Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận tốt nghiệp trung cấp chính trị VAI TRÒ của Quản lý Nhà nước trong việc phòng ngừa và giảm thiểu tác hại của rượu bia đối với sức khỏe và hệ lụy xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.72 KB, 26 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG CÁN BỘ QUẢN LÝ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT II
---------------------------------------------------Lớp: Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính

TIỂU LUẬN CUỐI KHĨA

Đề tài
VAI TRỊ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÒNG NGỪA
VÀ GIẢM THIỂU TÁC HẠI CỦA RƯỢU BIA ĐỐI VỚI SỨC KHỎE
VÀ HỆ LỤY XÃ HỘI

Tp. Hồ Chí Minh tháng 09 năm 2019


MỤC LỤC

1. ĐẶT VẤN ĐỀ..............................................................................................................................1
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...............................................................................................................4
2.1. Cơ sở lý luận............................................................................................................................4
2.1.1. Nội dung và trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng chống tác hại của rượu, bia.........4
2.1.2. Tác hại của rượu, bia...........................................................................................................4
2.2. Tình hình sử dụng và quản lý rượu bia tại Việt Nam...........................................................10
2.3. Nguyên nhân từ của tình trạng lạm dụng rượu, bia tại Việt Nam......................................12
2.3.1. Nguyên nhân từ phía quản lý nhà nước...........................................................................12
2.3.2. Nguyên nhân từ phía xã hội..............................................................................................14
3. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ..............................................................................................................18
3.1. Mục tiêu giải quyết vấn đề...................................................................................................18
3.2. Cơ sở giải quyết vấn đề........................................................................................................18
3.3. Đề xuất phương án giải quyết vấn đề..................................................................................18
4. KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN...............................................................................................................20
4.1. Kiến nghị...............................................................................................................................20


4.2. Kết luận.................................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................................1


1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay sử dụng bia rượu là thói quen phổ biến ở nhiều nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Bất kể dịp gì, từ đám giỗ, đám hỏi, đám cưới đến
những bữa ăn hàng ngày trong gia đình, người ta vẫn uống rượu bia như một
nhu cầu tất yếu và cho rằng đó như là một “văn hóa” lâu đời. Mặt khác ngành
rượu, bia và đồ uống có cồn hiện nay đang rất phát triển với tốc độ gia tăng
nhanh về sản lượng qua các năm. Hiện nay, mỗi năm Việt Nam sản xuất 3,4 tỷ
lít bia, 70 triệu lít rượu cơng nghiệp và khoảng 250 triệu lít rượu thủ cơng (do
hộ gia đình tự nấu bằng phương pháp thủ cơng, có đăng ký kinh doanh hoặc
khơng có đăng ký kinh doanh).
Tỷ lệ sử dụng rượu, bia ở Việt Nam đang ở mức báo động. Theo số liệu
của tổ chức y tế thế giới năm 2016 nếu quy đổi rượu bia ra cồn thì bình quân
mỗi người Việt Nam (>15 tuổi) tiêu thụ khoảng 8,3 lít cồn/người/năm, lên vị
trí 64/194 nước, tỷ lệ nam giới và thanh thiếu niên sử dụng rượu, bia đều ở
mức cao, trong đó tỷ lệ nam giới sử dụng rượu, bia ở mức có hại là vấn đề
đáng báo động.
Sử dụng nhiều rượu bia là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật, gây tổn
thương đến nhiều cơ quan, chưc năng của cơ thể như; ung thư, rối loạn thần
kinh, bệnh tim mạch, bệnh tiêu hóa, suy giảm giống nịi và phát triển bào thai,
đột quỵ, suy giảm miễn dịch,...là “sát thủ” thầm lặng giết chết ta từng ngày.
Ngoài việc sử dụng rượu, bia không phù hợp không những sẽ dẫn đến các hậu
quả bất lợi về sức khỏe và xã hội cho cá nhân người uống như lạm dụng
rượu, bia là nguyên nhân của hơn 30 loại bệnh tật và nguyên nhân cấu thành
của gần 200 loại bệnh khác trong danh mục phân loại bệnh tật quốc tế ICD10,
đứng hàng thứ ba trong số các nguyên nhân dẫn đến tử vong sớm và tàn tật


1


trên thế giới mà còn ảnh hưởng tới những người xung quanh và cộng đồng
như bạo lực cá nhân, bạo lực gia đình (khoảng 800 ca tử vong do bạo lực,
30% vụ gây rối trật tự xã hội có liên quan bia rượu…), mất trật tự an toàn xã
hội, tội phạm, phân hóa xã hội và gánh nặng về kinh tế đối với cá nhân, gia
đình và tồn xã hội do liên quan đến các phí tổn về chăm sóc sức khỏe, giảm
hoặc mất năng suất lao động và giải quyết các hậu quả xã hội khác...
Việc mua hay trao đổi rượu, bia ở Việt Nam rất dễ dàng do chúng ta
chưa có cơ chế kiểm sốt chặt chẽ các sản phẩm này. Bất cứ ai, kể cả trẻ em
đều có thể mua rượu, bia và có thể bán ở nhiều địa điểm khác nhau. Ngoài ra,
việc cấp giấy phép chỉ áp dụng đối với sản xuất, kinh doanh phân phối, bán
buôn rượu; việc bán lẻ rượu, sản xuất, kinh doanh bia không phải cấp phép.
Hệ thống pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia còn nhiều hạn
chế. Cho đến nay, chủ yếu mới có Nghị định số 94/2012/NĐ-CP của Chính
phủ về quản lý sản xuất, kinh doanh rượu. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 244/QĐ-TTg ngày 12/4/2014 về Chính sách quốc gia phịng,
chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020 và đã giao Bộ Y tế
nghiên cứu, xây dựng để trình Quốc hội ban hành Luật Phịng, chống tác hại
của rượu, bia.
Ngày 26/11/2011, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội đã thơng qua Nghị quyết
số 20/2011/NQ-QH13 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc
hội nhiệm kỳ khóa XIII trong đó có dự án Luật Phịng, chống tác hại của lạm
dụng rượu, bia. Trên cơ sở đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết số 428/NQ-UBTVQH13 ngày 29/12/2011 triển khai thực hiện Nghị
quyết số 20/2011/NQ-QH13, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 207/QĐ-TTg ngày 17/02/2012 phân cơng cơ quan chủ trì soạn thảo các dự

