Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Thực hành Công tác xã hội với cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.01 KB, 78 trang )

Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
MỤC LỤC
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
1
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
S
t
t
Nội dung Tr
an
g
I Lời cảm ơn 2
I
I
Nội dung 4
Phần 1: Lời giới thiệu về làng trẻ Birla 5
Phần 2: Tiến trình làm việc và can thiệp với
thân chủ
14
1 Tiểu sử về thân chủ 14
2 Tiến trình Công tác xã hội với cá nhân qua quá
trình làm việc và can thiệp với em Thức
19
Phần 3: Nhìn lại đợt thực tập 27
I
I
I
Một số buổi phúc trình 32


I
V
Phụ lục( Một số hình ảnh về làng trẻ em Birla) 70
Bài tự lượng giá thực tập của sinh viên 72
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
2
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
Bản đánh giá của kiểm huấn viên 76
Lời cảm ơn
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
3
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
Trong thời gian vừa qua, với yêu cầu của môn học “ Thực hành Công
tác xã hội với cá nhân”, tôi đã tiến hành thực tập tại làng trẻ Birla ( số 4
Doãn Kế Thiện- Mai Dịch- Cầu Giấy- Hà Nội). Thời gian thực tập kéo
dài hai tháng, từ 23/3 đến 23/5 và thời gian đến trung tâm tối thiểu là
hai buổi trong một tuần và mỗi buổi kéo dài hai tiếng. Qua làm việc tại
trung tâm tôi đã được giám đốc, phó giám đốc tạo mọi điều kiện thuận
lợi nhất để tôi có thể tiến hành các hoạt động của mình trong đợt thực
tập môn học này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến kiểm
huấn viên của mình là anh Lê Trọng Đức đã hướng dẫn, giúp đỡ, cung
cấp những thông tin cần thiết liên quan đến môn học. Cảm ơn hai cô:
Cô Nhung và cô Lan đã luôn là cầu nối cho quá trình tôi tiến hành các
hoạt động với các em và thân chủ của mình. Đồng thời, tôi cũng muốn
gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo bộ môn Ngô Thị Thanh Mai đã
giúp tôi liên hệ với cơ sở và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập.

Đợt thực tập này là cơ hội thuận lợi để tôi có thể áp dụng những kiến
thức đã học của mình vào thực tiễn, vào tiến trình giúp đỡ thân chủ.
Quả thực tôi cảm thông cho hoàn cảnh của các em ở làng trẻ, nếu không
có đợt thực tập này thì tôi sẽ không có cơ hội xây đắp thêm những lỗ
hổng kiến thức của mình. Các em tuy có hoàn cảnh éo le và chịu nhiều
thiệt thòi nhưng bù lại các em có tấm lòng yêu thương nhau và đây là
điểm đã ghi lại sâu sắc trong lòng tôi. Tuy vậy, trong quá trình thực tập
ngoài một số thuận lợi, tôi đã gặp không ít những khó khăn nhất định và
nó đã phần nào hạn chế đến quá trình thực tập.
Thời gian thực tập kết thúc và tôi nhận thấy mình đã có nhiều cố gắng để
hoàn thành tốt các nhiệm vụ tại cơ sở và các yêu cầu liên quan đến môn học.
Theo yêu cầu môn học cứ mỗi tuần có tối thiểu hai buổi để làm việc với các em
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
4
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
và mỗi buổi là hai giờ nhưng tôi đã tận dụng hết thời gian có thể để đến cơ sở và
tiến hành thực tập. Trong hai tháng là những nỗ lực của tôi và tôi đã thu được kết
quả. Tôi xin gửi kèm báo cáo thực tập phần nội dung thực tập cụ thể của mình ở
trang đính kèm. Một lần nữa tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các cô, các
chú tại trung tâm Birla, cảm ơn cô giáo bộ môn đã giúp đỡ tận tình. Chúc mọi
người sức khỏe và hạnh phúc!
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2009
Sinh viên
Bùi Thị Liên
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
5
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai

Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
Nội dung
Như chúng ta đều biết, thực tập Công tác xã hội là hoạt động sinh viên
Công tác xã hội được đưa xuống các cơ sở xã hội để làm các công việc của một
nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong một thời gian nhất định. Đây là
giai đoạn sinh viên vận dụng những lý thuyết, kỹ năng đã học để hỗ trợ một thân
chủ cụ thể trong bối cảnh cơ sở xã hội. Đây được xem là một khâu bắt buộc
trong quy trình đào tạo Công tác xã hội.
Với vai trò là những bên có liên quan, mối quan hệ giữa sinh viên thực tập
công tác xã hội với điều phối viên, giáo viên hướng dẫn thực hành và kiểm huấn
viên ở cơ sở thực tập là rất lớn. Mối quan hệ đó được thể hiện rõ bằng sơ đồ sau
đây:
Hỗ trợ Hỗ trợ
Phối hợp, hỗ trợ,
quản lý
Theo mô hình hóa như trên, chúng ta thấy rõ hơn việc sinh viên thực tập
được hỗ trợ như thế nào trong quá trình thực tập tại cơ sở.
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
6
Sinh viên thực tập công
tác xã hội
- Điều phối viên
- Giáo viên hướng dẫn
thực hành
CƠ SỞ ĐÀO TẠO
Kiểm huấn viên
CƠ SỞ THỰC TẬP
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức

Và như bản báo cáo đã trình bày, đây cũng là phần chính của báo cáo.
Trong phần nội dung cụ thể của báo cáo này, tôi xin chia thành ba phần chính
như sau:
Phần 1: Tổng quan về cơ sở- làng trẻ em Birla
Phần 2: Tiến trình giúp đỡ một thân chủ cụ thể
Phần 3: Nhìn lại đợt thực tập
Nội dung cụ thể các phần như sau:
Phần 1: Tổng quan về cơ sở- làng trẻ em Birla
Chúng ta thường biết và nhắc nhiều đến làng trẻ SOS mà không biết rằng
ngay cạnh làng trẻ đó còn tồn tại một làng trẻ mà mục đích hoạt động chẳng
khác nào làng trẻ SOS, chỉ khác rằng quy mô và sự quan tâm của chúng ta tới
làng trẻ đó còn quá ít. Đó là làng trẻ em Birla. Đây là một trung tâm nuôi dạy trẻ
mồ côi của Thành phố Hà Nội. Nó trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội Hà Nội, được thành lập ngày 2/11/1987, theo quyết định số 5026/QĐ-TC của
UBND Thành Phố.
Như chúng ta biết, con người sinh ra đều có những số phận và hoàn cảnh
khác nhau. Có những người sinh ra đã có một cuộc sống sung sướng, hạnh phúc,
có một mái ấm gia đình đầy ắp tiếng cười, được sống trong tình thương của bố
mẹ, người thân. Nhưng cũng có những số phận kém may mắn, những đứa trẻ
sinh ra đã không được biết bố mình là ai, mẹ mình là ai. Cuộc sống khó khăn đến
với các em khi các em còn quá nhỏ. Tuổi thơ của em phải chịu nhiều thiệt thòi.
Và để bù đắp phần nào, che chở phần nào cho những thân phận mồ côi đó, một
trung tâm chăm sóc trẻ mồ côi trong cả nước lại tiếp tục được ra đời. Đó là làng
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
7
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
trẻ Birla.
Hiện nay địa điểm của làng trẻ tại: Số 4 phố Doãn Kế Thiện - Phường Mai

Dịch - Quận Cầu Giấy - Thành phố Hà Nội. Làng trẻ Birla tính đến nay đã hoạt
động được 23 năm và nó cũng có một lịch sử thành lập và phát triển.
1. Lịch sử về làng
Làng trẻ em Birla là công trình quà tặng của ngài Birla người Ấn Độ -
Giáo sư tiến sĩ - Tổng giám đốc Tập đoàn Công nghiệp nhẹ Cimcô - Birla và gia
đình tặng UBND Thành Phố Hà Nội khi ngài đi thăm và làm việc tại Việt Nam
năm 1983.
Công trình được khởi công xây dựng năm 1985 và hoàn thành năm 1987
với cơ sở hạ tầng ban đầu bao gồm:
- Khu A là nơi làm việc của bộ máy quản lý của Làng trẻ và khu học nghề,
sinh hoạt ngoại khoá của Làng trẻ sau giờ đi học tại trường Công lập
- Nhà mẫu giáo N
- 02 nhà nuôi trẻ C1, C2 với quy mô nuôi 25 trẻ / nhà
Sau khi xây dựng xong công trình, gia đình Ngài Birla giao lại cho UBND
Thành phố Hà Nội quản lý ( Ngài Birla bị bệnh hiểm nghèo đã qua đời khi công
trình chưa xây dựng xong) và gia đình cùng tập đoàn Cimcô Birla không giúp đỡ
gì thêm cho các cháu mồ côi của làng.
Ngày 15-8-1988 Làng trẻ đón 50 trẻ hoàn toàn mồ côi cả cha lẫn mẹ, phát
triển bình thường ở độ tuổi đón vào 2 - 12 tuổi của Thành phố Hà Nội vào nuôi,
nguồn kinh phí nuôi dưỡng do UNND Thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm.
Đến năm 1992 bằng tình cảm và sự cố gắng của cán bộ, của các bà mẹ dù
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
8
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
số cán bộ không tăng, trang bị cơ sở vật chất của 02 nhà nuôi trẻ như cũ, Làng đã
nuôi lên 80 trẻ.
Những hoạt động của làng trẻ không chỉ thu hút sự chú ý của các cấp lãnh
đạo và người dân thành phố mà nó còn nhận được sự quan tâm của các tổ chức

nước ngoài, đặc biệt là sự quan tâm của ngài đại sứ hữu nghị Việt- Nhật
SUGIRYOTARO. Ông đã quan tâm và giúp đỡ làng trong hai mươi năm nay.
Hiện nay ông nhận đỡ đầu cho 30 con sống trong làng và đã trưởng thành.
Năm nào ông cũng tới thăm( ít nhất một lần) trao quà và chia sẻ những khó
khăn mà làng trẻ gặp phải. Thông qua các hoạt động, ông cũng kêu gọi nguồn hỗ
trợ ODA của Nhật. Nhân dịp 20 năm thành lập, Chính phủ Nhật đã tặng 86.000$
để xây dựng thêm một nhà chăm sóc và nuôi dạy trẻ ở trong làng. Tuy nhiên, số
tiền nói trên không đủ để khởi công xây dựng và phải xin thêm trợ cấp của thành
phố. Dự án đã được UBND Thành phố phê duyệt và cấp ngân sách của Nhà
nước xây dựng xong trong năm 1998. Ngôi nhà được khánh thành vào tháng
3/2009.
Số lượng trẻ mồ côi hiện nay được nuôi tại Làng trẻ ở 04 gia đình (nhà C1,
C2, C3, C4) là 120 trẻ. Mỗi gia đình có từ 30 đến 40 em đủ mọi lứa tuổi và hai
mẹ, riêng nhà C4 do mới xây dựng nên hiện tại chỉ có 2 em nhỏ trong gia đình.
Làng trẻ em Birla từ khi ra đời đến nay đã có những bước tiến đáng kể.
Làng đã gặp không ít những thuận lợi và khó khăn nhưng cán bộ và các em trong
làng đều đã cùng cố gắng vươn lên. Vì điều kiện và số lượng có hạn nên làng trẻ
chỉ đón nhận những em có hoàn cảnh như sau:
2. Điều kiện để trẻ được nhận vào nuôi dưỡng tại làng trẻ và chế độ
nuôi dưỡng tại làng trẻ
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
9
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
a. Điều kiện để trẻ được nhận vào nuôi dưỡng tại làng trẻ
- Các em mồ côi cả cha lẫn mẹ, mồ côi cha hoặc mẹ (người còn lại ốm đau
- nghèo khó không thể nuôi được con) có hộ khẩu thường trú tại Thành Phố Hà
Nội.
- Các em được đón vào Làng trẻ ở độ tuổi 2 - 12 và phát triển bình thường.

