Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Thực hành Công tác xã hội với cá nhân (Báo cáo thực tập)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.84 KB, 70 trang )

Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

MỤC LỤC
Stt

Nội dung

Trang

I

Lời cảm ơn

2

II

Nội dung

4

Phần 1: Lời giới thiệu về làng trẻ Birla

5

Phần 2: Tiến trình làm việc và can thiệp với thân chủ


14

1

Tiểu sử về thân chủ

14

2

Tiến trình Cơng tác xã hội với cá nhân qua q trình

19

làm việc và can thiệp với em Thức
Phần 3: Nhìn lại đợt thực tập

27

III

Một số buổi phúc trình

32

IV

Phụ lục( Một số hình ảnh về làng trẻ em Birla)

70


Bài tự lượng giá thực tập của sinh viên

72

Bản đánh giá của kiểm huấn viên

76

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

1


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

Lời cảm ơn
Trong thời gian vừa qua, với yêu cầu của môn học “ Thực hành Công tác xã
hội với cá nhân”, tôi đã tiến hành thực tập tại làng trẻ Birla ( số 4 Doãn Kế ThiệnMai Dịch- Cầu Giấy- Hà Nội). Thời gian thực tập kéo dài hai tháng, từ 23/3 đến
23/5 và thời gian đến trung tâm tối thiểu là hai buổi trong một tuần và mỗi buổi
kéo dài hai tiếng. Qua làm việc tại trung tâm tơi đã được giám đốc, phó giám đốc
tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tơi có thể tiến hành các hoạt động của mình
trong đợt thực tập mơn học này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến kiểm
huấn viên của mình là anh Lê Trọng Đức đã hướng dẫn, giúp đỡ, cung cấp những
thông tin cần thiết liên quan đến môn học. Cảm ơn hai cô: Cô Nhung và cô Lan đã

luôn là cầu nối cho q trình tơi tiến hành các hoạt động với các em và thân chủ
của mình. Đồng thời, tơi cũng muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo bộ môn
Ngô Thị Thanh Mai đã giúp tôi liên hệ với cơ sở và hướng dẫn tơi trong suốt q
trình học tập. Đợt thực tập này là cơ hội thuận lợi để tơi có thể áp dụng những kiến
thức đã học của mình vào thực tiễn, vào tiến trình giúp đỡ thân chủ. Quả thực tơi
cảm thơng cho hồn cảnh của các em ở làng trẻ, nếu khơng có đợt thực tập này thì
tơi sẽ khơng có cơ hội xây đắp thêm những lỗ hổng kiến thức của mình. Các em
tuy có hồn cảnh éo le và chịu nhiều thiệt thịi nhưng bù lại các em có tấm lịng
u thương nhau và đây là điểm đã ghi lại sâu sắc trong lịng tơi. Tuy vậy, trong
q trình thực tập ngồi một số thuận lợi, tơi đã gặp khơng ít những khó khăn nhất
định và nó đã phần nào hạn chế đến quá trình thực tập.
Thời gian thực tập kết thúc và tơi nhận thấy mình đã có nhiều cố gắng để
hoàn thành tốt các nhiệm vụ tại cơ sở và các yêu cầu liên quan đến môn học. Theo
yêu cầu mơn học cứ mỗi tuần có tối thiểu hai buổi để làm việc với các em và mỗi
buổi là hai giờ nhưng tơi đã tận dụng hết thời gian có thể để đến cơ sở và tiến hành

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

2


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

thực tập. Trong hai tháng là những nỗ lực của tôi và tôi đã thu được kết quả. Tôi
xin gửi kèm báo cáo thực tập phần nội dung thực tập cụ thể của mình ở trang đính

kèm. Một lần nữa tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các cô, các chú tại trung
tâm Birla, cảm ơn cô giáo bộ mơn đã giúp đỡ tận tình. Chúc mọi người sức khỏe
và hạnh phúc!
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2009
Sinh viên
Bùi Thị Liên

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

3


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

Nội dung
Như chúng ta đều biết, thực tập Công tác xã hội là hoạt động sinh viên Công
tác xã hội được đưa xuống các cơ sở xã hội để làm các công việc của một nhân
viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong một thời gian nhất định. Đây là giai đoạn
sinh viên vận dụng những lý thuyết, kỹ năng đã học để hỗ trợ một thân chủ cụ thể
trong bối cảnh cơ sở xã hội. Đây được xem là một khâu bắt buộc trong quy trình
đào tạo Cơng tác xã hội.
Với vai trị là những bên có liên quan, mối quan hệ giữa sinh viên thực tập
công tác xã hội với điều phối viên, giáo viên hướng dẫn thực hành và kiểm huấn
viên ở cơ sở thực tập là rất lớn. Mối quan hệ đó được thể hiện rõ bằng sơ đồ sau
đây:

Sinh viên thực tập công
tác xã hội

Hỗ trợ

Hỗ trợ

- Điều phối viên
- Giáo viên hướng dẫn
thực hành
CƠ SỞ ĐÀO TẠO

Kiểm huấn viên
CƠ SỞ THỰC TẬP

Phối hợp, hỗ trợ,
quản lý

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

4


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức


Theo mơ hình hóa như trên, chúng ta thấy rõ hơn việc sinh viên thực tập
được hỗ trợ như thế nào trong quá trình thực tập tại cơ sở.
Và như bản báo cáo đã trình bày, đây cũng là phần chính của báo cáo. Trong
phần nội dung cụ thể của báo cáo này, tôi xin chia thành ba phần chính như sau:
Phần 1: Tổng quan về cơ sở- làng trẻ em Birla
Phần 2: Tiến trình giúp đỡ một thân chủ cụ thể
Phần 3: Nhìn lại đợt thực tập
Nội dung cụ thể các phần như sau:

Phần 1: Tổng quan về cơ sở- làng trẻ em Birla
Chúng ta thường biết và nhắc nhiều đến làng trẻ SOS mà không biết rằng
ngay cạnh làng trẻ đó cịn tồn tại một làng trẻ mà mục đích hoạt động chẳng khác
nào làng trẻ SOS, chỉ khác rằng quy mô và sự quan tâm của chúng ta tới làng trẻ
đó cịn q ít. Đó là làng trẻ em Birla. Đây là một trung tâm nuôi dạy trẻ mồ cơi
của Thành phố Hà Nội. Nó trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà
Nội, được thành lập ngày 2/11/1987, theo quyết định số 5026/QĐ-TC của UBND
Thành Phố.
Như chúng ta biết, con người sinh ra đều có những số phận và hồn cảnh
khác nhau. Có những người sinh ra đã có một cuộc sống sung sướng, hạnh phúc,
có một mái ấm gia đình đầy ắp tiếng cười, được sống trong tình thương của bố mẹ,
người thân. Nhưng cũng có những số phận kém may mắn, những đứa trẻ sinh ra đã
không được biết bố mình là ai, mẹ mình là ai. Cuộc sống khó khăn đến với các em
khi các em còn quá nhỏ. Tuổi thơ của em phải chịu nhiều thiệt thòi. Và để bù đắp
phần nào, che chở phần nào cho những thân phận mồ cơi đó, một trung tâm chăm
sóc trẻ mồ côi trong cả nước lại tiếp tục được ra đời. Đó là làng trẻ Birla.