2



án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ
Quốc hội khóa XIII trong đó giao Bộ Y tế chủ trì xây dựng dự án luật này.
Thực hiện nhiệm vụ được phân công, ngày 11/6/2012, Bộ trưởng Bộ Y
tế đã ban hành Quyết định số 2005/QĐ-BYT thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên
tập dự án Luật Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.
Tại kỳ họp thứ 6 ngày 9/11/2018 Bộ trưởng y tế Nguyễn Thị Kim Tiến
đã trình bày tờ trình về dự án luật phòng chống tác hại của rượu bia và các hệ
lụy xã hội đã nêu rõ sự cần thiết phải ban hành luật nhằm thể chấ hóa quan
điểm, chính sách về cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho
nhân dân.
Do đó, bên cạnh những lợi ích do rượu, bia mang lại như nguồn thu
ngân sách, lao động việc làm, việc lạm dụng rượu, bia tại Việt Nam đang ở
mức báo động, gây ra những tác hại về sức khỏe và nhiều vấn đề xã hội
nghiêm trọng khác. Nên việc phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia là
một yêu cầu cần thiết phải được Nhà nước và xã hội quan tâm giải quyết với
các biện pháp đồng bộ, tồn diện về chính sách, pháp luật, kinh tế.

3


2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Nội dung và trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng chống tác hại
của rượu, bia
- Ban hành, trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật, kế hoạch về phòng, chống tác hại của rượu, bia.
- Thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về phòng, chống tác hại của
rượu, bia.

- Đào tạo, bồi dưỡng về cơng tác phịng, chống tác hại của rượu, bia.
- Thống kê, sơ kết, tổng kết, định kỳ báo cáo việc thực hiện phòng,
chống tác hại của rượu, bia.
- Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố
cáo về phòng, chống tác hại của rượu, bia.
- Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về phòng, chống tác hại của
rượu, bia.
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phịng, chống tác hại của
rượu, bia.
- Bộ Y tế là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước
về phòng, chống tác hại của rượu, bia.

4


- Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống tác hại của rượu,
bia.
- Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống tác hại của rượu, bia tại
địa phương.
2.1.2. Tác hại của rượu, bia
a. Tác hại của bia rượu đối với sức khỏe
Rượu, bia là một chất gây hại, tác động bất lợi trực tiếp và gián tiếp đến
hệ thần kinh và nhiều cơ quan của cơ thể như tim mạch, tiêu hóa,.... Mức
nguy hại đối với sức khỏe do sử dụng rượu, bia có sự khác nhau đối với từng
cá nhân, quốc gia, châu lục, tùy thuộc vào các đặc điểm: tuổi, giới, các đặc
điểm sinh học của mỗi người, mức tiêu thụ rượu bia bình quân đầu người, địa
điểm sử dụng, bối cảnh sử dụng và cách thức uống (tần suất uống, thời gian
uống, đặc biệt là mức độ dung nạp).

Việc sử dụng rượu, bia và đồ uống có cồn khác có thể làm cho người sử
dụng dễ bị lệ thuộc, lạm dụng và gây ra hậu quả bất lợi về sức khỏe, đặc biệt
là sức khỏe tâm thần và các hậu quả xã hội cho cá nhân người uống cũng như
những người xung quanh và cộng đồng.
Rượu, bia có thể gây tổn thương não, hệ thần kinh, gan, tim mạch, hạn
chế khả năng tư duy và là nguyên nhân trực tiếp gây ra nhiều tai nạn giao
thông. Đặc biệt, lạm dụng rượu, bia là một trong các tác nhân gây ung thư
như ung thư khoang miệng, họng, thanh quản, thực quản, gan và ung thư vú.
Tỷ lệ mắc ung thư ở nam giới cao thứ ba sau ung thư phổi và ung thư dạ dày

5


mà nguyên nhân chính là xơ gan do lạm dụng rượu, bia và nhiễm vi rút viêm
gan B. Như vậy việc sử dụng rượu, bia có thể gây tổn thương đến nhiều cơ
quan, chức năng của cơ thể như: Gây ung thư (gan, khoang miệng, họng,
thanh quản, thực quản, tuỵ, thận, đại - trực tràng, vú); gây rối loạn tâm thần
kinh (loạn thần, trầm cảm, rối loạn lo âu, giảm khả năng tư duy); bệnh tim
mạch (nhồi máu cơ tim, đột quỵ); bệnh tiêu hóa (tổn thương gan, xơ gan,
viêm tụy cấp tính hoặc mạn tính); ảnh hưởng tới chất lượng giống nòi và phát
triển bào thai; suy giảm miễn dịch…
Trên thế giới, mỗi năm rượu, bia là nguyên nhân gây tử vong cho 3,3
triệu người, chiếm 5,9% tổng số tử vong, làm mất đi 5,1% số năm sống khỏe
mạnh của con người, tương đương gánh nặng về sức khỏe do hút thuốc lá gây
ra.
Rượu, bia là nguyên nhân gây ra bệnh trực tiếp của hơn 30 mã bệnh tật
thuộc ICD10; là nguyên nhân cấu thành của 200 mã bệnh; đứng hàng thứ 5
trong số 10 nguyên nhân cao nhất dẫn đến tử vong sớm và tàn tật trên thế
giới, là yếu tố nguy cơ xếp thứ 4(trong 8 yếu tố nguy cơ) đối với gánh nặng
bệnh tật tính tốn được trong nghiên cứu BOD 2008 VINE. Theo ước tính của

