1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 02
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
HỌ VÀ TÊN
Nguyễn Thị Thu Thủy
Ngơ Thị Phương Thảo
Nguyễn Thị Điệp
Nguyễn Bình Nhi
Hồng Văn Hiệu
Trần Thị Thúy
Nguyễn Thị Hồng Anh
Trần Thảo Ly
Ngơ Đại Đức
MÃ SINH VIÊN
19063157
19063148
19063038
19063128
19063070
19063160
19063015
19063108
19063040
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TMĐT: Thương mại điện tử
NTD: Người tiêu dùng
BCT: Bộ công thương
BTTTT: Bộ Thông tin truyền thông
Cục QLCT&BVNTD: Cục Quản lí cạnh tranh và Bảo vệ người tieu dùng
UBND: Uỷ ban Nhân dân
Mục lục
2
3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÍ
CỦA SÀN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Khái quát chung về sàn thương mại điện tử
1.1. Thương mại điện tử
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Trong khi đó, khoản 1 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định, hoạt động thương mại
điện tử (TMĐT) là việc tiến hành một phần hoặc tồn bộ quy trình của hoạt động thương mại
bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các
mạng mở khác.
Như vậy, thương mại điện tử bản chất vẫn là hoạt động mua bán hàng hố nhưng thay vì diễn
ra trực tiếp thơng qua hành vi của các cá nhân, tổ chức thì sẽ diễn ra trên mỗi trường Internet
trên các nền tảng là các website bán hàng, mạng viễn thông được đăng ký theo quy định của
pháp luật.
1.2. Sàn thương mại điện tử
Sàn thương mại điện tử được hiểu là một kênh bán hàng trực tuyến được nhiều người bán
hàng, chủ shop bán hàng hay các doanh nghiệp, công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh
hàng hóa, sản phẩm hàng hóa ưa chuộng và sử dụng nhiều nhất.
Đây là một trong những hình thức kinh doanh online phổ biến nhất hiện nay, là biểu tượng
của cuộc cách mạng công nghiệp hiện đại. Các nền tảng thương mại điện tử ra đời như một
giải pháp hữu ích và thiết thực cho người tiêu dùng. Tạo môi trường giao dịch, mua bán trực
tuyến thuận tiện cho cả người bán và người mua.
Sàn giao dịch thương mại điện tử là một website thương mại điện tử cho phép các thương
nhân, tổ chức, cá nhân khơng phải chủ sở hữu của website có thể tiến hành tồn bộ hoặc một
phần quy trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên website đó. Ví dụ một số cái tên như Shopee,
Lazada, Tiki, Sendo đang vô cùng thành cơng khi triển khai hình thức này.
4
Định nghĩa sàn giao dịch thương mại điện tử được quy định cụ thể trong Điều 3 Nghị Định Số
52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử. Pháp luật quy định về sàn giao dịch thương mại điện
tử nêu rõ, nếu website cho phép các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác đăng ký tài khoản,
đăng tải thơng tin, hình ảnh quảng cáo về doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ để kinh doanh thì
bắt buộc phải đăng ký dưới dạng sàn giao dịch thương mại điện tử.
Tuy nhiên, hiện đăng ký sàn giao dịch TMĐT chỉ các thương nhân, tổ chức mới được tiến
hành, không áp dụng cho cá nhân. Do vậy, để website được duy trì, người thành lập cần đăng
ký hình thức doanh nghiệp hoặc hộ kinh doanh cá thể. Sau đó mới tiến hành bước tiếp theo là
đăng ký website cung cấp dịch vụ TMĐT (sàn giao dịch TMĐT). Hồ sơ đăng ký website cung
cấp dịch vụ TMĐT theo hướng dẫn tại Điều 7 Thông tư số 12/2013/TT-BCT quy định thủ tục
thông báo, đăng ký và công bố thông tin liên quan đến website thương mại điện tử.
Căn cứ khoản 1 Điều 35 Nghị định 52/2013/NĐ-CP, thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ
sàn giao dịch TMĐT là thương nhân, tổ chức thiết lập website TMĐT để các thương nhân, tổ
chức, cá nhân khác có thể tiến hành một phần hoặc tồn bộ quy trình mua bán hàng hóa, dịch
vụ trên đó.