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

5



Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

Hiện nay địa điểm của làng trẻ tại: Số 4 phố Doãn Kế Thiện - Phường Mai
Dịch - Quận Cầu Giấy - Thành phố Hà Nội. Làng trẻ Birla tính đến nay đã hoạt
động được 23 năm và nó cũng có một lịch sử thành lập và phát triển.
1. Lịch sử về làng
Làng trẻ em Birla là cơng trình quà tặng của ngài Birla người Ấn Độ - Giáo
sư tiến sĩ - Tổng giám đốc Tập đồn Cơng nghiệp nhẹ Cimcơ - Birla và gia đình
tặng UBND Thành Phố Hà Nội khi ngài đi thăm và làm việc tại Việt Nam năm
1983.
Cơng trình được khởi cơng xây dựng năm 1985 và hoàn thành năm 1987 với
cơ sở hạ tầng ban đầu bao gồm:
- Khu A là nơi làm việc của bộ máy quản lý của Làng trẻ và khu học nghề,
sinh hoạt ngoại khoá của Làng trẻ sau giờ đi học tại trường Công lập
- Nhà mẫu giáo N
- 02 nhà nuôi trẻ C1, C2 với quy mô nuôi 25 trẻ / nhà
Sau khi xây dựng xong cơng trình, gia đình Ngài Birla giao lại cho UBND
Thành phố Hà Nội quản lý ( Ngài Birla bị bệnh hiểm nghèo đã qua đời khi cơng
trình chưa xây dựng xong) và gia đình cùng tập đồn Cimcơ Birla khơng giúp đỡ
gì thêm cho các cháu mồ côi của làng.
Ngày 15-8-1988 Làng trẻ đón 50 trẻ hồn tồn mồ cơi cả cha lẫn mẹ, phát
triển bình thường ở độ tuổi đón vào 2 - 12 tuổi của Thành phố Hà Nội vào ni,
nguồn kinh phí ni dưỡng do UNND Thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm.
Đến năm 1992 bằng tình cảm và sự cố gắng của cán bộ, của các bà mẹ dù số

cán bộ không tăng, trang bị cơ sở vật chất của 02 nhà nuôi trẻ như cũ, Làng đã nuôi
lên 80 trẻ.
Những hoạt động của làng trẻ không chỉ thu hút sự chú ý của các cấp lãnh

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

6


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

đạo và người dân thành phố mà nó cịn nhận được sự quan tâm của các tổ chức
nước ngoài, đặc biệt là sự quan tâm của ngài đại sứ hữu nghị Việt- Nhật
SUGIRYOTARO. Ông đã quan tâm và giúp đỡ làng trong hai mươi năm nay. Hiện
nay ông nhận đỡ đầu cho 30 con sống trong làng và đã trưởng thành.
Năm nào ơng cũng tới thăm( ít nhất một lần) trao quà và chia sẻ những khó
khăn mà làng trẻ gặp phải. Thông qua các hoạt động, ông cũng kêu gọi nguồn hỗ
trợ ODA của Nhật. Nhân dịp 20 năm thành lập, Chính phủ Nhật đã tặng 86.000$
để xây dựng thêm một nhà chăm sóc và ni dạy trẻ ở trong làng. Tuy nhiên, số
tiền nói trên khơng đủ để khởi công xây dựng và phải xin thêm trợ cấp của thành
phố. Dự án đã được UBND Thành phố phê duyệt và cấp ngân sách của Nhà nước
xây dựng xong trong năm 1998. Ngôi nhà được khánh thành vào tháng 3/2009.
Số lượng trẻ mồ côi hiện nay được nuôi tại Làng trẻ ở 04 gia đình (nhà C1,
C2, C3, C4) là 120 trẻ. Mỗi gia đình có từ 30 đến 40 em đủ mọi lứa tuổi và hai mẹ,
riêng nhà C4 do mới xây dựng nên hiện tại chỉ có 2 em nhỏ trong gia đình.

Làng trẻ em Birla từ khi ra đời đến nay đã có những bước tiến đáng kể. Làng
đã gặp khơng ít những thuận lợi và khó khăn nhưng cán bộ và các em trong làng
đều đã cùng cố gắng vươn lên. Vì điều kiện và số lượng có hạn nên làng trẻ chỉ
đón nhận những em có hồn cảnh như sau:
2. Điều kiện để trẻ được nhận vào nuôi dưỡng tại làng trẻ và chế độ nuôi
dưỡng tại làng trẻ
a. Điều kiện để trẻ được nhận vào nuôi dưỡng tại làng trẻ
- Các em mồ côi cả cha lẫn mẹ, mồ côi cha hoặc mẹ (người cịn lại ốm đau nghèo khó khơng thể ni được con) có hộ khẩu thường trú tại Thành Phố Hà Nội.
- Các em được đón vào Làng trẻ ở độ tuổi 2 - 12 và phát triển bình thường.
- Các em là trẻ có nguồn gốc gia đình. Khi mồ cơi cha mẹ được thân nhân
làm đơn trình các cấp có thẩm quyền xin cho trẻ vào các trung tâm nuôi trẻ mồ côi
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

7


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

của Thành phố. Khi Thành phố có quyết định tiếp nhận thì trẻ được Làng đón vào
ni theo chỉ tiêu Nhà nước giao hàng năm.
b. Chế độ nuôi dưỡng tại làng trẻ
Trong làng, ở mỗi đơn vị gia đình, các em đều được ni dưỡng và
chăm sóc như những gia đình bình thường ngồi xã hội. Các em có mẹ, có anh chị
em. Ngồi giờ học ở trường các em tham gia giúp đỡ mẹ: trồng rau, chăn nuôi lợn,
gà để cải thiện bữa ăn và rèn luyện ý thức lao động.