Tổ chức Y tế thế giới, rượu,bia gây ra 4% trường hợp tử vong và 4,65% tổng
gánh nặng bệnh tật toàn cầu; tương đương gánh nặng về sức khỏe do hút
thuốc lá gây ra.Tại Việt Nam, số liệu thống kê chưa đầy đủ cho thấy, rượu, bia
là yếu tố gây ra 2,9% trường hợp tử vong và 2,2% gánh nặng bệnh tật quốc
gia. Các rối loạn do rượu (14%) là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh
tật ở nam giới, tiếp đến là trầm cảm (11%) và tai nạn giao thông (8%).
b. Tác hại của rượu, bia đối với kinh tế - xã hội

6


Ngoài tác hại đến sức khỏe, lạm dụng rượu, bia còn là căn nguyên của
nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng khác như: bạo lực cá nhân, mất trật tự an
tồn xã hội, tội phạm, phân hóa xã hội và gánh nặng về kinh tế đối với cá
nhân, gia đình và tồn xã hội do liên quan đến các phí tổn về chăm sóc sức
khỏe, giảm hoặc mất năng suất lao động và giải quyết các hậu quả xã hội
khác.
Rượu, bia là một trong 03 nguyên nhân hàng đầu làm gia tăng tỷ lệ tai
nạn giao thông tại Việt Nam ở nam giới độ tuổi 15-49. Theo báo cáo của
WHO (2014) tai nạn giao thông liên quan đến rượu bia tại Việt Nam ước tính
chiếm 36,2% ở nam giới và 0,7% ở nữ giới. Nghiên cứu của WHO trên
18.412 nạn nhân tai nạn giao thơng nhập viện thì 36% người đi xe máy có
nồng độ cồn trong máu cao hơn mức cho phép (50 mg/dl), 66,8% người lái xe
ô tô có nồng độ cồn trong máu cao hơn mức cho phép (0 mg/dl). Theo số liệu
thống kê mới nhất, trung bình mỗi năm Việt Nam có 12.000 người chết vì
TNGT, trong đó 4.800 trường hợp có liên quan đến rượu, bia. Thông tin từ
Khoa cấp cứu Bệnh viện Việt Đức, chỉ trong 5 ngày nghỉ tết Bính Thân 2016
có hơn 600 ca tai nạn giao thơng nhập viện, trong đó hơn 50% có liên quan
đến sử dụng rượu, bia.
Sử dụng rượu, bia còn là tác nhân gây bạo lực, nhất là bạo lực gia đình,

tội phạm, mất an ninh trật tự. Khoảng gần 30% số vụ gây rối trật tự xã hội,
33,7% các vụ bạo lực gia đình có ngun nhân xuất phát từ việc sử dụng
rượu, bia. Sử dụng rượu, bia còn ảnh hưởng đến tâm lý, sức khoẻ của những
người xung quanh, gia đình và cộng đồng.
Sử dụng rượu bia có thể gây ra gánh nặng kinh tế đối với cá nhân, gia
đình và tồn xã hội do liên quan đến các phí tổn về chăm sóc sức khỏe, giảm

7


hoặc mất năng suất lao động và giải quyết các hậu quả xã hội khác. Rượu, bia
lấy đi một nguồn tài chính rất quan trọng ở người nghèo, gia đình, cả xã hội
nơi người đó sống và là nguyên nhân làm cho tình trạng nghèo đói thêm trầm
trọng. Theo thống kê của WHO, phí tổn kinh tế do rượu, bia chiếm từ 1,3%
-12% GDP của mỗi quốc gia, trong đó chi phí gián tiếp để giải quyết hậu quả
do rượu bia thường cao hơn so với chi phí trực tiếp. Ở Việt Nam hiện nay, Chi
phí kinh tế cho tiêu thụ bia tương đương gần 3 tỷ USD năm 2012 (2,8 tỷ lít
bia tiêu thụ năm 2012), ước tính gần bằng 3% số thu ngân sách của cả nước
(chưa kể đến chi phí gián tiếp) trong khi đóng góp cho ngân sách nhà nước
của ngành sản xuất rượu bia, nước giải khát ở Việt Nam năm 2012 trên
19.000 tỷ đồng (tương đương 950 triệu USD). Chi phí trực tiếp cho tiêu thụ
bia nhiều gấp trên 3 lần mức đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, những tổn thất do bị xói mịn về văn hóa, lối sống, đạo
đức và chất lượng giống nòi bởi lạm dụng rượu, bia gây ra là những gánh
nặng xã hội nghiêm trọng không thể so sánh và rất khó lượng hóa.
Những hậu quả trên đây đang là một gánh nặng, thách thức lớn đối với
đất nước. Nếu tỷ lệ tiêu dùng rượu, bia và cách thức sử dụng rượu, bia có hại
khơng được phịng ngừa và giảm bằng các biện pháp kiểm sốt nhu cầu sử
dụng rượu, bia thì sẽ tiếp tục gia tăng, tích lũy và hậu quả sẽ nặng nề hơn, chi
phí để giải quyết sẽ tăng cao hơn và tốn kém thời gian, công sức hơn.

- Rượu, bia là sản phẩm có tác động lên hệ thần kinh, các cơ quan của
cơ thể, tham gia vào q trình chuyển hóa nên khi sử dụng thường xuyên,
không đúng cách sẽ gây ra lệ thuộc rượu, bia và các hậu quả cấp tính và lâu
dài đối với sức khỏe.