- Các em là trẻ có nguồn gốc gia đình. Khi mồ côi cha mẹ được thân nhân
làm đơn trình các cấp có thẩm quyền xin cho trẻ vào các trung tâm nuôi trẻ mồ
côi của Thành phố. Khi Thành phố có quyết định tiếp nhận thì trẻ được Làng đón
vào nuôi theo chỉ tiêu Nhà nước giao hàng năm.
b. Chế độ nuôi dưỡng tại làng trẻ
Trong làng, ở mỗi đơn vị gia đình, các em đều được nuôi dưỡng và
chăm sóc như những gia đình bình thường ngoài xã hội. Các em có mẹ, có anh
chị em. Ngoài giờ học ở trường các em tham gia giúp đỡ mẹ: trồng rau, chăn
nuôi lợn, gà để cải thiện bữa ăn và rèn luyện ý thức lao động.
Khi vào Làng, tuỳ theo độ tuổi các em được học từ lớp mẫu giáo đến hết
phổ thông trung học (lớp 12). Quá trình sống tại Làng từ 13 tuổi trở lên các em
được Làng tổ chức học nghề (may) tại Làng, hoặc gửi đi học nghề tại các trung
tâm (điện tử, điện lạnh, nấu ăn...) ở các trung tâm trong dịp hè. Trong dịp hè các
em còn được Làng tổ chức các lớp năng khiếu như: múa, hát, đàn, vẽ... Đối với
những em tốt nghiệp phổ thông, các em được Làng khuyến khích thi đại học, cao
đẳng, trung cấp. Và nếu đỗ sẽ được làng hỗ trợ kinh phí để học tập.
Sau khi đến 18 tuổi học xong phổ thông trung học, các em trưởng thành trở
về với thân nhân, với xã hội và phải tự mình kiếm sống.
Cũng cần nói thêm rằng trong thời gian sinh sống tại làng, mỗi năm các em
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
10
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
được phép về thăm gia đình hai lần. Vào các dịp hè, các em được tổ chức đi
tham quan du lịch. Theo như tôi biết, năm 2008 các em được tổ chức đi Đồ Sơn
và theo kế hoạch năm nay, ban quản lý sẽ tổ chức cho các em đi vui chơi ỏ bãi
biển Cửa Lò.
Kế hoạch là vậy nhưng khó khăn lớn nhất của làng trẻ từ trước tới giờ vẫn
là nguồn kinh phí. Nguồn kinh phí không đủ để chi trả cho cán bộ và nuôi dạy

các em trong Làng.
3. Tình hình tài chính chung
Hiện nay, Bộ máy quản lý của Làng trẻ em Birla Hà Nội được nhà nước
giao chỉ tiêu là 23 người. Bao gồm:
- Ban giám đốc: 03 người. (Hiện nay chỉ có 2 người)
- Phòng Tổ chức - Hành chính: 08 người
- Phòng Y tế - Nuôi dưỡng: 08 người (trong đó có 07 bà mẹ)
- Phòng Giáo dục - Dạy nghề: 04 người
Lương và các khoản phụ cấp của bộ máy quản lý Làng trẻ do Nhà nước
cấp như sau:
Lương bình quân của cán bộ quản lý và các bà mẹ là 1.716.000
đồng/người/tháng (mỗi bà mẹ chịu trách nhiệm nuôi từ 18 - 19 trẻ).
Tình hình tài chính để nuôi dưỡng - giáo dục trẻ mồ côi được Ngân sách
Thành phố cấp như sau:
Tổng số tiền cho trẻ: 350.000 đồng/trẻ/tháng"
- Tiền ăn 3 bữa/ ngày: 300.000 đồng/trẻ/tháng tức 10.000/trẻ/ngày
- Tiền chi khác: 50.000 đồng/trẻ/tháng gồm:
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
11
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
+Tiền điện nước phục vụ sinh hoạt cho trẻ
+Tiền học (sách vở, đồ dùng học tập, học phí)
+Tiền mua thuốc chữa bệnh
+Tiền mua quần áo( mặc thường ngày- đồng phục), giày dép
+Các hoạt động ngoại khoá
Qua những nỗ lực và cố gắng của những con người nơi đây, từ cấp quản lý,
các cán bộ tới các bà mẹ và các con, những thành tựu mà làng trẻ em Birla hiện
nay đạt được là những kết quả đáng mừng và đáng trân trọng:

4. Những kết quả đã đạt được trong quá trình hoạt động của làng trẻ
Thành lập ngày 20-11-1987 đến nay đã được hơn 20 năm, Làng trẻ đã tiếp
nhận và nuôi dạy 259 trẻ mồ côi của Thành phố.
Kết quả học tập hàng năm đạt từ 98 - 100% trẻ được lên lớp. Tỷ lệ khá giỏi
từ 50-65%; tỷ lệ con ngoan trò giỏi đạt từ 70-75%; tỷ lệ trẻ thi đỗ cao đẳng, đại
học từ 40-45%.
Từ năm 1994 đến nay, Làng trẻ đã có 183 em rời khỏi Làng: 97 trẻ trưởng
thành trở về với thân nhân (khi đủ 18 tuổi - học xong lớp 12), 17 trẻ được nhận
làm con nuôi (trong đó 13 trẻ làm con nuôi người nước ngoài, 03 trẻ làm con
nuôi người trong nước). Trong 97 trẻ trưởng thành có 14 trẻ học Đại học các
ngành: Kinh tế, Sư phạm ngoại ngữ, Quản trị kinh doanh, Giao thông, Thương
mại. Có 20 trẻ học xong Trung cấp các ngành: Bảo trợ xã hội, Sư phạm, Điện tử,
Điện lạnh. Số còn lại được Làng tạo điều kiện học các nghề: may, điện, nấu ăn,
thủ công mỹ nghệ ở các Trung tâm dạy nghề của Thành phố.
Đa số các em học nghề, một số học Trung cấp được Làng và các trung tâm
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
12
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
học nghề tạo điều kiện xin việc làm để có thể tự nuôi sống bản thân và tự mình
phấn đấu sau khi rời khỏi làng.
Không những vậy, khi các em còn sống trong làng, các em được giáo dục
về giới tính sức khỏe sinh sản, về những kiến thức tâm sinh lý nhằm mục đích
trang bị cho bản thân để các em có thêm kiến thức phục vụ cho mình.
Đối với những em khi được các gia đình trong và ngoài nước nhận làm con
nuôi, mặc dù đi xa nhưng các em vẫn gắn bó tình cảm với Làng, vẫn thường
xuyên liên hệ về Làng, về thăm Làng, thăm mẹ và các anh chị em trong dịp Lễ
Tết.
Trong hơn 20 năm nuôi dưỡng, các em trong Làng được tham gia các

chương trình ngoại khoá của Thành phố, Ngành, địa phương và đều đạt thành
tích cao. Đó là một kết quả đáng trân trọng, là sự cố gắng của cán bộ và các em
trong Làng.
Ngoài ra, khi các em đã lớn, đến tuổi lập gia đình, Làng đã đứng ra tổ chức
lễ cưới cho 28 em và có giúp đỡ ban đầu cho gia đình mới của các em.
Một kết quả đáng tự hào nhất của Làng trẻ em Birla là đã nuôi dạy các em
mồ côi trưởng thành, trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Tuy nhiên, song song với những thành tích đã đạt được, làng trẻ luôn gặp
những trở ngại mà trở ngại lớn nhất là nguồn kinh phí nuôi dạy trẻ trong làng
còn thiếu thốn. Kinh phí được nhà nước cấp cho việc sinh hoạt, học tập của trẻ
quá thấp so với nhu cầu của các em:
5. Những khó khăn của làng trẻ trong quá trình nuôi dưỡng, giáo dục
trẻ
+ Về sinh hoạt: Không cung cấp đủ nguồn dinh dưỡng cho trẻ trong qua
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
13
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
trình nuôi dưỡng và sư phát triển của trẻ.
+ Quần áo, sách vở, đồ dùng học tập của trẻ không đáp ứng đủ nhu cầu.
+ Về hoạt động khác: không có kinh phí cho trẻ học tập thêm để nâng cao
kỹ năng và trình độ nên khả năng trẻ mồ côi tại Làng thi đỗ vào đại học còn hạn
chế.
- Các em thi đỗ vào đại học, cao đẳng, trung cấp nếu tiếp tục đi học gặp rất
nhiều khó khăn trong học tập và sinh hoạt vì Làng không còn kinh phí được nhà
nước cấp nuôi trẻ khi trẻ đã trưởng thành.
- Khi các em hoạt động ngoại khoá ở xa không có phương tiện đi lại.
- Công tác dạy nghề tại đơn vị chưa có điều kiện đầu tư: hiện tại Làng có
01 xưởng may hoạt động, còn lại xưởng mộc, hàn, điện chưa có.

Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, với yêu cầu ngày càng cao của cuộc
sống, trung tâm nuôi dạy trẻ đã gặp không ít những khó khăn, việc thiếu ngân
sách để có thể đảm bảo cho các em trong làng có một cuộc sống tốt hơn luôn là
điều khiến các cán bộ quản lý phải đau đầu suy nghĩ.
Làng trẻ em Birla bên cạnh thiên chức là một đơn vị bảo trợ xã hội, đây
còn là nơi để các em mồ côi có được một mái ấm gia đình, là nơi các em được
đón nhận tình thương yêu, được chăm sóc nuôi dạy để trở thành những công dân
tốt của xã hội. Trung tâm và các em luôn mong muốn được sự quan tâm và giúp
đỡ của mọi người, của các tổ chức khác trong và ngoài nước. Với truyền thống
lâu nay của dân tộc: “Lá lành đùm lá rách”, “ Lá rách ít đùm lá rách nhiều”,
chúng ta hãy có trách nhiệm cùng chung tay để giúp đỡ các em có một cuộc sống
tốt đẹp hơn, giúp làng trẻ ngày một phát triển thêm và trong đó trách nhiệm của
người làm Công tác xã hội là rất lớn.
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
14
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
Trên đây là phần tóm lược về làng trẻ em Birla và cũng là cơ sở nơi tôi
thực tập. Phần tiếp theo tôi xin đi sâu bài báo cáo của mình về tiến trình can
thiệp và làm việc với thân chủ.
Phần 2: Tiến trình làm việc và can thiệp với thân chủ
Trong chúng ta chắc hẳn ai cũng biết tiếp cận và làm việc với trẻ bình
thường đã khó, nay làm việc với trẻ em mồ côi lại càng khó hơn. Trong thời gian
thực tập tại làng trẻ Birla, tôi đã được tiếp xúc và làm quen với nhiều đối tượng
trẻ em mồ côi. Mỗi em đều có những hoàn cảnh khó khăn khác nhau. Tuy nhiên,
qua quá trình làm việc, tôi đã chọn lựa hai đối tượng là hai em nam có độ tuổi
khác nhau, cấp bậc học khác nhau để làm việc. Và cuối cùng, tôi đã đi đến can
thiệp với một đối tượng cụ thể của mình. Tuy nhiên, trong giới hạn bài báo cáo
này, tôi xin trình bày thêm về hoàn cảnh của hai em và lý do vì sao tôi lại tiến