Khi vào Làng, tuỳ theo độ tuổi các em được học từ lớp mẫu giáo đến hết phổ
thông trung học (lớp 12). Quá trình sống tại Làng từ 13 tuổi trở lên các em được
Làng tổ chức học nghề (may) tại Làng, hoặc gửi đi học nghề tại các trung tâm
(điện tử, điện lạnh, nấu ăn...) ở các trung tâm trong dịp hè. Trong dịp hè các em
còn được Làng tổ chức các lớp năng khiếu như: múa, hát, đàn, vẽ... Đối với những
em tốt nghiệp phổ thông, các em được Làng khuyến khích thi đại học, cao đẳng,
trung cấp. Và nếu đỗ sẽ được làng hỗ trợ kinh phí để học tập.
Sau khi đến 18 tuổi học xong phổ thông trung học, các em trưởng thành trở
về với thân nhân, với xã hội và phải tự mình kiếm sống.
Cũng cần nói thêm rằng trong thời gian sinh sống tại làng, mỗi năm các em
được phép về thăm gia đình hai lần. Vào các dịp hè, các em được tổ chức đi tham
quan du lịch. Theo như tôi biết, năm 2008 các em được tổ chức đi Đồ Sơn và theo
kế hoạch năm nay, ban quản lý sẽ tổ chức cho các em đi vui chơi ỏ bãi biển Cửa
Lị.
Kế hoạch là vậy nhưng khó khăn lớn nhất của làng trẻ từ trước tới giờ vẫn là
nguồn kinh phí. Nguồn kinh phí khơng đủ để chi trả cho cán bộ và ni dạy các em
trong Làng.
3. Tình hình tài chính chung
Hiện nay, Bộ máy quản lý của Làng trẻ em Birla Hà Nội được nhà nước giao
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

8


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức


chỉ tiêu là 23 người. Bao gồm:
- Ban giám đốc: 03 người. (Hiện nay chỉ có 2 người)
- Phịng Tổ chức - Hành chính: 08 người
- Phịng Y tế - Ni dưỡng: 08 người (trong đó có 07 bà mẹ)
- Phòng Giáo dục - Dạy nghề: 04 người
Lương và các khoản phụ cấp của bộ máy quản lý Làng trẻ do Nhà nước cấp
như sau:
Lương bình quân của cán bộ quản lý và các bà mẹ là 1.716.000
đồng/người/tháng (mỗi bà mẹ chịu trách nhiệm nuôi từ 18 - 19 trẻ).
Tình hình tài chính để ni dưỡng - giáo dục trẻ mồ côi được Ngân sách
Thành phố cấp như sau:
Tổng số tiền cho trẻ: 350.000 đồng/trẻ/tháng"
- Tiền ăn 3 bữa/ ngày: 300.000 đồng/trẻ/tháng tức 10.000/trẻ/ngày
- Tiền chi khác: 50.000 đồng/trẻ/tháng gồm:
+Tiền điện nước phục vụ sinh hoạt cho trẻ
+Tiền học (sách vở, đồ dùng học tập, học phí)
+Tiền mua thuốc chữa bệnh
+Tiền mua quần áo( mặc thường ngày- đồng phục), giày dép
+Các hoạt động ngoại khoá
Qua những nỗ lực và cố gắng của những con người nơi đây, từ cấp quản lý,
các cán bộ tới các bà mẹ và các con, những thành tựu mà làng trẻ em Birla hiện
nay đạt được là những kết quả đáng mừng và đáng trân trọng:
4. Những kết quả đã đạt được trong quá trình hoạt động của làng trẻ

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

9



Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

Thành lập ngày 20-11-1987 đến nay đã được hơn 20 năm, Làng trẻ đã tiếp
nhận và nuôi dạy 259 trẻ mồ côi của Thành phố.
Kết quả học tập hàng năm đạt từ 98 - 100% trẻ được lên lớp. Tỷ lệ khá giỏi
từ 50-65%; tỷ lệ con ngoan trò giỏi đạt từ 70-75%; tỷ lệ trẻ thi đỗ cao đẳng, đại học
từ 40-45%.
Từ năm 1994 đến nay, Làng trẻ đã có 183 em rời khỏi Làng: 97 trẻ trưởng
thành trở về với thân nhân (khi đủ 18 tuổi - học xong lớp 12), 17 trẻ được nhận làm
con nuôi (trong đó 13 trẻ làm con ni người nước ngồi, 03 trẻ làm con nuôi
người trong nước). Trong 97 trẻ trưởng thành có 14 trẻ học Đại học các ngành:
Kinh tế, Sư phạm ngoại ngữ, Quản trị kinh doanh, Giao thơng, Thương mại. Có 20
trẻ học xong Trung cấp các ngành: Bảo trợ xã hội, Sư phạm, Điện tử, Điện lạnh. Số
còn lại được Làng tạo điều kiện học các nghề: may, điện, nấu ăn, thủ công mỹ nghệ
ở các Trung tâm dạy nghề của Thành phố.
Đa số các em học nghề, một số học Trung cấp được Làng và các trung tâm
học nghề tạo điều kiện xin việc làm để có thể tự ni sống bản thân và tự mình
phấn đấu sau khi rời khỏi làng.
Khơng những vậy, khi các em còn sống trong làng, các em được giáo dục về
giới tính sức khỏe sinh sản, về những kiến thức tâm sinh lý nhằm mục đích trang bị
cho bản thân để các em có thêm kiến thức phục vụ cho mình.
Đối với những em khi được các gia đình trong và ngồi nước nhận làm con
ni, mặc dù đi xa nhưng các em vẫn gắn bó tình cảm với Làng, vẫn thường xuyên
liên hệ về Làng, về thăm Làng, thăm mẹ và các anh chị em trong dịp Lễ Tết.
Trong hơn 20 năm nuôi dưỡng, các em trong Làng được tham gia các

chương trình ngoại khố của Thành phố, Ngành, địa phương và đều đạt thành tích
cao. Đó là một kết quả đáng trân trọng, là sự cố gắng của cán bộ và các em trong
Làng.