8


Theo báo cáo về Dự án Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia tại
phiên họp thứ 27 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Y tế
Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết, tại Việt Nam, rượu, bia xếp thứ 5 trong 15 yếu
tố nguy cơ sức khỏe hàng đầu. Số liệu thống kê chưa đầy đủ cho thấy năm
2012 có 8,3% số trường hợp tử vong liên quan đến sử dụng rượu, bia, 71,7%
trường hợp tử vong do xơ gan ở nam và 36,2% trường hợp tử vong do tai nạn
giao thông ở nam là do sử dụng rượu, bia; 15% số giường bệnh tại các bệnh
viện tâm thần là dành cho điều trị người bệnh loạn thần do rượu, bia. Bên
cạnh đó, tổn hại sức khỏe do ngộ độc rượu, bia trong đó có rượu, bia khơng
bảo đảm chất lượng, khơng kiểm sốt được nguồn gốc, rượu pha từ cồn công
nghiệp cũng là vấn đề đáng lưu tâm.
c. Tác hại của bia rượu đối với hệ lụy xã hội
Tại Việt Nam, rượu, bia là một trong 3 nguyên nhân hàng đầu làm gia
tăng tỷ lệ tai nạn giao thông ở nam giới độ tuổi 15-49. Theo Nghiên cứu của
WHO phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông quốc gia trên 14.990 nạn nhân
tai nạn giao thơng nhập viện tại 6 tỉnh thì 28% người đi xe máy có nồng độ
cồn trong máu cao hơn mức cho phép (50 mg/dl), 63,4% người lái xe ô tô có
nồng độ cồn trong máu cao hơn mức cho phép (0 mg/dl). Thông tin từ Khoa
cấp cứu Bệnh viện Việt Đức, chỉ trong 4 ngày tết Mậu Tuất 2018 có gần 500
ca tai nạn giao thơng nhập viện, trong đó hơn 60% có liên quan đến sử dụng
rượu, bia.
Thống kê hằng năm có khoảng 800 ca tử vong do bạo lực có liên quan

đến sử dụng rượu, bia; khoảng gần 30% số vụ gây rối trật tự xã hội có liên
quan đến sử dụng rượu, bia; tỷ lệ trẻ em Việt Nam chịu tác hại từ việc sử dụng
rượu, bia của người khác thuộc nhóm 2 nước cao nhất.

9


Tình trạng người dân ở các khu vực kém phát triển hơn uống rượu, bia
ở mức có hại hiện nay là yếu tố nguy cơ có thể góp phần gia tăng khoảng cách
giàu nghèo. Tác hại từ việc sử dụng rượu, bia của người lớn đối với trẻ em
được ghi nhận phổ biến hơn ở các hộ gia đình ở nơng thơn, thu nhập thấp và
có người sử dụng nhiều rượu, bia. Phụ nữ và trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu
số đang là đối tượng gánh chịu tác hại từ việc sử dụng rượu, bia, trong đó
người dân tộc thiểu số chịu hậu quả cao gấp 3 đến 4 lần so với người Kinh.
Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến trong dự luật phòng chống tác hại của
rượu, bia cũng nhấn mạnh, sử dụng rượu, bia có thể gây ra gánh nặng kinh tế
đối với cá nhân, gia đình và xã hội do các phí tổn về chăm sóc sức khỏe, giảm
hoặc mất năng suất lao động và giải quyết các hậu quả xã hội khác. Chi tiêu
cho rượu, bia chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng chi tiêu của hộ nghèo và là
nguyên nhân làm cho tình trạng nghèo đói tăng thêm.
Theo thống kê của WHO, phí tổn kinh tế do rượu, bia chiếm từ 1,3%
-3,3% GDP của mỗi quốc gia, trong đó chi phí gián tiếp thường nhiều hơn gấp
2 lần so với chi phí trực tiếp. Số liệu từ Đức - nước tiêu thụ rượu, bia đứng
thứ 9 trên toàn cầu cho thấy, thiệt hại do rượu, bia gây ra hằng năm khoảng 20
tỷ Euro (trong khi doanh thu của ngành công nghiệp sản xuất rượu, bia là 17
tỷ Euro và số nộp ngân sách là 3,5 tỷ Euro).
Tại Việt Nam, nếu phí tổn kinh tế do rượu, bia ở mức thấp nhất của thế
giới (1,3% GDP) thì thiệt hại ước tính khoảng 65 nghìn tỷ đồng. Chi phí của
người dân cho tiêu thụ chỉ riêng đối với bia của Việt Nam năm 2017 là gần 4
tỷ USD. Ước tính chưa đầy đủ cho thấy tổng gánh nặng trực tiếp của 6 bệnh

ung thư mà rượu, bia là một trong những nguyên nhân cấu thành chính đã là
25.789 tỷ đồng chiếm 0,25% tổng GDP năm 2017. Chi phí y tế trực tiếp cho
người bệnh mắc các rối loạn tâm thần do rượu từ 500.000- 1.000.000đ/ngày.

10


Chi phí giải quyết hậu quả của tai nạn giao thông liên quan đến rượu, bia
chiếm tới 1% GDP (khoảng 5.000 tỷ đồng theo GDP năm 2017).
Theo Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến, rượu, bia cũng gây những tác
hại, tác động tiêu cực đến gia đình và xã hội. Nếu so với hút thuốc lá thì các
hệ luỵ về mặt xã hội do sử dụng rượu, bia gây ra nghiêm trọng hơn nhiều, bao
gồm: Tai nạn giao thông, chấn thương, bạo lực gia đình, mất an ninh trật tự,
gia tăng khoảng cách giàu nghèo.
Do vậy “Việc phòng chống tác hại của rượu, bia là một yêu cầu cần
thiết phải được Nhà nước và xã hội quan tâm giải quyết với các biện pháp
đồng bộ, tồn diện, trong đó có việc ban hành Luật Phòng, chống tác hại của
rượu, bia. Việc ban hành Luật với các biện pháp mạnh mẽ sẽ góp phần hạn
chế gánh nặng do tác hại của rượu, bia gây ra đối với cá nhân, gia đình, cộng
đồng và xã hội để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước”, Bộ trưởng
Bộ Y tế đã từng lý giải về sự cần thiết xây dựng và ban hành Luật Phịng,
chống tác hại của rượu, bia.
2.2. Tình hình sử dụng và quản lý rượu bia tại Việt Nam
Theo trang chinhphu.vn cho biết tình hình sử dụng bia rượu tại việt
Nam có xu hướng tăng nhanh.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy tình hình sử dụng rượu, bia ở Việt
Nam đang ở mức cao và có xu hướng gia tăng nhanh, thể hiện qua 3 tiêu chí
là: Mức tiêu thụ lít cồn ngun chất bình qn đầu người và ở nam giới. Tỷ lệ
người dân có uống rượu, bia và tỷ lệ người uống rượu, bia ở mức nguy hại
nên cần được kiểm soát để giảm mức tiêu thụ.

