên trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình; văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột
phá; khối đại đồn kết tồn dân tộc khơng ngừng được củng cố; chính trị, xã hội
ổn định, quốc phịng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín
của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế được duy trì ở mức khá cao. Giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng
GDP đạt bình quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016 - 2019 đạt 6,8%/năm; năm 2020
do ảnh hưởng của dịch COVID-19, tốc độ tăng trưởng ước đạt trên 2%, bình
quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 5,9%/năm. Tính chung cả giai đoạn 2011
- 2020, tăng trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước
tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô GDP tăng gấp 2,4 lần, từ
116 tỷ USD năm 2010 lên 268,4 tỷ USD vào năm 2020. GDP bình quân đầu


9

người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm 2020. Chất
lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nước ta vẫn phải đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại,
như nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới, nguy cơ “diễn biến hịa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta;

khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng tăng; tình trạng suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, tệ quan
liêu, lãng phí… và nhất là tình trạng tham nhũng với nhiều diễn biến phức tạp, đã
và đang làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà
nước.

Thời gian qua, tình trạng tham nhũng, tiêu cực đã xảy ra ở nhiều cấp, nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực với quy mơ khác nhau, trong đó có những vụ, việc xảy ra ở
những ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm với quy mô lớn, thủ đoạn tinh vi, mức
độ sai phạm lớn, làm thất thoát hoặc thiệt hại nặng nề đối với tài sản của Nhà
nước và nhân dân, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội. Trước thực trạng đó,
Đảng ta đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt, thể hiện quyết tâm cao trong cơng tác
phịng, chống tham nhũng, kiên quyết xử lý đối với các vụ việc tham nhũng, tiêu
cực, “khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”.
1.1.

Trong lĩnh vực quản lý xã hội, quản lý hành chính cơng:

Tham nhũng gắn liền với việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tình hình này diễn ra phổ biến trong hầu


10

hết các lĩnh vực quản lý kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, lao động, xã hội. Nổi
lên là các hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong việc triển khai
thực hiện các dự án đầu tư của Nhà nước để trục lợi; hiện tượng vòi vĩnh, đưa
và nhận hối lộ; cố ý làm trái trong các hoạt động cấp phép, chứng nhận, các
hoạt động dịch vụ hành chính cơng; các hoạt động thanh tra, kiểm tra; tuyển

sinh, tuyển dụng, thi cử…, điển hình như vụ Mobifone mua 95% cổ phần của
AVG; vụ cổ phần hóa Cảng Quy Nhơn; các dự án, gói thầu liên quan đến
Đinh Ngọc Hệ; vụ Tổng Công ty thép Thái Nguyên…
1.2.

Trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính:

Tình trạng tham ơ tài sản, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, nhận
hối lộ xảy ra ở nhiều ngân hàng thương mại. Một bộ phận lãnh đạo, nhân viên
các ngân hàng thối hóa, biến chất được các doanh nghiệp thông đồng với đối
tượng vay nhận hồ sơ thế chấp không hợp lệ, hồ sơ giả để vay tiền, dẫn đến hàng
nghìn tỷ đồng bị thất thoát, hàng trăm cán bộ, nhân viên ngành ngân hàng và
giám đốc các doanh nghiệp bị truy tố trước pháp luật. Một số vụ án thuộc diện
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo, như vụ
án xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) liên quan đến việc góp vốn 800
tỷ đồng của Tập đồn Dầu khí Việt Nam vào Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại
Dương (Oceanbank); các vụ án Phạm Công Danh, Huỳnh Thị Huyền Như, Hứa
Thị Phấn, Trần Phương Bình và đồng phạm phạm tội cố ý làm trái các quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản…
1.3.

Trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản:

Những cơng trình để xảy ra thất thốt tài sản liên quan đến các hành vi tham
nhũng ở hầu hết các khâu, các giai đoạn từ khâu lập và phê duyệt dự án, khảo sát,
thiết kế, duyệt kế hoạch vốn, đấu thầu, tư vấn giám sát, nghiệm thu, thanh quyết
tốn cơng trình… Điển hình như vụ Cơng an tỉnh Thái Bình khởi tố Giám đốc
Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản về tội lạm quyền trong việc giúp vợ chồng
Nguyễn Xuân Đường (Đường Nhuệ) thay đổi kết quả đấu thầu các dự án đất đai

trên địa bàn để trục lợi.
Bên cạnh đó, xuất hiện một số phương thức, thủ đoạn, như lợi dụng, lạm
dụng chức vụ, quyền hạn, sơ hở, thiếu sót trong cơng tác quản lý, thơng đồng,
móc ngoặc với các đối tượng bên ngồi để chiếm đoạt tài sản Nhà nước; lập
chứng từ khống, làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức để trục lợi (điển hình như
vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại 67 tỷ
đồng xảy ra tại Cơng ty tài chính cao su, Cơng ty Minh Hằng, tỉnh Bình Dương);
thiếu trách nhiệm gây thất thốt, lãng phí, nhất là trong cơng tác quản lý đấu thầu,
đấu giá tài sản cơng (điển hình là vụ án thiếu trách nhiệm gây thiệt hại 120 tỷ
đồng xảy ra tại Công ty Unimex Hà Nội và các đơn vị liên quan); lợi dụng sơ hở
trong công tác quản lý, giám sát, triển khai các chủ trương, chính sách hỗ trợ bảo
đảm an sinh xã hội để thông đồng, móc ngoặc làm sai quy định về tiêu chuẩn, đối


11

tượng và lập khống hồ sơ, chứng từ để trục lợi, như: các dự án hỗ trợ đồng bào
dân tộc, chế độ chính sách do bị chất độc màu da cam, hỗ trợ dịch bệnh COVID19, hỗ trợ tiêu hủy dịch tả lợn châu Phi; lợi dụng thông tin, truyền thơng, báo chí
để “tống tiền” doanh nghiệp, cá nhân… Thực trạng trên đây cho thấy tình hình
tội phạm tham nhũng rất phức tạp và đáng báo động, địi hỏi cơng tác phịng,
chống tham nhũng cần kiên trì, đồng bộ và quyết liệt hơn nữa để có thể ngăn
chặn, đẩy lùi một cách hiệu quả loại tội phạm nguy hiểm này.
II.