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

10


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

Ngoài ra, khi các em đã lớn, đến tuổi lập gia đình, Làng đã đứng ra tổ chức
lễ cưới cho 28 em và có giúp đỡ ban đầu cho gia đình mới của các em.
Một kết quả đáng tự hào nhất của Làng trẻ em Birla là đã nuôi dạy các em
mồ côi trưởng thành, trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Tuy nhiên, song song với những thành tích đã đạt được, làng trẻ ln gặp
những trở ngại mà trở ngại lớn nhất là nguồn kinh phí ni dạy trẻ trong làng cịn
thiếu thốn. Kinh phí được nhà nước cấp cho việc sinh hoạt, học tập của trẻ quá
thấp so với nhu cầu của các em:
5. Những khó khăn của làng trẻ trong q trình ni dưỡng, giáo dục
trẻ
+ Về sinh hoạt: Không cung cấp đủ nguồn dinh dưỡng cho trẻ trong qua trình
ni dưỡng và sư phát triển của trẻ.
+ Quần áo, sách vở, đồ dùng học tập của trẻ không đáp ứng đủ nhu cầu.
+ Về hoạt động khác: khơng có kinh phí cho trẻ học tập thêm để nâng cao kỹ

năng và trình độ nên khả năng trẻ mồ côi tại Làng thi đỗ vào đại học còn hạn chế.
- Các em thi đỗ vào đại học, cao đẳng, trung cấp nếu tiếp tục đi học gặp rất
nhiều khó khăn trong học tập và sinh hoạt vì Làng khơng cịn kinh phí được nhà
nước cấp nuôi trẻ khi trẻ đã trưởng thành.
- Khi các em hoạt động ngoại khố ở xa khơng có phương tiện đi lại.
- Công tác dạy nghề tại đơn vị chưa có điều kiện đầu tư: hiện tại Làng có 01
xưởng may hoạt động, cịn lại xưởng mộc, hàn, điện chưa có.
Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, với yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống,
trung tâm nuôi dạy trẻ đã gặp khơng ít những khó khăn, việc thiếu ngân sách để có
thể đảm bảo cho các em trong làng có một cuộc sống tốt hơn ln là điều khiến các
cán bộ quản lý phải đau đầu suy nghĩ.

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

11


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

Làng trẻ em Birla bên cạnh thiên chức là một đơn vị bảo trợ xã hội, đây còn
là nơi để các em mồ cơi có được một mái ấm gia đình, là nơi các em được đón
nhận tình thương u, được chăm sóc ni dạy để trở thành những công dân tốt
của xã hội. Trung tâm và các em luôn mong muốn được sự quan tâm và giúp đỡ
của mọi người, của các tổ chức khác trong và ngoài nước. Với truyền thống lâu nay
của dân tộc: “Lá lành đùm lá rách”, “ Lá rách ít đùm lá rách nhiều”, chúng ta hãy

có trách nhiệm cùng chung tay để giúp đỡ các em có một cuộc sống tốt đẹp hơn,
giúp làng trẻ ngày một phát triển thêm và trong đó trách nhiệm của người làm
Cơng tác xã hội là rất lớn.
Trên đây là phần tóm lược về làng trẻ em Birla và cũng là cơ sở nơi tôi thực
tập. Phần tiếp theo tôi xin đi sâu bài báo cáo của mình về tiến trình can thiệp và
làm việc với thân chủ.

Phần 2: Tiến trình làm việc và can thiệp với thân chủ
Trong chúng ta chắc hẳn ai cũng biết tiếp cận và làm việc với trẻ bình thường
đã khó, nay làm việc với trẻ em mồ côi lại càng khó hơn. Trong thời gian thực tập
tại làng trẻ Birla, tôi đã được tiếp xúc và làm quen với nhiều đối tượng trẻ em mồ
cơi. Mỗi em đều có những hồn cảnh khó khăn khác nhau. Tuy nhiên, qua q
trình làm việc, tôi đã chọn lựa hai đối tượng là hai em nam có độ tuổi khác nhau,
cấp bậc học khác nhau để làm việc. Và cuối cùng, tôi đã đi đến can thiệp với một
đối tượng cụ thể của mình. Tuy nhiên, trong giới hạn bài báo cáo này, tơi xin trình
bày thêm về hồn cảnh của hai em và lý do vì sao tơi lại tiến hành chọn một trong
hai em đó để làm đối tượng can thiệp của mình.
1. Tiểu sử về thân chủ:
Trường hợp 1:
Em tên là Cao Văn Thức, 18 tuổi. Hiện đang là học sinh lớp 9 trường trung
học phổ thông Cầu Giấy( Hà Nội). Mẹ em là một người đàn bà tha phương cầu

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

12


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân


Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

thực từ đâu tới Sóc Sơn( Hà Nội) sinh sống. Bà khơng có anh em họ hàng thân
thích, hàng ngày chỉ biết đi mị cua bắt ốc ngồi đồng về bán lấy tiền mua gạo. Chị
miệt mài lao động kiếm sống. Cuộc sống của chị gặp nhiều thiếu thốn và khó khăn.
Khơng may trong một đêm đi mị cua bắt ốc ngoài đồng, chị đã bị một gã say rượu
cưỡng hiếp và mang thai. Cuộc sống của một người đã khó nay lại đèo bịng them
một người nữa càng làm tăng sự thiếu thốn lên gấp bội.
Bà của Thức là một bà lão góa bụa, mù lịa, già yếu, gặp mẹ Thức và hai
người sống với nhau, xem nhau như mẹ con. Do cuộc sống khó khăn, thiếu thốn,
lao động nặng nhọc mà mẹ Thức sau khi sinh em xong đã không lâu nữa qua đời,
để lại hai bà cháu cơi cút trong căn lều nhỏ rách nát ngồi đồng, ngày qua ngày
nương tựa vào nhau mà sống. Túp lều chỉ vẻn vẹn được một chiếc chõng tre, tối
đến bà nằm một bên còn một bên em ngồi học bài. Em chăm học, học giỏi. Thấy
tình cảnh khốn khó của hai bà cháu, chính quyền địa phương đã làm đơn xin cho
em được vào làng trẻ Birla( hiện nay em đang sống). Lúc mới vào, Thức học lóp 4
và liên tiếp trong hai năm lớp 4, lóp 5 em đều đạt học sinh giỏi. Tuy có một cuộc
sống tốt hơn trước nhưng em vẫn không lúc nào không nhớ về người bà đang ở
quê. Những lúc trời mưa, mọi người vẫn thường thấy em ra đứng ôm cột nhà khóc.
Hỏi ra mới biết em vì thương bà, khơng biết những lúc trời mưa bà phải chống
chịu ra sao với căn lều rách nát và gió lạnh của mình. Trong những năm sống ở
trung tâm, tận dụng thời gian mà trung tâm cho nghỉ, em lại về quê đi cắt rạ phơi
khô cho bà đun nấu. Hai bà cháu mặc dù không cùng chung giọt máu nhưng đã
thương nhau và giành tình cảm cho nhau. Thức khơng lúc nào khơng nhớ đên bà.
Một thời gian sau vì già yếu, bà Thức qua đời, lúc đó cũng là lúc em bước vào cấp
hai. Do những tác động, hoàn cảnh mà con người em thay đổi hồn tồn. Em vờ
như mình khơng có quá khứ trước đây. Học hành chểnh mảnh, hay bỏ học, tụ tập
bạn bè gây gổ đánh nhau. Học lực của em giảm sút. Những em dưới tuổi hoặc bằng

tuổi ở trong làng trẻ đều sợ em.. Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng, ngồi nhược
điểm của em bây giờ, em vẫn có những ưu điểm và chúng ta cần đặc biệt quan tâm
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