Về mức tiêu thụ, nếu quy đổi rượu, bia ra lít cồn nguyên chất thì mức
tiêu thụ bình quân đầu người Việt Nam (trên 15 tuổi) hằng năm theo số liệu
năm 2014 của Tổng cục Thống kê là 4,4 lít; theo số liệu ước tính năm 2016

11


của Tổ chức Y tế thế giới là 8,3 lít, lên vị trí 64/194 nước, trong khi mức tiêu
thụ trên tồn cầu tăng khơng đáng kể. Trong đó, tỷ trọng tiêu thụ cồn nguyên
chất từ bia đang tăng nhanh và cao hơn từ rượu (mỗi năm sản lượng bia tăng
thêm 250 triệu lít; năm 2017 người dân tiêu thụ khoảng 305 triệu lít rượu tương đương 72 triệu lít cồn nhưng tiêu thụ tới gần 4,1 tỷ lít bia - tương
đương với 161 triệu lít cồn, bình qn mỗi người dân đã tiêu thụ khoảng 42 lít
bia).
Về mức độ phổ biến của việc uống rượu, bia, Việt Nam thuộc nhóm
quốc gia có tỷ lệ nam giới uống rượu, bia cao và tỷ lệ này ở cả hai giới đang
gia tăng. Năm 2010 có 70% nam và 6% nữ giới trên 15 tuổi có uống rượu, bia
trong 30 ngày qua thì đến năm 2015 tỷ lệ này đã tăng lên tương ứng là 80,3%
ở nam giới và 11,6% ở nữ giới. Xu hướng trẻ hóa tuổi sử dụng rượu, bia là
một vấn đề nghiêm trọng do các hệ lụy về sức khỏe, xã hội với giới trẻ. Tỷ lệ
uống rượu, bia ở vị thành niên và thanh niên là 79,9% đối với nam và 36,5%
đối với nữ.
Tình trạng uống rượu, bia ở mức nguy hại rất đáng lưu tâm. Năm 2015
có tới 44,2% nam giới uống rượu, bia ở mức nguy hại (tăng gần gấp đôi so
với năm 2010 là 25,1%). Tình trạng này phổ biến hơn ở các hộ gia đình người
dân tộc thiểu số, miền núi và nơng thơn. Tỷ lệ uống rượu được sản xuất thủ
công không đăng ký kinh doanh, rượu không rõ nguồn gốc trong tỷ trọng tiêu
thụ rượu, bia ở nước ta chiếm khoảng 74,3%, trong đó cịn tình trạng người
dân dùng cồn cơng nghiệp để pha chế rượu.
Hiện việc quản lý kinh doanh rượu, bia đã thực hiện tương đối đầy đủ
với hoạt động bán buôn, phân phối và các đại lý bán lẻ, có giấy phép nhưng

việc cấp phép, quản lý bán lẻ rượu trực tiếp đến người tiêu dùng tại chỗ theo
quy định của Nghị định số 105/2017/NĐ-CP cịn nhiều khó khăn. Bất cứ địa
điểm, cơ sở nào cũng sẵn có rượu, bia để bán cho người dân như: Các quán

12


rượu, siêu thị, cửa hàng tạp hoá, khách sạn, cơ sở kinh doanh ăn uống, quán
nước vỉa hè, căng tin của các cơ quan, doanh nghiệp… Thời gian bán, số
lượng rượu bán để uống tại chỗ không bị hạn chế. Điều này làm cho rượu, bia
ở Việt Nam sẵn có và dễ tiếp cận.
Hoạt động quảng cáo, khuyến mại, tài trợ bia vẫn chưa được kiểm soát
bằng các quy định pháp luật; quảng cáo, bán rượu, bia trên mạng xã hội
nhiều, chưa có biện pháp hạn chế đối với trẻ em, thanh thiếu niên; quảng cáo
bia diễn ra phổ biến, tần xuất cao, quảng cáo nhiều trong các giờ vàng, buổi
tối trên sóng truyền hình, phát thanh. Thực trạng này đã dẫn đến việc quảng
bá, thúc đẩy sử dụng rượu, bia và gia tăng số thanh thiếu niên sử dụng rượu,
bia.
2.3. Nguyên nhân từ của tình trạng lạm dụng rượu, bia tại Việt Nam
2.3.1. Nguyên nhân từ phía quản lý nhà nước
Thứ nhất, pháp luật còn thiếu các quy định về kiểm soát đối với bia
Các quy định pháp luật hiện hành chỉ mới bước đầu chú trọng đến giảm
thiểu tác hại của sử dụng rượu, chưa đề cập đúng mức đến tác hại của lạm
dụng bia trong khi dù là bia hay rượu thì đều là đồ uống có chứa cồn ở hàm
lượng khác nhau và đều gây tác hại như nhau nếu quy về nồng độ cồn nguyên
chất. Hiện nay, tại Việt Nam số lít cồn nguyên chất người dân sử dụng từ bia
đang tăng hơn nhiều so với rượu. Xu hướng tiêu thụ bia ngày càng nhiều hơn
do quan niệm chưa đúng khi cho rằng bia ít tác hại hơn rượu. Chính vì vậy,
tác hại do sử dụng bia không phù hợp lại đang ngày càng gia tăng.
Thứ hai, cho đến nay, chưa có văn bản pháp luật nào đề cập đến nội