Thực tiễn phòng, chống tham nhũng.

Phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi tham nhũng nhằm bảo vệ lợi
ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cơng dân, góp phần quan trọng
vào việc giữ vững an ninh chính trị - xã hội, bảo vệ chế độ và bảo đảm cho kinh
tế - xã hội đất nước phát triển bền vững.

Phịng, chống tham nhũng có vai trị vô cùng quan trọng đối với công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay. Trong phần phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, Văn kiện Đại hội XIII đã đưa ra
nhiều chủ trương và giải pháp căn cơ quyết liệt về phịng, chống tham nhũng:
“Triển khai đồng bộ có hiệu quả quy định của pháp luật về phòng, chống tham
nhũng. Nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng, bảo đảm đúng pháp luật.
Thực hiện quyết liệt nghiêm minh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng”. Đảng ta cũng có những bước phát triển mới về phịng, chống tham
nhũng, với nhiều biện pháp, như hoàn thiện pháp luật, chính sách, kê khai tài sản,
kiên trì, kiên quyết và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
đặc biệt nhấn mạnh vấn đề phòng tham nhũng: “Khẩn trương xây dựng cơ chế
phòng ngừa, cơ chế răn đe để kiểm soát tham nhũng. Thực hiện nghiêm quy định
của pháp luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ
có hiệu quả về kê khai, kiểm soát, kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ,
công viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng đề ra chủ trương về phát huy
sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các cơ
quan báo chí, đài truyền hình, các doanh nghiệp và nhân dân tham gia vào cơng
cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng. Đảng ta xem đấu tranh phòng, chống
tham nhũng là sự nghiệp của toàn dân. Quan điểm này được thể hiện rất rõ trong
Văn kiện: “Nâng cao vai trị phát huy tính tích cực, chủ động và phối hợp của
Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, nhân dân, doanh nghiệp, báo chí
trong phát hiện, đấu tranh phịng, chống tham nhũng”. Bên cạnh đó, có nhiều
điểm mới về vấn đề động viên, khuyến khích, khen thưởng những tổ chức, cá
nhân dám tố cáo hành vi tham nhũng, cơ chế bảo vệ những người tố cáo hành vi
tham nhũng tránh sự trả thù hoặc trù dập, đồng thời chỉ ra một số biện pháp về
thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát để phòng, chống tham nhũng và thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội. “Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố cáo
hành vi tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu quả cơng tác giám sát thanh tra,
kiểm tra, làm tốt chức năng hỗ trợ thúc đẩy phát triển”. Trong phòng chống tham



12

nhũng phải kiên quyết, kiên trì và sử dụng tổng hợp nhiều phương thức, biện
pháp mới mang lại hiệu quả. “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn
và hiệu quả hơn”.

Thực hiện đường lối, chủ trương về phòng, chống tham nhũng trong các văn kiện
Đại hội XI, XII và XIII của Đảng, trong những năm qua, công tác này đã đạt
được những thành quả to lớn như ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật
về phòng, chống tham nhũng, như: Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2012, Luật Phòng, chống tham nhũng năm
2018… Những văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc phòng, chống tham nhũng và góp phần rất to lớn vào cơng cuộc phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
Để phòng, chống tham nhũng, Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân các cấp
và các cơ quan nhà nước khác đã thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động
của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu
chuẩn. Thực hiện các biện pháp về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức. Đổi mới khoa học công nghệ quản lý và phương thức thanh tốn khơng
dùng tiền mặt nhằm phịng ngừa tham nhũng. Công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục đấu tranh phịng, chống tham nhũng với nhiều hình thức phong phú.
Đặc biệt, Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng Trung ương, đứng đầu là đồng
chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cùng với Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban
Nội chính Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt nhiều vụ việc, vụ án tham
nhũng nghiêm trọng, phức tạp, đưa ra xét xử nghiêm minh theo đúng các quy
định của pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đánh giá cao.
Theo báo cáo tại Hội nghị toàn quốc tổng kết cơng tác phịng, chống tham

nhũng giai đoạn 2013-2020, đã xử lý kỷ luật 131.000 đảng viên, trong đó có
nhiều trường hợp liên quan đến tham nhũng. Khởi tố, điều tra truy tố xem xét
hơn 1.900 vụ án tham nhũng với 4.400 bị cáo trong đó có 18 cán bộ diện Trung
ương quản lý bị xử lý hình sự, trong đó có: 1 Ủy viên Bộ Chính trị, 7 Ủy viên,
nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Bộ trưởng và nguyên Bộ trưởng, 7 sĩ quan
cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang. Các cơ quan có thẩm quyền đã kiến nghị thu
hồi 700.000 tỉ đồng, 20.000 ha đất, kiến nghị xử lý trách nhiệm 14.000 tập thể và
cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 700 vụ việc có dấu hiệu tội phạm; tỷ lệ
thu hồi tài sản tham nhũng đạt 32,04%. Từ năm 2016 đến năm 2020, đã kỷ luật
87.000 đảng viên trong đó có hơn 3.200 trường hợp liên quan tới tham nhũng.
Bên cạnh những thành tựu đạt được cơng tác phịng, chống tham nhũng, vẫn
còn tồn tại một số bất cập, hạn chế. Hệ thống pháp luật về phịng, chống tham
nhũng cịn có một số quy định chưa phù hợp, tính khả thi thấp, hoặc cịn có "lỗ
hổng", nhưng chưa được sửa đổi bổ sung; hoàn thiện kịp thời để làm cơ sở pháp
lý cho việc phòng, chống tham nhũng. Hiện nay, quyền tiếp cận thông tin của