hành chọn một trong hai em đó để làm đối tượng can thiệp của mình.
1. Tiểu sử về thân chủ:
Trường hợp 1:
Em tên là Cao Văn Thức, 18 tuổi. Hiện đang là học sinh lớp 9 trường trung
học phổ thông Cầu Giấy( Hà Nội). Mẹ em là một người đàn bà tha phương cầu
thực từ đâu tới Sóc Sơn( Hà Nội) sinh sống. Bà không có anh em họ hàng thân
thích, hàng ngày chỉ biết đi mò cua bắt ốc ngoài đồng về bán lấy tiền mua gạo.
Chị miệt mài lao động kiếm sống. Cuộc sống của chị gặp nhiều thiếu thốn và
khó khăn. Không may trong một đêm đi mò cua bắt ốc ngoài đồng, chị đã bị một
gã say rượu cưỡng hiếp và mang thai. Cuộc sống của một người đã khó nay lại
đèo bòng them một người nữa càng làm tăng sự thiếu thốn lên gấp bội.
Bà của Thức là một bà lão góa bụa, mù lòa, già yếu, gặp mẹ Thức và hai
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
15
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
người sống với nhau, xem nhau như mẹ con. Do cuộc sống khó khăn, thiếu thốn,
lao động nặng nhọc mà mẹ Thức sau khi sinh em xong đã không lâu nữa qua đời,
để lại hai bà cháu côi cút trong căn lều nhỏ rách nát ngoài đồng, ngày qua ngày
nương tựa vào nhau mà sống. Túp lều chỉ vẻn vẹn được một chiếc chõng tre, tối
đến bà nằm một bên còn một bên em ngồi học bài. Em chăm học, học giỏi. Thấy
tình cảnh khốn khó của hai bà cháu, chính quyền địa phương đã làm đơn xin cho
em được vào làng trẻ Birla( hiện nay em đang sống). Lúc mới vào, Thức học lóp
4 và liên tiếp trong hai năm lớp 4, lóp 5 em đều đạt học sinh giỏi. Tuy có một
cuộc sống tốt hơn trước nhưng em vẫn không lúc nào không nhớ về người bà
đang ở quê. Những lúc trời mưa, mọi người vẫn thường thấy em ra đứng ôm cột
nhà khóc. Hỏi ra mới biết em vì thương bà, không biết những lúc trời mưa bà
phải chống chịu ra sao với căn lều rách nát và gió lạnh của mình. Trong những
năm sống ở trung tâm, tận dụng thời gian mà trung tâm cho nghỉ, em lại về quê

đi cắt rạ phơi khô cho bà đun nấu. Hai bà cháu mặc dù không cùng chung giọt
máu nhưng đã thương nhau và giành tình cảm cho nhau. Thức không lúc nào
không nhớ đên bà. Một thời gian sau vì già yếu, bà Thức qua đời, lúc đó cũng là
lúc em bước vào cấp hai. Do những tác động, hoàn cảnh mà con người em thay
đổi hoàn toàn. Em vờ như mình không có quá khứ trước đây. Học hành chểnh
mảnh, hay bỏ học, tụ tập bạn bè gây gổ đánh nhau. Học lực của em giảm sút.
Những em dưới tuổi hoặc bằng tuổi ở trong làng trẻ đều sợ em.. Tuy nhiên, cũng
cần nói thêm rằng, ngoài nhược điểm của em bây giờ, em vẫn có những ưu điểm
và chúng ta cần đặc biệt quan tâm hơn khi tiếp cận với thân chủ. Em đá bóng
giỏi và có thể làm thủ lĩnh trong đám bạn bè.
Qua tiểu sử của em Thức, chúng ta hình thành nên một sơ đồ phả hệ như
sau:
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
16
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
Chú thích:
_ _ _ _ _ _ _ _ _: Mối quan hệ lỏng lẻo
: Mối quan hệ thân thiết
: Mối quan hệ xa cách
Trường hợp 2
Em là Hòa. Họ tên đầy đủ là Trần Văn Hòa, quê ở huyện Sóc Sơn( Hà
Nội). Em đang là học sinh lớp 3 trường tiểu học Cầu Giấy( Hà Nội). Em không
có bố. Mẹ em tính tình ngẩn ngơ, hiện nay đang đi rửa bát thuê cho các nhà
hàng. Do di truyền từ người mẹ, em thường hay đãng trí, thường nhớ lúc đó
nhưng không lâu sau lại quên. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chính
khiến học lực của em kém so với các bạn cùng trang lứa. Hiện nay, em còn có
bà, có cậu và có dì vẫn thỉnh thoảng đến thăm em.
Sinh viên: Bùi Thị Liên