dung tuyên truyền, giáo dục về tác hại của rượu, bia. Hiện chỉ có quy định về

13


tuyên truyền về tai nạn giao thông do sử dụng rượu, bia. Do đó, người dân nói
chung vẫn chưa nhận thức hết về tác hại của rượu, bia đến sức khỏe cũng như
những ảnh hưởng liên quan của nó đến môi trường sống, kinh tế - xã hội, ý
thức tuân thủ pháp luật về rượu, bia trong thời gian qua vẫn cịn gặp nhiều trở
ngại trong q trình triển khai.
Thứ ba, các quy định về hạn chế tính sẵn có và nhu cầu sử dụng rượu,
bia còn thiếu rất nhiều như: trưng bày rượu, bia và in cảnh báo sức khỏe trên
nhãn sản phẩm rượu, bia; kiểm soát hoạt động tài trợ nhằm tiếp thị rượu, bia;
hạn chế tình trạng uống nhiều và say rượu, bia; quy định về ngày, giờ, mật độ
điểm bán lẻ rượu, bia quy định về việc cấm bán rượu, bia cho một số đối
tượng như người say rượu, phụ nữ có thai…
Thứ tư, thiếu quy định nhằm huy động sức mạnh cộng đồng tham gia
vào can thiệp giảm tác hại đối với việc lạm dụng rượu, bia như việc quy định
cụ thể đối với lĩnh vực xây dựng đời sống văn hố cơ sở khơng rượu, bia hoặc
sử dụng hạn chế rượu, bia. Trong khi đây là một kênh quan trọng vì tại Việt
Nam việc uống rượu đã được coi là một "văn hóa" gắn nhiều với các hoạt
động của cộng đồng.
Thứ năm, chưa có quy định liên quan đến can thiệp y tế đối với tác hại
của lạm dụng rượu, bia. Rượu, bia vẫn chưa được coi là yếu tố nguy cơ của
bệnh không lây nhiễm, chưa có quy định về hỗ trợ điều trị đối với người
nghiện rượu, cai rượu tại cơ sở y tế và trong cộng đồng, thiếu các hỗ trợ xã
hội để dự phòng hành vi uống rượu, bia ở mức có hại; giải quyết các vấn đề
gia đình và xã hội liên quan đến rượu, bia do người uống ở mức có hại là
thành viên trong gia đình gây ra bạo lực gia đình.
Thứ sáu, chưa có quy định về bảo đảm tài chính cho giảm thiểu tác hại


14


của lạm dụng rượu, bia giải quyết các hậu quả về sức khỏe liên quan đến lạm
dụng rượu, bia trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc tham gia giải quyết,
khắc phục các hậu quả liên quan đến sử dụng rượu, bia.
Thứ bảy, các chế tài xử lý vi phạm pháp luật hình sự, hành chính liên
quan đến rượu, bia, phòng, chống rượu, bia nhập lậu, rượu, bia giả chưa đủ
mạnh, chưa có hiệu quả răn đe, giáo dục đối với một số vi phạm liên quan đến
sử dụng rượu, bia mang tính nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến tính
mạng, tài sản hợp pháp của cơng dân (như vi phạm về nồng độ cồn khi tham
gia giao thơng…).
2.3.2. Ngun nhân từ phía xã hội
Các ngun nhân của tình trạng lạm dụng rượu bia hiện nay là khá đa
dạng, bao gồm 4 nhóm chính (văn hóa - lối sống; xã hội; kinh tế; và quản lý,
chính sách), trong đó có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan nằm ngoài
bản thân người sử dụng. Nếu sắp xếp tỷ lệ nhận định của những người được
khảo sát thì 7 nguyên nhân hàng đầu là:
- Do đời sống người dân khá hơn trước: 59,4%
- Do bạn bè rủ rê nhiều: 46,8%
- Do yếu kém quản lý, kiểm soát sản xuất, buôn bán rượu bia: 43,3%
- Do quảng cáo rượu bia lan tràn: 41,1%
- Uống rượu bia nhiều vì cố ép, cố mời: 39,1%
- Rượu bia có nhiều trên thị trường, với giá cả đủ loại: 33,7%
- Uống nhiều rượu bia vì có việc vui/ buồn: 25,8%

15



Có những ngun nhân khách quan, nằm ngồi kiểm sốt của người sử
dụng (như: do yếu kém quản lý, kiểm sốt sản xuất, bn bán rượu bia; do
quảng cáo rượu bia lan tràn; rượu bia có nhiều trên thị trường, với giá cả đủ
loại) và đây là những căn nguyên từ quản lý nhà nước và pháp luật. Những
nguyên do còn lại là chủ quan của người sử dụng rượu bia và khiến người ta
sa đà, quá mức trong khi sử dụng bia. Sự không làm chủ bản thân khi “bạn bè
rủ rê nhiều”, khi trong mâm bị “cố ép, cố mời” hay khi bản thân hay gia đình
“có việc vui/buồn” có lẽ là những nguyên do cơ bản nhất của hiện tượng lạm
dụng rượu bia hiện nay.
Tuy không nổi bật như 7 nguyên nhân nêu trên nhưng các yếu tố nhận
thức có nguồn gốc văn hóa truyền thống đã ăn sâu vào nếp nghĩ của người
dân hiện nay, đó là: uống rượu bia nhiều vì sĩ diện, uống rượu bia nhiều là
khẳng định đặc tính nam giới, uống rượu bia nhiều là thể hiện sự thân quen,
và uống rượu bia nhiều để tìm cảm giác thốt ly cuộc sống thực tại. Những
nhận thức có nguồn gốc truyền thống này đang được phát huy trong các cộng
đồng dân cư và góp phần gia tăng tình trạng lạm dụng rượu bia nghiêm trọng
hiện nay.
Một số nghiên cứu về rượu bia gần đây cũng đã góp phần làm sáng tỏ
thêm những nguyên do đã nêu ở trên về tình trạng lạm dụng rượu bia. Theo
kết quả điều tra năm 2002 về lạm dụng rượu bia tại 6 tỉnh/thành, bao gồm:
Long An, Đồng Tháp, Quảng Nam, Quảng Bình, Nam Định và Hà Nội, thì lý
do sử dụng rượu bia nhiều chủ yếu là do tập quán, thú vui, số người uống
hàng ngày chiếm 20%, liều lượng khoảng 250 ml/ngày rượu nấu thủ công
(Đào Huy Khuê, 2006).
Dựa vào số liệu điều tra năm 2005 do Viện Chiến lược và Chính sách y