13

người dân, doanh nghiệp chưa được bảo đảm đầy đủ. Một số cán bộ, công chức
lợi dụng quy định về bí mât† nhà nước để che giấu thơng tin, nhằm mục đích tham
nhũng.

Việc kê khai tài sản, thu nhập cịn nặng về hình thức; hầu hết các bản kê khai
chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng; chưa giúp cho các cơ quan chức năng
kiểm soát được những biến động về tài sản của người có chức vụ, quyền hạn;
nhiều cơ quan, đơn vị chưa nắm đầy đủ trình tự, thủ tục kê khai và cơng khai giải
trình. Một số người đứng đầu chưa nêu cao vai trị của mình trong phòng, chống
tham nhũng, số người bị xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng ở các cơ
quan, đơn vị cịn ít so với số vụ việc tham nhũng được phát hiện. Việc xử lý tham

nhũng trong nhiều trường hợp còn chưa nghiêm, chưa kịp thời. Hành vi tham
nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp, vì vậy việc phát hiện và xử lý tham nhũng gặp
nhiều khó khăn. Hành vi “tham nhũng vặt” của một số cán bộ, công chức chưa
bị xử lý một cách triệt để. Việc xử lý và thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, tham nhũng
cịn gặp rất nhiều khó khăn do một số nguyên nhân như: bị can, bị cáo trốn ra
nước ngoài, hoặc bị can, bị cáo chết, hoặc chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập
của xã hội nên tài sản có nguồn gốc tham nhũng dễ dàng bị tẩu tán. Do đó, một
số vụ án tiền, tài sản tham nhũng thu hồi được nhỏ hơn nhiều so với tổng số thiệt
hại do các đối tượng chiếm đoạt.

III.

Giải pháp phòng, chống tham nhũng.

Tham nhũng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn nhận được sự
quan tâm đặc biệt của các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, tham nhũng được
nhận diện là một quốc nạn, một trong bốn nguy cơ làm suy giảm niềm tin của
nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; công tác phòng, chống


14

tham nhũng được xác định là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn và phức tạp. Để
nâng cao hiệu quả công tác PCTN trong thời gian tới, cần triển khai thực hiện
một số giải pháp sau:
III.1. Biến quyết tâm chính trị thành hành động thực tiễn trong phòng, chống
tham nhũng; mở rộng thêm nội hàm đấu tranh.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, thời gian tới cần thiết nghiên cứu,
đề xuất, báo cáo với Bộ Chính trị cho phép bổ sung thêm chức năng phòng,
chống tiêu cực trong hoạt động của Ban Chỉ đạo. Nội hàm tiêu cực là gì, sẽ

nghiên cứu kỹ, quy định thành quy chế để bảo đảm giữ gìn được phẩm chất, đạo
đức, lối sống của cán bộ. Nhấn mạnh danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất,
Tổng Bí thư nêu rõ thêm cơ chế phịng, chống tham nhũng, tiêu cực, đó chính là
chống suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Hai nội dung này liên quan với
nhau. “Lợi ích kinh tế gắn liền với quyền lợi chính trị, với chức tước, với sự hư
hỏng về đạo đức. Tôi cho cái này mới là cơ bản”. - Tổng Bí thư chỉ rõ. Đây là
một vấn đề cần sớm được làm rõ trong thời gian tới.
Cần có giải pháp mạnh mẽ để chuyển hóa đường lối, chủ trương, chính sách,
của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng thành hiện thực trong đời
sống xã hội. Thông qua chủ trương, quy định của Đảng, hệ thống văn bản pháp
luật, nhất là từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống tham
nhũng, từ năm 2013 đến tháng 12-2020, Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
các cơ quan chức năng của Đảng ban hành hơn 200 văn bản về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng; Quốc hội ban hành hơn 250 luật, pháp
lệnh, nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hơn 2.600 nghị
định, quyết định, chỉ thị; cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương ban hành
hơn 45.000 văn bản; các bộ, ngành, địa phương ban hành gần 88.000 văn bản cụ
thể hóa, hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện phòng, chống tham nhũng. Có thể
khẳng định, chưa bao giờ quyết tâm chính trị trong phòng, chống tham nhũng của
Đảng lại mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ như hiện nay.
Hành vi tham nhũng chủ yếu do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện,
diễn ra trong nội bộ, nên biện pháp hiệu quả nhất để phịng, chống, đẩy lùi nó là
phải tự “chiến đấu” với chính mình. Theo đó, mỗi người làm việc trong các cơ
quan, tổ chức, ở tất cả các cấp, ngành, lĩnh vực, đơn vị, địa phương liên quan đến
lợi ích, tiền của, vật chất, địa vị, quyền lực xã hội phải tự đấu tranh, chiến thắng
chính bản thân mình, khơng để bản năng, nhu cầu được “ý thức hóa” trái với tiến
bộ xã hội. Mỗi người, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp trong hệ thống chính
trị, những cán bộ, nhân viên trực tiếp, gián tiếp đảm nhiệm những cơng việc dễ
nảy sinh tham nhũng cần có bản lĩnh thực sự, “miễn dịch” tốt với sự “tha hóa”;
thường xuyên, liên tục tự soi, tự sửa hằng ngày, thông qua hành động, việc làm

cụ thể; phải thực sự gương mẫu, trui rèn, tự đấu tranh không khoan nhượng với
những cám dỗ tiền của, vật chất, quyền lực; rèn luyện lối sống lành mạnh, trong
sạch, giữ vững và phát huy tốt phẩm chất đạo đức cách mạng mọi lúc, mọi nơi.