Lớp: Công tác xã hội K51
Mẹ
Bố

Thân chủ(
em Thức)
17
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
Sơ đồ phả hệ:
Chú thích:
_ _ _ _ _ _ _ _ _: Mối quan hệ lỏng lẻo
: Mối quan hệ thân thiết
: Mối quan hệ xa cách
Như tôi đã nói ở phần đầu, hai em Thức và Hòa đều có những hoàn cảnh
đặc trưng riêng. Mỗi em khi tiếp cận sẽ có những thuận lợi và khó khăn nhất
định:
• Đối với thân chủ là em Hòa:
Vấn đề lớn của em bây giờ là việc học tập. Học lực của em kém so với các
bạn trong lớp. Kì vừa rồi, học lực của em xếp thứ 39/41. Tuy nhiên, điểm mạnh
mà em có được là em là học sinh ngoan, biết nghe lời. Hiện nay, ngoài trung tâm
ra em còn có mẹ, có người thân( Bà, cậu, dì…). Vì vậy, để giúp em chúng ta cần
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
Mẹ
Bố

Thânchủ(
em Hòa)
18

Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
xác định các nguồn lực đang tồn tại xung quanh thân chủ. Đó sẽ là hệ thống tốt
để trợ giúp em tiến bộ hơn.
• Đối với thân chủ là em Thức:
So với nhiều em ở trung tâm thì em Thức là đối tượng đặc biệt. Hoàn cảnh
của em rất đáng thương. Hiện nay, ngoài trung tâm là nơi nuôi dạy em, em không
còn một người thân nào hết. Là một đứa bé sinh ra không biết cha mình là ai, mẹ
mất, người bà không phải cùng dòng máu với em cũng qua đời. Sinh ra vốn
không phải là một đứa trẻ hư hỏng, ngược lại em học rất giỏi. Nhưng những tác
động của môi trường xung quanh, những biến động trong cuộc sống đã làm con
người em thay đổi. Bản chất của một con người vốn không phải tự nhiên mà thay
đổi nhanh chóng. Bản thân em là một đứa trẻ ngoan, biết nghe lời. Đó là điểm
mạnh mà chúng ta cần biết để khai thác. Nhưng điều quan trọng hiện nay ở em
chính là từ chỗ những điểm mạnh đó dần bị lấn sân bởi những thói xấu. Em học
kém hơn, hay trốn tiết, đánh nhau với bạn ở lớp. Ở nhà thường cậy lớn bắt nạt
nhỏ, cậy to ức hiếp các bạn nữ. Em đã thay đổi hoàn toàn, quá khứ của em, hoài
niệm của em về người bà còm cõi trong túp lều, về người mà dường như đã
không còn tồn tại trong tâm trí em nữa. Nếu như trước đây em thương bà,
thương mẹ bao nhiêu, thường đứng khóc một mình khi trời mưa thì giờ đây hình
ảnh đấy đã không còn nữa. Em đã coi mình là một người không có quá khứ. Rõ
ràng, không một ai là không có những điểm mạnh, những nội lực bên trong bên
cạnh những thói xấu. Em Thức cũng vậy, bản chất em là con người tốt. Đồng
thời, với lứa tuổi của em hiện nay, em đủ kiến thức để hiểu về những gì mình
đang làm và những gì mình phải chịu. Chính dựa vào những điểm này, chúng ta
có thể giúp em thay đổi để em trở thành một học sinh ngoan, học giỏi.
Trên đây là hai đối tượng mà tôi muốn tiến hành can thiệp. Tuy nhiên, vì
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
19

Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
yêu cầu và thời hạn không cho phép nên tôi chỉ tiến hành được với một thân chủ.
Qua quá trình phân tích và làm việc với hai em, tôi quyết định chọn em Thức
làm thân chủ chính của mình bởi lẽ em Hòa còn nhỏ, suy nghĩ còn mang tính trẻ
con. Em Thức đang ở bậc học trung học cơ sở, lứa tuổi này đã có những thay đổi
trong suy nghĩ và nhận thức của mình. Tôi cũng hi vọng trong quá trình giúp đỡ
em Thức, em sẽ thay đổi lại suy nghĩ và hành động, em sẽ có một cái nhìn đúng
đắn hơn về bản thân và về cuộc sống của mình.
2. Tiến trình Công tác xã hội với cá nhân qua quá trình làm việc và
can thiệp với em Thức
Thời gian thực tập ở trung tâm kéo dài trong hai tháng và việc lựa chọn,
lên kế hoạch trị liệu và trị liệu cho thân chủ của tôi kéo dài trong vòng 5 tuần.
Khoảng thời gian này không thể nói là dài và đủ để tiến hành trợ giúp một người,
khiến người đó có thể thay đổi bản thân mình. Đồng thời, tôi đã gặp khó khăn
cho việc giành thời gian để tiếp cận thân chủ. Vốn trong Công tác xã hội làm
việc với cá nhân, chúng ta thường tiến hành giúp đỡ thân chủ qua bảy bước và để
trị liệu một cách có hiệu quả, tôi đã tiến hành lập kế hoạch. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp kế hoạch đó cũng phải được thay đổi cho phù hợp. Trong bản kế
hoạch tôi nêu ra có sử dụng thời gian giúp đỡ thân chủ vào ban ngày nhưng do
em học ở lớp nên tôi không thể tiếp cận em một cách thường xuyên. Ở đây, khi
tiến hành làm việc với em Thức, tôi vẫn thực hiện đúng những bước trong tiến
trình và đã đạt kết quả khả quan. Quá trình trị liệu đó được diễn ra như sau:
Thứ nhất là tiếp cận thân chủ: Ở đây, chúng ta cần tạo mối quan hệ tốt với
trẻ để trẻ có niềm tin về người nói chuyện. Từ đó sẽ có thể thu thập thông tin một
cách tốt nhất. Em Thức là em có hoàn cảnh rất cá biệt. Trong nhà C1 cũng có
nhiều em với nhiều hoàn cảnh khác nhau nhưng xét trên nhiều phương
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
20

Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
diện( hoàn cảnh sống, lứa tuổi…) tôi nhận thấy em là đối tượng cần tiếp cận và
giúp đỡ nhiều. Khi tiến hành tiếp cận với em Thức, tôi đã gặp không ít khó khăn.
Khó khăn ở đây không phải do em là người khó bắt chuyện, ngược lại em là
người rất dễ gần, dễ nói chuyện. Nhưng chính cái tưởng như thuận lợi ấy lại là
điều gây khó khăn cho tôi trong quá trình làm việc với em. Em hay trêu đùa
người khác và khiến người nói chuyện rất khó để đề cập với em về vấn đề chính
của mình.
Thứ hai là nhận diện vấn đề: Nhân viên công tác xã hội xác định các vấn
đề liên quan đến trẻ, xác định các nhu cầu của trẻ, các nguyên nhân dẫn tới tình
hình hiện nay của trẻ, xác định các hạn chế hoặc yếu tố ảnh hưởng đến trẻ…Vấn
đề của em Thức hiện nay có thể được xác định qua điểm mạnh và điểm yếu như
sau:
Điểm mạnh Điểm yếu
- Thực chất em không phải là một học
sinh kém, em khá thông minh. Môn
học em ưa thích và được coi là trợ thủ
của mình chính là môn Văn và môn
Sinh học. Em học kém môn Toán.
- Em học kém hơn so với trước, hay
trốn học, bỏ tiết.
- Em đá bóng rất giỏi, được mọi người
phong là cầu thủ xuất sắc.
- Em không có bố
- Em có khả năng làm thủ lĩnh trong
một nhóm.
- Hay đánh nhau với bạn, ức hiếp các
em nhỏ tuổi hơn trong trung tâm.
- Em có trung tâm bảo trợ, có sự giúp

đỡ từ nhiều phía.
- Em không còn mẹ và bà
Các vấn đề đó đều có những nguyên nhân phát sinh, nhưng theo tôi
nguyên nhân lớn nhất là do hoàn cảnh. Từ sau khi bà mất, em dường như không
còn là em nữa. Em học theo những thói hư tật xấu ở bên ngoài. Để giúp đỡ em
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
21
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
Thức, tôi đã không quên tìm các điểm mạnh của thân chủ. Đó chính là nội lực, là
nguồn lực mà chúng ta cần phải dựa vào đó để giải quyết vấn đề.
Thứ ba là thu thập dữ liệu: Trong bước này, nhân viên công tác xã hội
không chỉ thu thập thông tin từ trẻ mà còn thu thập thông tin của những người
xung quanh trẻ để có cách nhìn khách quan và khái quát hơn về vấn đề đó. Để
biết và hiểu hơn về em Thức, ngoài việc tìm hiểu từ em, tôi đã nhờ tới sự giúp đỡ
của Kiểm huấn viên và các cô trong nhà C1. Đó là hệ thống nguồn lực mà tôi cần
phải khai thác. Như trên đã trình bày, từ sau khi bà mất, em đã coi như mình
không có quá khứ, em không nói với ai về bản thân mình. Bởi vậy, để thu thập
thông tin về em là rất khó và không đủ, tôi đã nói chuyện và tìm hiểu từ các cô
nuôi dạy em, từ nhóm đồng đẳng của em. Chính các nguồn lực này đã giúp tôi
rất nhiều trong quá trình hiểu biết về em.
Thứ tư là chẩn đoán: Dựa trên những thông tin thu nhận được, người nhân
viên công tác xã hội có thể xác định được tính chất nghiêm trọng của vấn đề
cũng như các yếu tố nảy sinh vấn đề của trẻ. Qua đó, tìm ra các mối liên hệ. Từ
các bước ở trên, bản thân tôi nhận thấy vấn đề quan trọng của em Thức hiện nay
cần phải tác động chính là việc giúp em giảm thiểu khả năng trốn học, học tốt
hơn, không được có hành động ức hiếp các em nhỏ. Đồng thời, phát huy được
nội lực của em.
Thứ năm là kế hoạch trị liệu: Ở bước này, nhân viên công tác xã hội cần