16


tế tiến hành, Đàm Viết Cương và Vũ Minh Hạnh (2006) phân tích lý do sử

dụng rượu bia quá mức vẫn chủ yếu là do sự tác động của bạn bè và tâm trạng
hứng khởi của người sử dụng, với tỷ lệ là 37,2% và 24,5% đối với rượu, và
20,2% và 14,7% đối với bia. Kết quả này một lần nữa chứng tỏ ảnh hưởng
của giao tiếp xã hội đối với việc lạm dụng rượu bia.
Lý do uống rượu bia lần đầu cũng như lần sau là vì muốn giao tiếp. Có
nghiên cứu cho thấy, học sinh thường uống rượu bia với bạn bè, uống với bạn
bè học chung trong lớp học chiếm 41,6%, và bạn bè ngoài lớp học chiếm
44,9% (Bùi Thị Hy Hân, 2008). Có thể học sinh uống rượu bia để cùng nhập
cuộc với những người khác, để được bạn bè công nhận và để thể hiện các
hành vi người lớn như họ mong muốn. Tập quán phổ biến ở Việt Nam là
thường dùng rượu bia để ăn mừng các sự kiện hoặc các ngày lễ lớn trong
năm. Vì vậy, phong tục tập quán và bối cảnh xã hội cũng góp phần tạo ra thói
quen uống rượu bia trong thanh thiếu niên.
Báo cáo của Nguyễn Thanh Liêm (2010) về tình hình lạm dụng rượu
bia của thanh thiếu niên cho thấy sự lôi kéo của bạn bè được tiếp cận từ cả
góc độ tiêu cực (bạn bè rủ rê hay ép người trả lời uống rượu bia) và tích cực
(bạn bè động viên người trả lời tránh sử dụng rượu bia). Khoảng một phần tư
thanh thiếu niên bị bạn bè rủ rê hay ép sử dụng rượu bia và ba phần tư thanh
thiếu niên được bạn bè động viên tránh xa rượu bia. Cả hai tỷ lệ này đều có
xu hướng tăng lên giữa hai cuộc khảo sát, đặc biệt là sự rủ rê hay ép buộc của
bạn bè. So sánh nam và nữ cho thấy chủ yếu chỉ có thanh thiếu niên nam mới
bị rủ rê lơi kéo hay ép buộc sử dụng rượu bia trong khi nữ lại được động viên
tránh nhiều hơn. Năm 2009, có tới gần một nửa (44%) số thanh thiếu niên
nam bị rủ rê hay ép buộc sử dụng rượu bia trong khi tỉ lệ này ở nữ giới chỉ là
5%. Ngược lại, trong khi 83% số thanh thiếu niên nữ được động viên tránh xa

17


rượu bia thì tỉ lệ này ở nhóm thanh thiếu niên nam chỉ là 67%.

Thực trạng sử dụng rượu bia của thanh thiếu niên hiện nay cho thấy,
ngày càng nhiều thanh thiếu niên dễ dàng tiếp cận rượu bia hơn. Những lý do
chính khiến cho thanh thiếu niên lạm dụng rượu bia là do bị ảnh hưởng bạn
bè, bởi tập quán, chuẩn mực văn hóa, nhu cầu giao tiếp, sự phát triển tràn lan
của thị trường rượu bia (Trần Thị Thanh Loan, 2012).
Nghiên cứu của An Thanh Ly (2012) cũng chỉ ra rằng: nam giới cũng
sử dụng rượu để thể hiện bản thân là người mạnh mẽ và biết cư xử. Những
mối quan hệ xã hội rộng, những hỗ trợ nguồn lực, khả năng giao tiếp, ứng xử
xã hội và sự mạnh mẽ mà nam giới có và chứng minh qua hành vi uống rượu
giúp họ trở thành người đàn ơng thành cơng và có uy tín. Nói cách khác, nam
giới đã sử dụng vốn thân thể của mình để đạt được các nguồn vốn khác.
Những nam giới có điều kiện kinh tế hoặc vốn văn hóa có nhiều lựa chọn
khác ngoài uống rượu để gia tăng vốn xã hội và biểu tượng. Tuy nhiên, đa số
nam giới ở địa bàn nghiên cứu đều uống rượu bất kể nguồn vốn kinh tế và
trình độ học vấn. Chính quan niệm về nam tính đã thúc đẩy nam giới uống
rượu quá mức.
Mời rượu là có tính văn hóa và nằm trong hệ thống các khuôn mẫu ứng
xử của người Việt trong truyền thống, thế nhưng với sự bảo lưu đến hiện nay
trong đời sống xã hội ở hầu hết trường hợp nó đã trở nên biến tướng thành ép
rượu làm cho người sử dụng rượu bia đã uống quá mức và uống khơng kiểm
sốt. Từ xa xưa trong đời sống xã hội ở nước ta đã có tục mời rượu. Mời rượu
là khuôn mẫu ứng xử trở thành bắt buộc trong các giao lưu tiệc tùng thể hiện
sự tôn trọng, quý mến đối với người được mời. Ngồi ra cịn có tục thưởng
rượu và phạt rượu. Thưởng rượu là dùng rượu tượng trưng cho giá trị ban