13


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

hơn khi tiếp cận với thân chủ. Em đá bóng giỏi và có thể làm thủ lĩnh trong đám
bạn bè.
Qua tiểu sử của em Thức, chúng ta hình thành nên một sơ đồ phả hệ như sau:


Bố

Mẹ

Thân chủ(
em Thức)

Chú thích:
_ _ _ _ _ _ _ _ _: Mối quan hệ lỏng lẻo
: Mối quan hệ thân thiết
: Mối quan hệ xa cách

Trường hợp 2
Em là Hòa. Họ tên đầy đủ là Trần Văn Hịa, q ở huyện Sóc Sơn( Hà Nội).
Em đang là học sinh lớp 3 trường tiểu học Cầu Giấy( Hà Nội). Em khơng có bố.
Mẹ em tính tình ngẩn ngơ, hiện nay đang đi rửa bát thuê cho các nhà hàng. Do di
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

14


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

truyền từ người mẹ, em thường hay đãng trí, thường nhớ lúc đó nhưng khơng lâu
sau lại qn. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến học lực của em
kém so với các bạn cùng trang lứa. Hiện nay, em cịn có bà, có cậu và có dì vẫn
thỉnh thoảng đến thăm em.

Sơ đồ phả hệ:

Bố

Mẹ

Thânchủ(

em Hịa)


Chú thích:
_ _ _ _ _ _ _ _ _: Mối quan hệ lỏng lẻo
: Mối quan hệ thân thiết
: Mối quan hệ xa cách
Như tơi đã nói ở phần đầu, hai em Thức và Hịa đều có những hồn cảnh đặc
trưng riêng. Mỗi em khi tiếp cận sẽ có những thuận lợi và khó khăn nhất định:
 Đối với thân chủ là em Hòa:
Vấn đề lớn của em bây giờ là việc học tập. Học lực của em kém so với các
bạn trong lớp. Kì vừa rồi, học lực của em xếp thứ 39/41. Tuy nhiên, điểm mạnh mà
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

15


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

em có được là em là học sinh ngoan, biết nghe lời. Hiện nay, ngồi trung tâm ra em
cịn có mẹ, có người thân( Bà, cậu, dì…). Vì vậy, để giúp em chúng ta cần xác định
các nguồn lực đang tồn tại xung quanh thân chủ. Đó sẽ là hệ thống tốt để trợ giúp
em tiến bộ hơn.
 Đối với thân chủ là em Thức:
So với nhiều em ở trung tâm thì em Thức là đối tượng đặc biệt. Hoàn cảnh
của em rất đáng thương. Hiện nay, ngoài trung tâm là nơi ni dạy em, em khơng
cịn một người thân nào hết. Là một đứa bé sinh ra không biết cha mình là ai, mẹ

mất, người bà khơng phải cùng dòng máu với em cũng qua đời. Sinh ra vốn không
phải là một đứa trẻ hư hỏng, ngược lại em học rất giỏi. Nhưng những tác động của
môi trường xung quanh, những biến động trong cuộc sống đã làm con người em
thay đổi. Bản chất của một con người vốn khơng phải tự nhiên mà thay đổi nhanh
chóng. Bản thân em là một đứa trẻ ngoan, biết nghe lời. Đó là điểm mạnh mà
chúng ta cần biết để khai thác. Nhưng điều quan trọng hiện nay ở em chính là từ
chỗ những điểm mạnh đó dần bị lấn sân bởi những thói xấu. Em học kém hơn, hay
trốn tiết, đánh nhau với bạn ở lớp. Ở nhà thường cậy lớn bắt nạt nhỏ, cậy to ức hiếp
các bạn nữ. Em đã thay đổi hoàn toàn, quá khứ của em, hồi niệm của em về người
bà cịm cõi trong túp lều, về người mà dường như đã khơng cịn tồn tại trong tâm
trí em nữa. Nếu như trước đây em thương bà, thương mẹ bao nhiêu, thường đứng
khóc một mình khi trời mưa thì giờ đây hình ảnh đấy đã khơng cịn nữa. Em đã coi
mình là một người khơng có q khứ. Rõ ràng, khơng một ai là khơng có những
điểm mạnh, những nội lực bên trong bên cạnh những thói xấu. Em Thức cũng vậy,
bản chất em là con người tốt. Đồng thời, với lứa tuổi của em hiện nay, em đủ kiến
thức để hiểu về những gì mình đang làm và những gì mình phải chịu. Chính dựa
vào những điểm này, chúng ta có thể giúp em thay đổi để em trở thành một học
sinh ngoan, học giỏi.
Trên đây là hai đối tượng mà tôi muốn tiến hành can thiệp. Tuy nhiên, vì yêu
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