Việc tổ chức giao dịch trên sàn TMĐT được diễn ra dưới các hình thức:
•
Website cho phép người tham gia được mở các gian hàng trên đó để trưng bày, giới thiệu
hàng hóa hoặc dịch vụ;
•
Website cho phép người tham gia được lập các website nhánh để trưng bày, giới thiệu
hàng hóa hoặc dịch vụ;
•
Website có chun mục mua bán trên đó cho phép người tham gia đăng tin mua bán hàng
hóa và dịch vụ;
•
Các loại website khác do Bộ Cơng Thương quy định.
Hiện nay, hình thức tạo lập website cho phép phép người tham gia được mở các gian hàng
trên đó để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ đang rất phổ biến. Người tham gia
trưng bày, giới thiệu hàng hố có thể phải đăng ký thành lập doanh nghiệp hoặc hộ kinh
doanh theo quy định. Tại Việt Nam, một số website về sàn giao dịch thương mại điện tử lớn
là: Tiki, Shopee, Lazada, Sendo…
5
2. Đặc điểm của sàn thương mại điện tử
•
Sàn giao dịch thương mại điện tử là hình thức mà tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ, hoạt động với tư cách là người mơi giới.
•
Có rất nhiều phương thức giao dịch tại sàn giao dịch điện tử.
•
Thiết lập các quy tắc cho các thành viên của sàn và có thể áp dụng các hình phạt đối
với các thành viên vi phạm.
•
Số lượng người mua, người bán và nhà cung cấp tham gia rất lớn.
•
Người tham gia có thể là người bán, người mua hoặc cả hai.
•
Thể hiện mối quan hệ cung cầu hàng hóa của thị trường. Giá hình thành trên sàn giao
dịch thương mại điện tử là giá chung cho sản phẩm trên thị trường.
•
Tất cả các q trình giao dịch mua bán, đàm phán, thương lượng và thanh tốn đều
được thực hiện trực tuyến trên Internet.
•
Người mua, người bán có thể tham gia giao dịch tại sàn mọi lúc mọi nơi.
•
Hàng hóa và dịch vụ được giao dịch rất đa dạng và phong phú, cả vơ hình và hữu
hình.
•
Thực hiện trao đổi thơng tin và kết nối khách hàng.
•
Thành viên tham gia sàn giao dịch được khai thác thơng tin về thị trường, sản phẩm,
chính sách …
3. Quy định của pháp luật chung về trách nhiệm của sàn thương mại điện tử đối với
người tiêu dùng
3.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương
mại điện tử
Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh
hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được
sử dụng lâu dài và được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật, được bảo đảm thực
hiện bằng cường chế của nhà nước. Như vậy, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
6
trong thương mại điện tử là những quy phạm pháp luật đặc thù điều chỉnh hoạt động bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng nói chung được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế.
Trong thương mại truyền thống, hành vi tiêu dùng của NTD được thể hiện bằng cách thức
trực tiếp, đến tận nơi, nhìn tận mắt và sờ tận tay. Có thể xác định được chủ thể kinh doanh là
ai, kiểm tra được nguồn gốc, xuất xứ và chất lượng của sản phẩm. Do vậy, về cơ bản, NTD đã
có những nhận định và thơng tin ban đầu về việc quyết định có giao kết hợp đồng hay không.
Ngược lại, đặc trưng của TMĐT là tính gián tiếp của giao dịch. Mọi hoạt động từ chào bán,
đăng tải thông tin, đến giao kết hợp đồng đều được thực hiện thông qua dữ liệu điện tử và
đường truyền internet. Bên bán và bên mua không biết nhau từ trước, hàng hóa, dịch vụ chỉ
được thể hiện bằng hình ảnh và những thơng tin mà bên bán cung cấp trên các trang web bán
hàng hoặc những trang web cho phép bán hàng khác. NTD chưa thể xác định được chất
lượng, nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm. Do vậy, NTD càng bị yếu thế về mặt thông tin.