18


thưởng về một chiến công hay việc tốt đã thực hiện và thường là do người bậc
trên hay lãnh đạo cộng đồng ban thưởng. Còn phạt rượu cũng là một kiểu ứng

xử nhằm điều hòa các mối quan hệ xã hội để trở nên vui vẻ, đoàn kết hơn.
Phạt rượu là dùng việc uống rượu để người có lỗi tỏ ra nhận lỗi và được tha
thứ.
Mời rượu, thưởng rượu, phạt rượu vì vậy là có tính văn hóa và nằm
trong hệ thống khn mẫu ứng xử truyền thống có ý nghĩa trong cộng đồng
xã hội. Vậy nhưng những điều tốt đẹp đó trong đời sống xã hội hiện nay ở rất
nhiều trường hợp đã bị biến tướng, trở thành tiêu cực, đó chính là hiện tượng
“cố ép rượu, cố mời rượu”. Chính cố ép rượu, mời rượu trong đời sống cộng
đồng hiện nay là hiện tượng rất phổ biến. Tại địa bàn khảo sát, từ các đám
hiếu hỉ, việc nhà, việc làng, từ tiệc tùng đối nội cho đến đối ngoại đều diễn ra
hiện tượng “ép mời, ép uống”. Vì vậy ở hầu hết cuộc rượu đó đều có hiện
tượng lạm dụng rượu bia và có người say rượu.

19


3. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
3.1. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước nhằm giảm thiểu tình
trạng lạm dụng và tác hại của việc lạm dụng rượu, bia.
3.2. Cơ sở giải quyết vấn đề
- Các nội dung của Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia 2019 quy
định biện pháp giảm mức tiêu thụ rượu, bia; biện pháp quản lý việc cung cấp
rượu, bia; biện pháp giảm tác hại của rượu, bia; điều kiện bảo đảm cho hoạt
động phòng, chống tác hại của rượu, bia; quản lý nhà nước và trách nhiệm của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống tác hại của rượu, bia.
- Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm dụng rượu, bia đã được phân
tích ở phần 2 (phân tích vấn đề)
3.3. Đề xuất phương án giải quyết vấn đề
Trên cơ sở Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia 2019 đã được ban

hành, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cụ thể hoá các quy định của pháp luật về kiểm soát đối với
việc tiêu thụ cả rượu cũng như bia. Dù là bia hay rượu thì đều là đồ uống có
chứa cồn ở hàm lượng khác nhau và đều gây tác hại như nhau nếu quy về
nồng độ cồn nguyên chất.
Thứ hai, tuyên truyền, giáo dục về tác hại của rượu, bia.
Thứ ba, ban hành các quy định về hạn chế tính sẵn có và nhu cầu sử
dụng rượu, bia như: trưng bày rượu, bia và in cảnh báo sức khỏe trên nhãn sản
phẩm rượu, bia; kiểm soát hoạt động tài trợ nhằm tiếp thị rượu, bia; hạn chế

20


tình trạng uống nhiều và say rượu, bia; quy định về ngày, giờ, mật độ điểm
bán lẻ rượu, bia quy định về việc cấm bán rượu, bia cho một số đối tượng như
người say rượu, phụ nữ có thai, đánh thuế cao đối với hành vi sử dụng rượu,
bia…
Thứ tư, huy động sức mạnh cộng đồng tham gia vào can thiệp giảm tác
hại đối với việc lạm dụng rượu, bia. Đây là một kênh quan trọng vì tại Việt
Nam việc uống rượu đã được coi là một "văn hóa" gắn nhiều với các hoạt
động của cộng đồng.
Thứ năm, bổ sung các quy định liên quan đến can thiệp y tế đối với tác
hại của lạm dụng rượu, bia như hỗ trợ điều trị đối với người nghiện rượu, cai
rượu tại cơ sở y tế và trong cộng đồng.
Thứ sáu, bảo đảm tài chính cho các hoạt động quản lý nhà nước liên
quan đến giảm thiểu tác hại của lạm dụng rượu, bia.
Thứ bảy, cần xây dựng các chế tài nghiêm khắc nhằm xử lý các hành vi
vi phạm Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia 2019.

21



4. KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN
4.1. Kiến nghị
Sử dụng bia rượu là văn hóa lâu đời của nhiều quốc gia, việc sử dụng
có kiểm sốt các loại thức uống này tốt thường đem lại niềm vui trong quan
hệ giao tiếp và trong lễ, hội… Tuy nhiên nếu lạm dụng nhiều sẽ gây ra nhiều
tác hại khơng những đối với chính bản thân người sử dụng mà còn ảnh hưởng
đến nhiều người trong xã hội và đất nước. Do vậy nhà nước cần nhanh chóng
đưa ra chính sách phịng chống tác hại do bia rượu như tăng cường giáo dục
nâng cao ý thức cho người sử dụng cũng như tuyên truyền nêu rõ những ảnh
hưởng đó, đưa ra các quy định cho người sử dụng như nơi sử dụng, độ tuổi
người sử dụng, có chế tài đối với các hành vi vi phạm khi sử dụng bia rượu
như tham gia giao thông, bạo hành gia đình, cộng đồng… Ngồi ra nhà nước
cần phải quản lý chặt chẽ trong việc kiểm soát quản lý cũng như chế tài
những hoạt động sản xuất và lưu hành bia rượu nhằm giãm thiểu tác hại đến
sức khỏa cũng như kinh tế, hệ lụy xã hội, làm cho đất nước ngày càng phát
triển và văn minh hơn.
4.2. Kết luận
Quản lý, giảm thiểu tác hại của việc lạm dụng rượu, bia không chỉ là
công việc của nhà nước mà còn là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh, sử dụng rượu, bia, là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị.
Đây là một q trình thực hiện lâu dài, với các giải pháp đồng bộ. Nguyên
nhân của tình trạng lạm dụng rượu, bia hiện nay có nguồn gốc sâu xa và phức
tạp. Vì vậy, hoạt động phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia là rất khó
khăn và sẽ gặp nhiều lực cản. Việc tìm ra giải pháp hữu hiệu cho hoạt động
này cần căn cứ từ những phân tích căn nguyên sâu xa của tình trạng lạm dụng
rượu, bia. Việc áp dụng đồng bộ một số giải pháp được đề xuất trong tiểu luận

22



này sẽ góp phần phịng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia một cách có
hiệu quả.

23


×