15

Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, mỗi người dân phát huy dân
chủ, thực hiện đúng quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm và chủ trương: “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; tích cực lao
động, sản xuất, học tập, cơng tác; nhận thức, giải quyết hài hòa giữa cống hiến và
hưởng thụ, bảo đảm cơng bằng, bình đẳng, thực hiện “làm theo năng lực, hưởng
theo lao động”. Kiên quyết loại bỏ văn hóa “phong bì”, “lót tay”, hay biến
tướng của nó mỗi khi gặp khó khăn, hoặc để được “ưu tiên”, “châm trước”,
thăng tiến… Đồng thời, xác định phương pháp phù hợp, tiến hành đúng trình tự,
đấu tranh khơng khoan nhượng, hiệu quả với những hành vi tham nhũng, lợi ích
nhóm, dù đó là ai, có thế lực nào “chống lưng”, tạo hiệu ứng tích cực, sâu rộng
trong cơ quan, đơn vị, địa phương và toàn xã hội.

III.2. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để “khơng thể tham nhũng,
khơng dám tham nhũng, không cần tham nhũng”.
Đây là nội dung tích hợp đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức,
hành chính, kinh tế, hình sự,... có vị trí đặc biệt quan trọng, quyết định đến hiệu
quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Hiện nay, chủ trương, chính sách,
pháp luật, văn bản liên quan đến lĩnh vực này khá đầy đủ, chặt chẽ, nhưng hiệu
quả trong tổ chức thực hiện chưa thực sự đáp ứng mong đợi của xã hội. Những
bộ phận, cá nhân bị “tha hóa” lợi dụng thành tựu của khoa học, công nghệ, hội
nhập quốc tế để ngụy trang, thực hiện hành vi tham nhũng với trình độ ngày càng
tinh vi; phạm vi, quy mơ ngày càng lớn, tính chất, mức độ ngày càng nguy hại,
khó lường.

Thực hiện phương châm: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn


16

và hiệu quả cao hơn”, các ngành, lĩnh vực liên quan, theo chức năng của mình
cần tích cực, chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước rà soát, bổ sung, ban
hành, hồn thiện hệ thống văn bản về chính sách, pháp luật phù hợp với tình hình
thực tiễn, tạo hành lang pháp lý và cơ chế chặt chẽ, nhằm thiết lập những “hàng
rào” phòng ngừa thực sự vững chãi, làm cho cá nhân, “nhóm lợi ích” khơng thể
tham nhũng.
Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng cập nhật, bao quát
những nội dung mới nảy sinh trong quá trình vận động, phát triển của thực tiễn;
bảo đảm quyền lực được kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên, được “nhốt” vào
trong “lồng” cơ chế; tăng tính răn đe bằng khung hình phạt và sự ràng buộc liên
đới trách nhiệm xã hội đối với bố, mẹ, vợ, chồng, các con của người tham nhũng.
Đồng thời, quyết liệt thực hiện “khơng có vùng cấm” trong công tác bảo vệ, thực
thi pháp luật; mọi hành vi tham nhũng, liên quan, liên đới,... đều bị điều tra, xét
xử đúng người, đúng tội và bị trừng trị nghiêm khắc theo pháp luật, bất kể người
đó là ai, giữ cương vị, trọng trách nào trong hệ thống chính trị, để khơng dám
tham nhũng.
Tích cực nghiên cứu, hồn thiện chính sách tiền lương, tăng cường thanh
tốn khơng dùng tiền mặt, kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập cá nhân, hộ gia
đình và các chính sách an sinh xã hội phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Từng bước nâng cao mức thu nhập, chất lượng sống của cán bộ,
công chức, viên chức và đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân
với mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”, để khơng cần tham nhũng.
III.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đạo đức, năng lực, liêm chính.
Về cơ bản, khi bổ nhiệm người giữ các chức danh trong bộ máy của hệ

thống chính trị đều bảo đảm tiêu chí về phẩm chất, năng lực và “đúng quy trình”.
Song, do thiếu tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên nên bị “tha hóa”. Từ đó, lợi
dụng chức vụ, quyền hạn và sự ảnh hưởng về tiền của, lợi ích vật chất, địa vị,
quyền lực xã hội để thao túng, thực hiện hành vi tham nhũng, vụ lợi riêng. Do đó,
cơ quan chức năng các cấp cần tiếp tục kế thừa những nội dung hợp lý, tham
mưu cho Đảng, Nhà nước rà sốt, bổ sung tiêu chuẩn, quy trình, quy hoạch, bồi
dưỡng, sử dụng, tuyển chọn tất cả các chức danh, nhất là cán bộ chủ chốt trong
hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm chặt chẽ, đủ đức, đủ tài và
thống nhất biện chứng giữa đức và tài trong mỗi nhân sự cụ thể, tương ứng với
mỗi chức danh cụ thể, phù hợp với sự vận động, phát triển của thực tiễn. Đồng
thời, sớm hoàn thiện quy chế, quy định và thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, công
khai, rộng rãi việc thi tuyển các chức danh có thể, lựa chọn vào bộ máy những
cán bộ thực sự “sáng về tâm, xứng về tầm”; đặt lợi ích của nhân dân, dân tộc và
sự phát triển thịnh vượng, hùng cường của đất nước lên trên hết, trước hết.
Thường xuyên làm tốt công tác bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng để cán bộ không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực
thực tiễn, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, vì: “Đạo đức cách