Do vậy, bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT so với thương mại truyền thông cần được quan
tâm sát sao hơn và bảo vệ toàn diện hơn trên nhiều khía cạnh. Nổi bật chính là việc bảo vệ
thơng tin cá nhân của NTD và bảo vệ quyền được thông tin của NTD trong giao dịch với tổ
chức, cá nhân kinh doanh theo phương thức TMĐT.
3.2. Nội dung pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử
Lợi ích của TMĐT đã quá rõ ràng: giúp doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về thị
trường và đối tác; giảm chi phí sản xuất, chi phí bán hàng và tiếp thị; thơng qua internet giúp
NTD và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Do đó, ý thức được
tầm quan trọng của TMĐT, ngày 29/11/2005, Quốc hội nước ta đã ban hành Luật Giao dịch
điện tử và nhằm cụ thể hóa những quy định của Luật giao dịch điện tử về TMĐT, ngày
(09/06/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về TMĐT,
trong đó tập trung quy định giá trị pháp lý của chứng từ điện tử và việc sử dụng chúng trong
hoạt động thương mại.
Tuy nhiên, tại thời điểm đó, vấn đề về bảo vệ quyền lợi NTD trong giao dịch điện tử vẫn chưa
được chú trọng, cụ thể cả Luật giao dịch điện tử 2005 và Nghị định 57/2006/NĐ-CP về
TMĐT đều khơng có quy định rõ ràng về trách nhiệm bảo vệ quyền lợi NTD trong giao dịch
điện tử. Luật bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 được ban hành cũng khơng có một quy định cụ
thể nào liên quan bảo vệ NTD trong TMĐT, mà chỉ đề cập đến bảo vệ quyền lợi NTD nói
chung. Để cụ thể hóa luật, Nghị định 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi
7
NTD được ban hành lần đầu tiên để cập đến việc giao kết hợp đồng từ xa, là tiền đề cho các
quy định liên quan đến TMĐT sau này.
Sau đó, một loạt các văn bản pháp luật tiếp tục được ban hành có điều chỉnh những vấn đề
liên quan đến TMĐT như: Nghị định 52/2013/NĐ-CP về TMĐT thay thế cho Nghị định
57/2006/NĐ-CP về TMĐT; Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo
vệ quyền lợi NTD; Thông tư 47/2014/TT-BCT của BCT ngày 05/12/2014 quy định về quản lý
website TMĐT ...Như vậy, có thể thấy pháp luật về bảo vệ NTD trong hoạt động TMĐT được
ghi nhận rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau, đặc biệt liên quan đến tính đặc thù của
TMĐT là các giao dịch được xác lập thông qua việc truyền tải dữ liệu qua mạng internet và
tập trung quy định về các nội dung sau:
Một là, quy định nguyên tắc xác định nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi NTD trong hoạt động
TMĐT
Đây được xem là một trong những nội dung cơ sở, là tiền đề để xây dựng pháp luật về bảo vệ
NTD nói chung và bảo vệ NTD trong TMĐT nói riêng. Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi NTD là
tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong hoạt động bảo vệ NTD, Dựa trên những nguyên tắc này,
các tổ chức, cá nhân và cộng đồng xã hội thực hiện các hoạt động bảo vệ NTD hợp lý, phù
hợp với quy định của pháp luật. Những nguyên tắc này được quy định tại Điều 4 Luật bảo vệ
quyền lợi NTD 2010.