16


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức


cầu và thời hạn không cho phép nên tôi chỉ tiến hành được với một thân chủ. Qua
quá trình phân tích và làm việc với hai em, tơi quyết định chọn em Thức làm thân
chủ chính của mình bởi lẽ em Hịa cịn nhỏ, suy nghĩ cịn mang tính trẻ con. Em
Thức đang ở bậc học trung học cơ sở, lứa tuổi này đã có những thay đổi trong suy
nghĩ và nhận thức của mình. Tơi cũng hi vọng trong quá trình giúp đỡ em Thức,
em sẽ thay đổi lại suy nghĩ và hành động, em sẽ có một cái nhìn đúng đắn hơn về
bản thân và về cuộc sống của mình.
2. Tiến trình Cơng tác xã hội với cá nhân qua quá trình làm việc và can
thiệp với em Thức
Thời gian thực tập ở trung tâm kéo dài trong hai tháng và việc lựa chọn, lên
kế hoạch trị liệu và trị liệu cho thân chủ của tôi kéo dài trong vịng 5 tuần. Khoảng
thời gian này khơng thể nói là dài và đủ để tiến hành trợ giúp một người, khiến
người đó có thể thay đổi bản thân mình. Đồng thời, tơi đã gặp khó khăn cho việc
giành thời gian để tiếp cận thân chủ. Vốn trong Công tác xã hội làm việc với cá
nhân, chúng ta thường tiến hành giúp đỡ thân chủ qua bảy bước và để trị liệu một
cách có hiệu quả, tơi đã tiến hành lập kế hoạch. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp kế hoạch đó cũng phải được thay đổi cho phù hợp. Trong bản kế hoạch tơi nêu
ra có sử dụng thời gian giúp đỡ thân chủ vào ban ngày nhưng do em học ở lớp nên
tôi không thể tiếp cận em một cách thường xuyên. Ở đây, khi tiến hành làm việc
với em Thức, tôi vẫn thực hiện đúng những bước trong tiến trình và đã đạt kết quả
khả quan. Q trình trị liệu đó được diễn ra như sau:
Thứ nhất là tiếp cận thân chủ: Ở đây, chúng ta cần tạo mối quan hệ tốt với
trẻ để trẻ có niềm tin về người nói chuyện. Từ đó sẽ có thể thu thập thông tin một
cách tốt nhất. Em Thức là em có hồn cảnh rất cá biệt. Trong nhà C1 cũng có nhiều
em với nhiều hồn cảnh khác nhau nhưng xét trên nhiều phương diện( hoàn cảnh
sống, lứa tuổi…) tôi nhận thấy em là đối tượng cần tiếp cận và giúp đỡ nhiều. Khi
tiến hành tiếp cận với em Thức, tơi đã gặp khơng ít khó khăn. Khó khăn ở đây
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51


17


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

khơng phải do em là người khó bắt chuyện, ngược lại em là người rất dễ gần, dễ
nói chuyện. Nhưng chính cái tưởng như thuận lợi ấy lại là điều gây khó khăn cho
tơi trong q trình làm việc với em. Em hay trêu đùa người khác và khiến người
nói chuyện rất khó để đề cập với em về vấn đề chính của mình.
Thứ hai là nhận diện vấn đề: Nhân viên công tác xã hội xác định các vấn đề
liên quan đến trẻ, xác định các nhu cầu của trẻ, các nguyên nhân dẫn tới tình hình
hiện nay của trẻ, xác định các hạn chế hoặc yếu tố ảnh hưởng đến trẻ…Vấn đề của
em Thức hiện nay có thể được xác định qua điểm mạnh và điểm yếu như sau:
Điểm mạnh
Điểm yếu
- Thực chất em không phải là một học - Em học kém hơn so với trước, hay
sinh kém, em khá thông minh. Môn trốn học, bỏ tiết.
học em ưa thích và được coi là trợ thủ
của mình chính là mơn Văn và mơn
Sinh học. Em học kém mơn Tốn.
- Em đá bóng rất giỏi, được mọi người - Em khơng có bố
phong là cầu thủ xuất sắc.
- Em có khả năng làm thủ lĩnh trong - Hay đánh nhau với bạn, ức hiếp các
một nhóm.
em nhỏ tuổi hơn trong trung tâm.

- Em có trung tâm bảo trợ, có sự giúp - Em khơng cịn mẹ và bà
đỡ từ nhiều phía.
Các vấn đề đó đều có những nguyên nhân phát sinh, nhưng theo tôi nguyên
nhân lớn nhất là do hoàn cảnh. Từ sau khi bà mất, em dường như khơng cịn là em
nữa. Em học theo những thói hư tật xấu ở bên ngồi. Để giúp đỡ em Thức, tơi đã
khơng qn tìm các điểm mạnh của thân chủ. Đó chính là nội lực, là nguồn lực mà
chúng ta cần phải dựa vào đó để giải quyết vấn đề.
Thứ ba là thu thập dữ liệu: Trong bước này, nhân viên công tác xã hội không
chỉ thu thập thơng tin từ trẻ mà cịn thu thập thơng tin của những người xung quanh
trẻ để có cách nhìn khách quan và khái quát hơn về vấn đề đó. Để biết và hiểu hơn
về em Thức, ngồi việc tìm hiểu từ em, tôi đã nhờ tới sự giúp đỡ của Kiểm huấn

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

18


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

viên và các cơ trong nhà C1. Đó là hệ thống nguồn lực mà tôi cần phải khai thác.
Như trên đã trình bày, từ sau khi bà mất, em đã coi như mình khơng có q khứ,
em khơng nói với ai về bản thân mình. Bởi vậy, để thu thập thơng tin về em là rất
khó và khơng đủ, tơi đã nói chuyện và tìm hiểu từ các cơ ni dạy em, từ nhóm
đồng đẳng của em. Chính các nguồn lực này đã giúp tôi rất nhiều trong quá trình
hiểu biết về em.

Thứ tư là chẩn đốn: Dựa trên những thông tin thu nhận được, người nhân
viên công tác xã hội có thể xác định được tính chất nghiêm trọng của vấn đề cũng
như các yếu tố nảy sinh vấn đề của trẻ. Qua đó, tìm ra các mối liên hệ. Từ các bước
ở trên, bản thân tôi nhận thấy vấn đề quan trọng của em Thức hiện nay cần phải tác
động chính là việc giúp em giảm thiểu khả năng trốn học, học tốt hơn, khơng được
có hành động ức hiếp các em nhỏ. Đồng thời, phát huy được nội lực của em.
Thứ năm là kế hoạch trị liệu: Ở bước này, nhân viên công tác xã hội cần phải
xác định mục tiêu đạt được thông qua một bản kế hoạch sẽ được thực hiện đối với
trẻ, bản kế hoạch đó có thể là các thơng tin như: thời gian gặp trẻ, vai trò của bố
mẹ, người thân, quá trình thực hiện…Trong thời gian tìm hiểu, tiếp xúc với em
Thức, biết được hoàn cảnh của em và mong muốn giúp em, tôi đã đưa ra một kế
hoạch trị liệu cụ thể và nó sẽ là bản kế hoạch để theo đó tơi tiến hành trị liệu cho
em. Kế hoạch trị liệu đó tập trung vào một số việc sau đây:
- Kèm em học bài, nhất là trong thời gian em ơn thi học kì.
- Động viên, an ủi em, đưa ra những lời khen để em cảm thấy tự hào về
bản thân mình.
- Đề cập một cách nhẹ nhàng đến những vấn đề hiện tại của em và đưa ra
những lời khuyên phù hợp.
- Tổ chức các trò chơi, cùng em vui chơi, từ đó khuyến khích em.
- Cùng với hệ thống xung quanh em là những người đang trực tiếp dạy dỗ
em, các bạn trong cơ sở phối hợp cùng để trị liệu cho em một cách có
hiệu quả hơn.
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Cơng tác xã hội K51