17

mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”. Chú trọng nâng cao nhận thức, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước vào quá trình hoạt động thực tiễn, gắn với những yêu cầu mới
về phẩm chất, kiến thức, năng lực,... của từng chức danh được biên chế ở mỗi
cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương. Mỗi cán bộ trong hệ thống chính trị cần chủ
động tận dụng mọi điều kiện có thể để tự học, tự rèn, tự bồi dưỡng, giáo dục, trau
dồi tri thức,... không ngừng nâng cao phẩm chất, trình độ, năng lực tồn diện và
lắng nghe, tiếp thu những ý kiến đóng góp, tự hồn thiện bản thân, để thực sự

“cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Cán bộ, đảng viên, trước hết là người
lãnh đạo phải biết trọng liêm sỉ, giữ danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người
thân tham nhũng. Mọi cán bộ, đảng viên phải ghi nhớ vấn đề cốt lõi là Đảng phải
luôn luôn dựa vào nhân dân, lắng nghe nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân,
việc gì có lợi cho dân thì phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại,
việc gì nhân dân khơng đồng tình, phản đối thì cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn
và xử lý nghiêm các sai phạm.
III.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan các cấp về phịng, chống
tham nhũng.
Thường xun kiện tồn đủ số lượng, bảo đảm về chất lượng, phát huy vai
trò, trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan, đơn vị có chức năng
về phịng, chống tham nhũng, nhất là Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống
tham nhũng, các ngành nội chính, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, cơng an… Có cơ
chế, chính sách đãi ngộ thỏa đáng để xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách
phòng, chống tham nhũng ở các cơ quan, đơn vị có phẩm chất, năng lực toàn
diện, nhất là bản lĩnh thực sự vững vàng, liêm chính, miễn dịch với mọi sức ép,
cám dỗ, mua chuộc. Họ phải thực sự là những người: “giàu sang khơng thể
quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ khơng thể khuất phục”. Đồng
thời, phải: “phịng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay trong các cơ quan phòng,
chống tham nhũng”. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm
toán,... cùng với đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và thu hồi tài sản
tham nhũng, gắn với thực hiện các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu
tranh quyết liệt với các biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, và “coi phịng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng”.
III.5. Thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về công tác tổ chức - cán bộ.
Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ của hệ
thống chính trị, nhất là trong các khâu tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, điều
động, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật. Kiên quyết khơng bố trí

những cán bộ, đảng viên không đủ tiêu chuẩn về đạo đức, năng lực vào các vị trí
lãnh đạo, dù người đó là ai, xuất thân từ gia đình nào, mà phải căn cứ vào năng


18

lực, phẩm chất đạo đức, để bố trí, sắp xếp cán bộ. Khơng bố trí những cán bộ,
đảng viên có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng chưa được làm rõ vào các cương vị
chủ chốt, đứng đầu các tổ chức, các ngành, các địa phương, đơn vị, những vị trí
liên quan đến tiền, hàng, công tác tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, thanh tra,
điều tra, kiểm sát, xét xử, thi hành án... Phải thường xuyên bồi dưỡng về chính
trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, phịng, chống 27 biểu hiện suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, kiểm sốt quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Đối với mỗi cán bộ,
đảng viên phải luôn tu dưỡng, rèn luyện bản thân trong mọi hoàn cảnh, thường
xuyên tự soi, tự sửa với tinh thần “cịn Đảng thì cịn mình” và “danh dự là điều
thiêng liêng, cao quý nhất”.
III.6. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ án, vụ việc tham nhũng; nâng cao
hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng.
Tập trung xác minh, điều tra làm rõ, xử lý kịp thời, nghiêm minh những vụ
việc, vụ án tham nhũng. Những vụ việc chưa đến mức xử lý hình sự thì phải xử
lý nghiêm theo quy định của Đảng và Nhà nước. Áp dụng kịp thời các biện pháp
kê biên, phong tỏa, tạm giữ tài sản, thu hồi triệt để tài sản tham nhũng trong quá
trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trước
mắt, tập trung đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án kinh tế, tham
nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra,
kiên quyết xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân có sai phạm liên quan các dự
án lớn thua lỗ, kéo dài, gây lãng phí lớn, dư luận xã hội quan tâm. Xem xét, kiểm
điểm, xử lý trách nhiệm người đứng đầu nếu để xảy ra tham nhũng. Thông qua
công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, lãng phí, góp phần ngăn

chặn, làm gương răn đe những người có biểu hiện suy thoái kịp thời thức tỉnh.