phải xác định mục tiêu đạt được thông qua một bản kế hoạch sẽ được thực hiện
đối với trẻ, bản kế hoạch đó có thể là các thông tin như: thời gian gặp trẻ, vai trò
của bố mẹ, người thân, quá trình thực hiện…Trong thời gian tìm hiểu, tiếp xúc
với em Thức, biết được hoàn cảnh của em và mong muốn giúp em, tôi đã đưa ra
một kế hoạch trị liệu cụ thể và nó sẽ là bản kế hoạch để theo đó tôi tiến hành trị
liệu cho em. Kế hoạch trị liệu đó tập trung vào một số việc sau đây:
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
22
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
- Kèm em học bài, nhất là trong thời gian em ôn thi học kì.
- Động viên, an ủi em, đưa ra những lời khen để em cảm thấy tự hào về
bản thân mình.
- Đề cập một cách nhẹ nhàng đến những vấn đề hiện tại của em và đưa
ra những lời khuyên phù hợp.
- Tổ chức các trò chơi, cùng em vui chơi, từ đó khuyến khích em.
- Cùng với hệ thống xung quanh em là những người đang trực tiếp dạy
dỗ em, các bạn trong cơ sở phối hợp cùng để trị liệu cho em một cách
có hiệu quả hơn.
Tất cả nội dung trên đều được tôi vạch rõ trong kế hoạch trợ giúp cho thân
chủ, nó nhằm mục đích để thân chủ thay đổi theo hướng tích cực hơn.
Thứ sáu là trị liệu: Đây là bước thực hành của bước kế hoạch trị liệu. Khi
nhân viên xã hội đưa ra kế hoạch trị liệu cho thân chủ của mình rồi thì cần phải
tiến hành trị liệu, chữa trị cho trẻ. Trong quá trình trị liệu cho em Thức ngoài một
số thuận lợi, tôi đã gặp không ít khó khăn. Mặc dù lên kế hoạch trị liệu là vậy
nhưng khi tác nghiệp đã có những vấn đề đòi hỏi tôi phải thay đổi lại hoặc đưa
thêm vào vì như vậy sẽ thuận lợi hơn cho tiến trình trợ giúp. Xét toàn bộ vấn đề
của thân chủ, khi trị liệu tôi đã tiến hành sử dụng một số kĩ thuật và lý thuyết
trong công tác xã hội với cá nhân:

• Về kĩ thuật:
Đó là kĩ thuật “chiếc cốc đầy một nửa” và kĩ thuật “chuyến tàu cuộc đời”.
Kỹ thuật “chiếc cốc đầy một nửa” nêu lên những mong muốn và nhận thức của
thân chủ về sự thiếu hụt trong cuộc sống của em. Từ khi sinh ra Thức không biết
bố mình là ai, em thiếu đi tình thương của người bố và hiện tại hai người thân
duy nhất của em là mẹ và bà cũng đã qua đời. Em mong muốn có tình thương
yêu từ những người ruột thịt nhưng em lại không có được. Sử dụng kĩ thuật này
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
23
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
tôi đã biết được phần nào những mong muốn và suy nghĩ của em. Riêng đối với
kĩ thuật thứ hai đó là việc cho thân chủ nhìn thấy một bức tranh vẽ đoàn tàu
trong đó bao gồm nhiều toa khác nhau. Mỗi toa ứng với một thời gian mà thân
chủ sống, những khó khăn mà thân chủ phải trải qua. Ở “ chuyến tàu cuộc đời”,
nhân viên xã hội chỉ ra cho thân chủ vấn đề hiện tại của thân chủ đang nằm ở toa
nào và nếu dần dần giải quyết từng bước thì cuối cùng con tàu đó sẽ về tới đích,
tức là thân chủ sẽ có một cái kết có hậu. Khi áp dụng kĩ thuật này cho thân chủ
của tôi, tôi đã thu được kết quả khả quan. Nó đã động viên và khích lệ em rất
nhiều.
• Về lý thuyết:
Có 2 thuyết được tôi sử dụng, đó là: thuyết nhận thức- hành vi và thuyết
hệ thống.
+ Nội dung của thuyết nhận thức- hành vi nói rằng: Mọi hành vi đều xuất
phát từ sự nhận thức của con người. Nhận thức đúng sẽ dẫn tới hành vi đúng và
ngược lại, nhận thức chi phối hành vi. Vì vậy, để thay đổi hành vi, chúng ta đòi
hỏi phải thay đổi nhận thức.
Trường hợp thân chủ là em Thức, hành vi của em hiện nay đều được xem
là lệch chuẩn. Em thường hay bỏ học, đánh bạn, ức hiếp em nhỏ tuổi hơn

mình…đó là những hành vi không đúng với chuẩn mực mà xã hội đưa ra. Hành
vi đó được bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Vì vậy, để thay đổi những hành vi
không đúng của em, tôi đã tiến hành trò chuyện, động viên dần đưa ra những lời
khuyên đúng đắn cho em thấy rằng em hành động như vậy là không đúng để từ
đó em thay đổi lại hành vi của mình.
+ Nội dung của thuyết hệ thống: Thuyết hệ thống tập trung đến các hệ
thống đang tồn tại xung quanh thân chủ. Nó còn được coi là các nguồn lực để có
thể trợ giúp cho thân chủ. Những hệ thống xung quanh đó gồm có hệ thống
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
24
Nội dung báo cáo thực tập Gvhd: Ngô Thị Thanh Mai
Môn: Thực hành Công tác xã hội với cá nhân Khv: Lê Trọng Đức
chính thức, hệ thống phi chính thức và hệ thống xã hội.
Áp dụng cho thân chủ tôi nhận thấy tồn tại xung quanh thân chủ là các hệ
thống lớn bé khác nhau, đó là hệ thống bạn bè, hệ thống trường lớp, hệ thống của
cơ sở bảo trợ xã hội….Những hệ thống này góp phần rất lớn vào cuộc sống và
nhận thức của em. Có thể xem mô hình dưới đây tương đương với sơ đồ sinh
thái
Qua thực tế tìm hiểu tôi được thấy rằng: Ngoài hệ thống trường lớp, thì
ngay tại trung tâm, trong nhà C1 có hai mẹ chăm sóc và dạy dỗ Thức. Ở đây, em
được hưởng mọi sự ưu đãi và giáo dục như những em cùng trang lứa, được nhận
Sinh viên: Bùi Thị Liên
Lớp: Công tác xã hội K51
Thân
chủ(Thức
)
Trường học
Trung tâm
bảo trợ xã hội

( Birla)
Bạn bè
Cộng đồng
Nhóm đồng đẳng
( Bạn bè trong
trung tâm)
Nhân viên công
tác xã hội
25

×