19


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân


Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

Tất cả nội dung trên đều được tôi vạch rõ trong kế hoạch trợ giúp cho thân
chủ, nó nhằm mục đích để thân chủ thay đổi theo hướng tích cực hơn.
Thứ sáu là trị liệu: Đây là bước thực hành của bước kế hoạch trị liệu. Khi
nhân viên xã hội đưa ra kế hoạch trị liệu cho thân chủ của mình rồi thì cần phải
tiến hành trị liệu, chữa trị cho trẻ. Trong quá trình trị liệu cho em Thức ngồi một
số thuận lợi, tơi đã gặp khơng ít khó khăn. Mặc dù lên kế hoạch trị liệu là vậy
nhưng khi tác nghiệp đã có những vấn đề địi hỏi tơi phải thay đổi lại hoặc đưa
thêm vào vì như vậy sẽ thuận lợi hơn cho tiến trình trợ giúp. Xét toàn bộ vấn đề
của thân chủ, khi trị liệu tôi đã tiến hành sử dụng một số kĩ thuật và lý thuyết trong
công tác xã hội với cá nhân:
 Về kĩ thuật:
Đó là kĩ thuật “chiếc cốc đầy một nửa” và kĩ thuật “chuyến tàu cuộc đời”.
Kỹ thuật “chiếc cốc đầy một nửa” nêu lên những mong muốn và nhận thức của
thân chủ về sự thiếu hụt trong cuộc sống của em. Từ khi sinh ra Thức không biết
bố mình là ai, em thiếu đi tình thương của người bố và hiện tại hai người thân duy
nhất của em là mẹ và bà cũng đã qua đời. Em mong muốn có tình thương u từ
những người ruột thịt nhưng em lại khơng có được. Sử dụng kĩ thuật này tôi đã biết
được phần nào những mong muốn và suy nghĩ của em. Riêng đối với kĩ thuật thứ
hai đó là việc cho thân chủ nhìn thấy một bức tranh vẽ đồn tàu trong đó bao gồm
nhiều toa khác nhau. Mỗi toa ứng với một thời gian mà thân chủ sống, những khó
khăn mà thân chủ phải trải qua. Ở “ chuyến tàu cuộc đời”, nhân viên xã hội chỉ ra
cho thân chủ vấn đề hiện tại của thân chủ đang nằm ở toa nào và nếu dần dần giải
quyết từng bước thì cuối cùng con tàu đó sẽ về tới đích, tức là thân chủ sẽ có một
cái kết có hậu. Khi áp dụng kĩ thuật này cho thân chủ của tôi, tôi đã thu được kết
quả khả quan. Nó đã động viên và khích lệ em rất nhiều.
 Về lý thuyết:

Có 2 thuyết được tơi sử dụng, đó là: thuyết nhận thức- hành vi và thuyết hệ
thống.
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

20


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

+ Nội dung của thuyết nhận thức- hành vi nói rằng: Mọi hành vi đều xuất
phát từ sự nhận thức của con người. Nhận thức đúng sẽ dẫn tới hành vi đúng và
ngược lại, nhận thức chi phối hành vi. Vì vậy, để thay đổi hành vi, chúng ta đòi hỏi
phải thay đổi nhận thức.
Trường hợp thân chủ là em Thức, hành vi của em hiện nay đều được xem là
lệch chuẩn. Em thường hay bỏ học, đánh bạn, ức hiếp em nhỏ tuổi hơn mình…đó
là những hành vi không đúng với chuẩn mực mà xã hội đưa ra. Hành vi đó được
bắt nguồn từ nhiều ngun nhân. Vì vậy, để thay đổi những hành vi không đúng
của em, tơi đã tiến hành trị chuyện, động viên dần đưa ra những lời khuyên đúng
đắn cho em thấy rằng em hành động như vậy là khơng đúng để từ đó em thay đổi
lại hành vi của mình.
+ Nội dung của thuyết hệ thống: Thuyết hệ thống tập trung đến các hệ thống
đang tồn tại xung quanh thân chủ. Nó cịn được coi là các nguồn lực để có thể trợ
giúp cho thân chủ. Những hệ thống xung quanh đó gồm có hệ thống chính thức, hệ
thống phi chính thức và hệ thống xã hội.
Áp dụng cho thân chủ tôi nhận thấy tồn tại xung quanh thân chủ là các hệ

thống lớn bé khác nhau, đó là hệ thống bạn bè, hệ thống trường lớp, hệ thống của
cơ sở bảo trợ xã hội….Những hệ thống này góp phần rất lớn vào cuộc sống và
nhận thức của em. Có thể xem mơ hình dưới đây tương đương với sơ đồ sinh thái

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

21


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

Nhóm đồng đẳng
( Bạn bè trong
trung tâm)

Trường học

Bạn bè

Thân
chủ(Thức
)
Trung tâm
bảo trợ xã hội
( Birla)


Cộng đồng

Nhân viên công
tác xã hội

Qua thực tế tìm hiểu tơi được thấy rằng: Ngồi hệ thống trường lớp, thì ngay
tại trung tâm, trong nhà C1 có hai mẹ chăm sóc và dạy dỗ Thức. Ở đây, em được
hưởng mọi sự ưu đãi và giáo dục như những em cùng trang lứa, được nhận tình
thương, được có một mái ấm, có anh, có chị…Khơng chỉ có vậy, bên cạnh bạn bè
trong nhà C1 tôi chú ý thấy có em Hải và em Hợp là hai người có thể tác động đến
thân chủ nhiều nhất. Em Hải là học sinh lớp 8, học lực vào loại trung bình nhưng
em ln tỏ vẻ là người anh mẫu mực trong nhà, luôn nhường nhịn các em khác.
Thức thường nghe những lời khuyên của Hải. Với em Hợp- em giữ vị trí “ nhà
trưởng”, là học sinh giỏi, là người chị gương mẫu trong nhà. Kế hoạch trị liệu của
tôi đưa ra là sẽ tìm sự trợ giúp từ hai em nhưng do em Hợp bận ôn thi cuối cấp nên
tôi chỉ dừng lại ở việc nhờ em Hải tác động tích cực đến thân chủ của mình. Qua