19

III.7. Huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong phịng,
chống tham nhũng.
Để đạt hiệu quả thiết thực trong cuộc chiến phòng, chống tham nhũng còn
cam go, lâu dài, phức tạp này, cần vận dụng tốt bài học “Đồn kết, đồn kết, đại
đồn kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Theo đó, cơ quan chức năng
các cấp chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền nghiên cứu, rà sốt, bổ
sung, ban hành quy chế, chính sách phù hợp để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội các cấp phát huy tốt vai trị đồn kết, tập hợp nhân dân; huy
động “tai, mắt” của mọi lực lượng, các giai tầng xã hội, kịp thời phát hiện, tố
giác các hành vi tham nhũng. Đồng thời, sớm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện
nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về công tác giám sát, phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong phòng,
chống tham nhũng. Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến của nhân dân
về phẩm chất, năng lực, nhất là sự liêm chính đối với từng chức danh cán bộ lãnh
đạo, quản lý; hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý, phúc đáp những ý kiến phản
ánh, khiếu nại, tố cáo của nhân dân về hành vi tham nhũng.
III.8. Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ người chống tham nhũng.
Những người bị tố giác về tham nhũng mà có hành vi đe dọa, trả thù, trù dập
dưới bất kỳ hình thức nào đối với người tích cực đấu tranh chống tham nhũng,
người tố giác, cung cấp thông tin về tham nhũng, phải bị trừng trị thích đáng và
cơng khai trên các phương tiện thơng tin đại chúng. Có quy định cụ thể, thiết


20


thực, bằng vật chất và tinh thần để biểu dương, khen thưởng kịp thời, thích đáng
đối với những tập thể, cá nhân gương mẫu, kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng.
III.9. hát huy vai trị của các cơ quan báo chí, truyền thơng trong đấu tranh,
phịng, chống tham nhũng.
Các cơ quan báo chí, truyền thơng có vai trị vơ cùng quan trọng trong tun
truyền về cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng, góp phần phản bác
những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, như V.I. Lê-nin đã nói:“Đưa
tin cơng khai là một thanh kiếm tự nó chữa lành được những vết thương do nó
gây ra”. Nội dung công tác tuyên truyền tập trung vào những chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phịng, chống tham nhũng; những vụ án
tham nhũng điển hình đã được phát hiện, điều tra, xử lý; những tấm gương điển
hình tiên tiến trong đấu tranh phịng, chống tham nhũng cần nhân rộng. Qua đó,
giúp định hướng dư luận xã hội, thể hiện sự công khai, minh bạch của Đảng, Nhà
nước trong xử lý tham nhũng, để mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân
nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình, tạo hiệu ứng đồng tình, ủng hộ.

IV.

Trách nhiệm của cơng dân trong việc phịng, chống tham nhũng.

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh đầy cam go phức tạp
nhằm chống lại các hành vi vi phạm pháp luật của những người có chức vụ,
quyền hạn trong các cơ quan công quyền. Ở Việt Nam, tham nhũng ngày càng
tinh vi, có thể xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều nơi, nhiều lĩnh vực. Do đó,
để đấu tranh phịng, chống tham nhũng có hiệu quả, cần phát huy sức mạnh của
cả hệ thống chính trị, trong đó sự tham gia tích cực và quan trọng của các tầng
lớp nhân dân.



21

Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng họp phiên thứ 20 dưới sự
chủ trì của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: noichinh.vn
Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố
cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”, bằng việc thực hiện quyền tố cáo theo quy
định của pháp luật, Nhân dân góp một phần khơng nhỏ vào cuộc đấu tranh
phịng, chống các hành vi tham nhũng của cán bộ, cơng chức (CBCC), viên chức
có chức vụ, quyền hạn, làm việc trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức công
quyền.
Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua, Nhân dân đã tích cực sử dụng
quyền tố cáo theo quy định của pháp luật, góp phần đấu tranh phòng, chống hành
vi vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức có chức vụ, quyền hạn. Trong 9 tháng
đầu năm 2020, về kết quả công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu
nại, tố cáo (KNTC), có 459.149 lượt cơng dân đến cơ quan hành chính nhà nước
KNTC, kiến nghị, phản ánh (giảm 4% so với năm 2019), với 296.864 vụ việc
(giảm 2,4% với năm 2019), có 3.779 lượt đồn đơng người (giảm 17,7% với năm
2019). Về tiếp nhận và xử lý đơn thư, các cơ quan hành chính tiếp nhận 305.769
đơn thư các loại. Có 189.202 đơn đủ điều kiện xử lý với 20.958 vụ việc khiếu
nại, 8.120 vụ việc tố cáo thuộc thẩm quyền. So với năm 2019, số đơn thư các loại
tăng 1,6%; số vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giảm 15,5%, số vụ việc tố cáo
thuộc thẩm quyền giảm 0,8%.
Đối với giải quyết KNTC thuộc thẩm quyền, cơ quan hành chính nhà nước
các cấp đã giải quyết 24.275 vụ việc KNTC thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 83,5%
(khiếu nại 17.171 vụ việc, đạt 81,9%; tố cáo 7.104 vụ việc, đạt 87,5%). Qua giải
quyết KNTC đã kiến nghị thu hồi cho Nhà nước, trả lại cho tập thể, cá nhân 42,1


22


tỷ đồng, 72,7 ha đất; khôi phục, bảo đảm quyền lợi cho 1.020 tập thể, cá nhân;
kiến nghị xử lý vi phạm 541 người, chuyển cơ quan điều tra 12 vụ, 13 đối tượng.
Về cơ cấu, lĩnh vực KNTC không có nhiều thay đổi so với năm 2019, tập trung
chủ yếu về khiếu nại liên quan đến đất đai chiếm tỷ lệ 61,5 % tổng số đơn khiếu
nại (so với năm 2019 giảm 5,4%); về tố cáo vẫn chủ yếu là tố cáo CBCC vi phạm
pháp luật trong quản lý, thực thi công vụ… tập trung vào lĩnh vực hành chính
chiếm tỷ lệ 64,8% (so với năm 2019 giảm 1,8%).
Như vậy, có thể thấy, việc thực hiện các quyền dân chủ theo quy định của
pháp luật, công dân là chủ thể quan trọng góp phần đấu tranh phịng, chống tham
nhũng (PCTN), đặc biệt, thông qua việc thực hiện các quyền dân chủ ở cơ sở,
Nhân dân đã thể hiện rõ nét vai trị của mình trong việc đấu tranh phịng, chống
các hành vi vi phạm pháp luật của CBCC, viên chức nhà nước. Xây dựng và thực
hiện các quyền dân chủ ở cơ sở, từ đó đã góp phần đổi mới phương thức, nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; chấn chỉnh
phong cách, lề lối làm việc của CBCC theo hướng sát dân, trọng dân và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp
nhân dân; góp phần quan trọng trong phịng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu,
tham nhũng, lãng phí.
Pháp luật về dân chủ ở cơ sở cũng quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện giám sát của Nhân dân đối với việc sử dụng
các loại quỹ của CBCC cấp xã. Theo đó, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm: cung cấp đầy đủ, kịp thời các
thông tin, tài liệu cần thiết cho Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu t ư của
cộng đồng; xem xét, giải quyết và trả lời kịp thời các KNTC, kiến nghị của công
dân, kiến nghị của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng,
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp
xã hoặc báo cáo với cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề khơng thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình; xử lý người có hành vi cản trở hoạt động của Ban
thanh tra Nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc người có hành vi trả

thù, trù dập công dân KNTC, kiến nghị theo quy định của pháp luật.
Thông qua thực hiện các quyền dân chủ ở cơ sở, Nhân dân có quyền được
cơng khai và giám sát về quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã; việc quản lý
và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với
cấp xã; các khoản huy động Nhân dân đóng góp và kết quả thanh tra, kiểm tra,
giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của CBCC cấp xã, của cán bộ thôn,
tổ dân phố; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã… Việc được biết về ngân
sách cũng như sử dụng các loại quỹ ở cấp xã của cơng dân đã góp phần hạn chế
các hành vi tham nhũng, lãng phí trong các tổ chức cơng quyền ngay ở cơ sở.
Nhìn chung, hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát cộng đồng
của cơ sở đã bám sát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp
luật và hướng dẫn của Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các
cấp, nhiệm vụ chính trị của cơ sở, lắng nghe ý kiến phản ánh của Nhân dân, kiến


23

nghị đến các cấp có thẩm quyền giải quyết kịp thời những vướng mắc trong nội
bộ của Nhân dân; triển khai thực hiện tốt các chương trình kế hoạch đề ra và đạt
được những kết quả quan trọng, giúp chính quyền cơ sở khắc phục những mặt
còn hạn chế, thiếu sót trong cơng tác quản lý và điều hành, thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế – xã hội và an ninh – quốc phịng ở địa phương. Qua đó, tạo
được lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, chính quyền địa phương.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, tình trạng vi phạm dân chủ,
hay dân chủ hình thức cịn diễn ra ở khơng ít nơi. Việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở tại nhiều nơi còn thiếu nền nếp, hiệu quả chưa cao. Một số nơi hiện
tượng vi phạm quyền dân chủ của người dân rất nghiêm trọng, gây bất bình trong
Nhân dân, làm giảm sút lòng tin đối với Đảng và Nhà nước. Vẫn còn một bộ
phận cán bộ hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân, sống
xa dân, tham ơ, tham nhũng, lãng phí, trong đó có cả cán bộ cao cấp.


Thực tế đã chứng minh, ở nơi nào chưa coi trọng thực hiện các quyền dân
chủ thì nơi đó quan liêu, tham nhũng vẫn “phát sinh và tồn tại”, cán bộ sai phạm
vẫn “ung dung tại vị”. Nguyên nhân sâu xa của những yếu kém, bất cập nói trên
là do nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền cịn hạn chế, chưa xác định được
việc xây dựng và thực hiện các quyền dân chủ ở cơ sở là nhiệm vụ quan trọng
trước mắt và lâu dài. Chậm cụ thể hóa Quy chế dân chủ thành cơ chế giám sát
của người dân ở cơ sở. Sự chỉ đạo phối hợp của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và
các đoàn thể quần chúng chưa nhịp nhàng, đồng bộ; việc kiểm tra, giám sát, tổng
kết, rút kinh nghiệm chưa được quan tâm đúng mức. Khơng ít cán bộ chủ chốt,
người đứng đầu cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện các quyền dân chủ một cách
hời hợt, qua loa nên đã không ngăn chặn, đẩy lùi được tham nhũng, quan liêu.
Những sơ hở, thiếu đồng bộ của cơ chế chính sách cùng những khiếm khuyết