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

22


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức


hai tháng trị liệu cho thân chủ và kết quả mang lại rất khả quan. Thân chủ đã có
những thay đổi tích cực: Em chăm học hơn, ít ức hiếp các em nhỏ trong nhà, ít bỏ
học ở trường hơn…Đó cũng là mục đích mà cơng tác xã hội cá nhân hướng đến.
Bước cuối cùng là lượng giá: Khi đã trị liệu cho trẻ rồi nhân viên xã hội cần
đánh giá lại xem quá trình thực hiện đã tốt chưa? Nếu cần thay đổi thì sẽ thay đổi
như thế nào? Đồng thời có thế đưa ra kế hoạch trong tương lai gần. Sau q trình
chữa trị, nhân viên cơng tác xã hội cần phải chú trọng đến việc phục hồi những
chức năng về thể chất, tâm lý và xã hội của trẻ.
Đối với em Thức, qua quá trình trị liệu đạt kết quả, tôi nhận thấy rằng nếu
muốn đạt kết quả tốt hơn nữa cần phải nhờ đến sự phối hợp của các cô tại trung
tâm, nhất là hai cơ trực tiếp chăm sóc và dạy dỗ Thức, kèm theo đó là các em lớn
tuổi hơn thân chủ ngay tại nơi thân chủ đang sống. Chính những nguồn lực đó đã
giúp tơi có thể trợ giúp thân chủ thành cơng
Q trình tơi tiến hành can thiệp với thân chủ, ngoài những phương pháp
được sử dụng thường xuyên như thu thập thông tin từ các hệ thống xung quanh
thân chủ, quan sát các hoạt động của thân chủ, tơi cịn trực tiếp tiến hành thu thập
thơng tin từ chính thân chủ của mình, để em có thể bày tỏ về hoàn cảnh, về quá
khứ mà em đã từng xem là khơng tồn tại. Cũng đã có nhiều buổi trị chuyện được
diễn ra, nhiều buổi thành công và nhiều buổi không như mình mong muốn nhưng
nhìn chung việc can thiệp đã có kết quả tốt đẹp. Em Thức đã chăm học hơn so với
trước( thời gian học ở nhà tăng lên), em đã hạn chế việc bỏ học ở trên lớp, ít đánh
nhau với bạn bè hơn và đặc biệt một điểm thấy rõ ở em là em đã đối xử tốt, hịa
nhã với những em ít tuổi ở trung tâm, ít bị hai mẹ chê trách và được các em q
mến hơn.
Như đã nói ở phần trên, ngồi những phương pháp như quan sát, trò chuyện
với hệ thống xung quanh thân chủ để tìm hiểu về thân chủ, tơi cịn tiến hành phúc
trình với thân chủ. Tơi đã tiến hành rất nhiều buổi phúc trình khác nhau. Chín trong
những buổi phúc trình đó tơi sẽ nêu ra trong phần phụ lục ở cuối bài báo cáo.
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51


23


Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

Phần 3: Nhìn lại đợt thực tập
Chúng ta cũng biết rằng, kiến thức học được từ sách vở chỉ là một phần, là
cơng cụ để mình tiến hành các hoạt động, điều quan trọng ở đây là phải áp dụng
những cơng cụ, kiến thức đó như thế nào vào hoạt động thực tiễn. Để chuẩn bị cho
quá trình thực tập này, tơi đã được tìm hiểu, cung cấp rất nhiều các kiến thức ở trên
lớp, đã có những sự chuẩn bị kĩ càng khi mình đi xuống cơ sở. Tuy vậy, những
thách thức và mối lo âu không phải là khơng có:
Trước hết, đây là lần đầu tiên đi thực tập nên còn rất nhiều bỡ ngỡ và mới lạ.
Tơi tị mị hơn là sợ những người sẽ cùng làm việc với mình, họ như thế nào? Liệu
họ, đặc biệt là thân chủ có giống như những gì mình đã được học và trang bị ở trên
lớp?
Thứ hai, tôi sợ mắc phải những khuyết điểm khơng đáng có nên đã chuẩn bị
mọi tình huống để có thể giải quyết được.

Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

24



Nội dung báo cáo thực tập
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Khv: Lê Trọng Đức

Thứ ba, vì các em ở cơ sở phải đi học cả ngày nên tôi cũng e ngại việc tiếp
xúc và trị liệu cho thân chủ của mình sẽ gặp nhiều hạn chế.
Và như tơi đã nói ở phần báo cáo, trong q trình thực tập, ngồi những
thuận lợi tơi đã gặp, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô, các chú ở trung tâm,
của cô giáo chủ nhiệm, tơi cũng đã khơng tránh khỏi những khó khăn nhất định,
những khó khăn đó là:
Trước hết, tơi đã tốn khá nhiều thời gian cho việc liên hệ với cơ sở thực tập.
Thứ hai, phương tiện đi lại không được thuận lợi, phải đi xe buýt nên nhiều
khi đến trung tâm không đúng hẹn.
Thứ ba, đây là lần thực tập mơn học đầu tiên nên cịn nhiều bỡ ngỡ và gặp
phải khó khăn trong một số hoạt động ở cơ sở.
Thứ tư, đối tượng mà tôi muốn tiếp cận là các em tại trung tâm, tuy nhiên
thời gian sinh hoạt và làm việc của tơi và các em hồn tồn lệch nhau, cả tuần các
em đi học nên muốn gặp các em chỉ có đến vào thứ bảy, chủ nhật hoặc vào các
buổi tối trong tuần. Bên cạnh đó, các em ở trung tâm, nhất là thân chủ tôi muốn tác
nghiệp đã có một bạn sinh viên tình nguyện ở trường khác đến dạy kèm nên tơi
phải bố trí thời gian sao cho phù hợp để tránh việc đến trung tâm vào lúc em đang
có người dạy.
Tuy nhiên, tơi cũng nhận thấy một điều rằng: Nếu khơng có đợt thực tập này
thì những kiến thức của tơi được trang bị từ trước sẽ khó có thể được áp dụng và từ
đó khơng có được một cái nhìn khách quan về khả năng của bản thân mình. Chính
đợt thực tập này đã đưa lại cho tơi nhiều điều bổ ích và lý thú. Tơi tự cảm thấy
mình lớn lên rất nhiều sau hai tháng thực tập, được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm,
được thể hiện khả năng của mình với tư cách là một nhân viên công tác xã hội

tương lai. Cụ thể hơn là:
Tơi được trực tiếp làm trưởng nhóm của nhóm sinh viên thực tập tại trung
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51

25


×