24

trong phương thức lãnh đạo, nhất là quyền lực không đi cùng cơ chế giám sát, đã
vơ tình tạo lỗ hổng cho tệ quan liêu, tham nhũng lộng hành…
Một số giải pháp phát huy vai trò của Nhân dân trong đấu tranh PCTN:
[1] Nâng cao nhận thức của Nhân dân về trách nhiệm trong đấu tranh
PCTN. Để góp phần quan trọng nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham
nhũng cần phải tích cực hơn nữa trong thực hiện quyền tố cáo và các quyền dân
chủ ở cơ sở của Nhân dân. Trước hết, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của
Nhân dân, của công luận trong công tác kiểm tra, giám sát, đấu tranh phát hiện,
ngăn chặn những hiện tượng tham nhũng, quan liêu. Việc bảo đảm quyền làm
chủ thật sự của Nhân dân sẽ đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng. Điều quan
trọng bậc nhất là phải làm cho người dân hiểu rõ mục đích của việc thực hiện các
quyền công dân, quyền dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ trực tiếp của
chính mình và của tồn xã hội. Hiện nay, trong các tầng lớp nhân dân không phải

ai cũng hiểu đúng về các quy định của pháp luật về KNTC, quyền công dân,
quyền dân chủ, về thực hiện các quyền làm chủ của mình. Bên cạnh đó, ý thức và
nhận thức về quyền công dân, quyền làm chủ của người dân nhiều nơi cịn hạn
chế. Vì thế, bằng những quy định cụ thể làm cho người dân có ý thức, có khả
năng, có trách nhiệm thực hiện các quyền cơng dân, phát huy dân chủ và quyền
làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
[2] Hoàn thiện cơ chế và pháp luật về quyền công dân, quyền dân chủ để
tạo điều kiện cho Nhân dân đấu tranh PCTN có hiệu quả. Những ý kiến của Nhân
dân là những đóng góp, phát hiện từ thực tế sinh động của cuộc sống để xây
dựng, thực thi đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bởi vậy, Nhà nước
cần cụ thể hóa các quyền cơng dân, quyền dân chủ bằng những quy định rất cụ
thể những điều dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng để Nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình với tư cách là chủ thể của
xã hội. Bảo đảm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thơng tin đến người dân.
Do đó, khi soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật, các chủ trương,
chính sách, nhất là khi thực hiện các chương trình, dự án… phải tổ chức lấy ý
kiến rộng rãi trong Nhân dân, tiếp thu ý kiến đóng góp của Nhân dân, làm cho
các văn bản, các chính sách, chủ trương, dự án được công khai, minh bạch. Tạo
mọi điều kiện cho người dân có quyền dân chủ bàn bạc, quyết định những công
việc thiết thực ở cơ sở, như: quyết định và theo dõi các khoản thu, chi do Nhân
dân đóng góp; giám sát các cơng trình xây dựng, phương án đền bù, giải phóng
mặt bằng, các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước…
Cần tiếp tục hoàn thiện và bổ sung cơ chế giám sát của người dân, khắc
phục những lỗ hổng trong các quy định của pháp luật. Đặc biệt, những quy định
về tiền vốn Nhà nước, đóng góp của Nhân dân lại càng phải được giám sát chặt
chẽ. Từ đó mới thực sự khuyến khích được tinh thần trách nhiệm, tính chủ động,
sáng tạo của Nhân dân trong lao động và là cơ sở để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
tệ tham nhũng, quan liêu. Cần có thêm nhiều hình thức tiếp thu rộng rãi hơn sự



25

phản ánh, phát hiện của Nhân dân về những sai phạm của cán bộ, đảng viên, tổ
chức để kịp thời đấu tranh PCTN như: thiết lập đường dây nóng, hộp thư kín,
thực hiện tiếp dân, tăng cường đối thoại với dân… Cần chỉ ra những việc cán bộ,
đảng viên không được làm và công khai những điều này cho Nhân dân biết để
Nhân dân giám sát, góp ý và thực hiện tốt việc lấy phiếu tín nhiệm của dân.
Sửa đổi những quy định trong Quy chế Dân chủ ở cơ sở, và sớm luật hóa
Quy chế này, bổ sung những quy định cần thiết, từ đó tích cực đưa việc thực hiện
các quyền công dân, quyền dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống. Kịp thời bổ sung
những chế tài nghiêm khắc đối với những người có hành vi cản trở việc thực hiện
quyền tố cáo và các quyền dân chủ của công dân.
[3] Tăng cường sự lãnh đạo, công tác kiểm tra của cấp ủy, tổ chức Đảng các
cấp đối với việc bảo đảm thực hiện các quyền tố cáo, quyền dân chủ của Nhân
dân. Để thực hiện có hiệu quả quyền tố cáo, quyền dân chủ của Nhân dân, góp
phần ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, nhất thiết phải tăng cường hơn
nữa sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng hướng
vào mục tiêu phải đạt được hiệu quả trong cuộc đấu tranh PCTN. Ở những nơi có
biểu hiện vi phạm dân chủ nghiêm trọng, tệ quan liêu, tham nhũng chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi, cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp phải thật sự kiên quyết; có cơ
chế lãnh đạo phù hợp. chế tài phù hợp, chặt chẽ, nghiêm ngặt. Tăng cường công
tác kiểm tra của cấp ủy, của tổ chức Đảng đối với việc bảo đảm điều kiện để
Nhân dân thực hiện các quyền công dân, quyền dân chủ của mình, góp phần đấu
tranh PCTN có hiệu quả. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh
nghiệm kịp thời các nội dung, các mục tiêu thực hiện quyền công dân, quyền dân
chủ trong đấu tranh PCTN của Nhân dân.

V.

Liên hệ bản thân về vấn nạn tham nhũng hiện nay.


“Thanh nhiên là chủ tương lai của đất nước” và nhà trường chính là nơi rèn
luyện đạo đức, bổ sung kiến thức cho thế hệ tương lai này. Khơng ít người cho
rằng, dù hệ thống chính trị có bất ổn, xã hội có chậm phát triển,… thì việc đầu tư
giáo dục ln ln phải được đặt lên hàng đầu. Nhưng đáng buồn thay, ngay
trong hệ thống giáo dục - nơi cần đến sự công bằng, trong sạch cũng đã xuất hiện
hành vi tham nhũng. Các hành vi như đổi chác, phong bì, chạy điểm, chạy


×