Hai là, quy định về bảo vệ thông tin của NTD trong TMĐT
Nội dung này được xem là nội dung quan trọng nhất trong vấn đề bảo vệ NTD trong TMĐT,
Bởi tỉnh đặc thù của TMĐT là hoạt động giao kết hợp đồng được diễn ra trong khơng gian ảo,
được mã hóa thành dữ liệu điện tử vơ hình mà NTD khơng thể nắm bắt và quan sát được. Với
một môi trường không gian mang rộng lớn, kết nối toàn cầu như vậy, tiềm ẩn những rủi ro về
an ninh mạng và an tồn thơng tin người dùng là vô cùng lớn. Giống như giao kết hợp đồng
thông thường, các bên phải đưa ra những thông tin cá nhân để xác lập tư cách chủ thể và để
xác lập được giao dịch thì giao kết hợp đồng TMĐT cũng vậy, chỉ có khác biệt về cách thức
thực hiện và truyền tải nội dung. Theo đó, một khi đã xác định giao kết hợp đồng điện tử,
nhập dữ liệu về thông tin cá nhân để xác lập giao dịch thì NTD phải đối mặt với nguy cơ bị
tiết lộ thông tin, đánh cắp thông tin và giả mạo thông tin cá nhân từ những tin tặc hoạt động
trong lĩnh vực mạng. Bởi vậy, yêu cầu về bảo vệ an tồn thơng tin NTD trong TMĐT là cần
thiết và vô cùng cấp bách. Nội dung này được quy định tại hầu hết các văn bản có liên quan
8
đến TMĐT như: Luật Giao dịch điện tử 2005; Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010; Nghị định
52/2013/NĐ-CP; Luật An tồn thơng tin mạng 2015.
Ba là, quy định trách nhiệm của tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đổi NTD
trong TMĐT
Có một số ý kiến cho rằng đây mới là điểm nhấn của pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD nói
chung và bảo vệ quyền lợi NTD trong hoạt động TMĐT nói riêng. Bởi lẽ, đặc thù của kinh
doanh TMĐT là việc người bản và người mua không trực tiếp “mặt đối mặt” với nhau mà
thực hiện thông qua mạng internet hoặc các mạng viễn thông khác, được mã hóa bằng dữ liệu
điện tử. Như vậy, trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đổi với
NTD càng phải đặt lên hàng đầu. Nếu các chủ thể kinh doanh có ý thức tuân thủ đúng quy
định của pháp luật về trách nhiệm của mình thì sẽ tạo được mơi trường kinh doanh hiện đại,
thuận tiện, hợp lý, phù hợp với xu hướng kinh doanh chung của thế giới, và quyền lợi của
NTD luôn được bảo đảm. Ngược lại, nếu các chủ thể kinh doanh không tuân thủ quy định của
pháp luật, khơng làm trịn trách nhiệm của mình thì sẽ là một bất lợi lớn đối với quyền lợi của
NTD nói riêng và của tồn xã hội nói chung khi những hành vi vi phạm ngày càng gia tăng
theo chiều hướng tinh vi hơn, tồi tệ hơn, ảnh hưởng đến môi trường và đạo đức kinh doanh
của thị trường.
Bốn là, quy định về xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT
Pháp luật hiện đang quy định có các hình thức xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm của các
tổ chức, cá nhân kinh doanh trong hoạt động TMĐT như sau: xử lý kỷ luật; xử lý vi phạm
hành chính hoặc xử lý hình sự tùy thuộc vẫn mức độ nghiêm trọng của hành vi. Ngồi ra cịn
phải bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra và một số hình phạt bổ sung khác.
Năm là, quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân khác trong việc tham gia bảo vệ
quyền lợi NTD trong TMĐT
Bảo vệ quyền lợi NTD trong TMĐT là trách nhiệm không chỉ của các tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ mà cịn của các tổ chức, các nhân khác trong xã hội, cụ thể là các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức xã hội và chính mỗi cá nhân trong xã hội. Pháp
luật hiện hành đã có những quy định chung về trách nhiệm bảo vệ quyền lợi NTD của hệ
thống các cơ quan nhà nước ở Trung ương như: Bộ quản lý chuyên ngành là BCT và các Bộ
liên quan phối hợp thực thực hiện như BTTTT, Bộ Cơng an, Bộ Y tế, Trực thuộc Bộ có các
Cục quản lý chuyên môn như QLCT&BVNTD (BCT); Cục TMĐT và kinh tế số (BCT);... ở
địa phương, trách nhiệm quản lý chung được giao cho UBND các cấp và Sở Công thương các
9
cấp. Trách nhiệm cụ thể được quy định tại chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan, đơn vị này.
Ngồi hệ thống cơ quan nhà nước thì các tổ chức xã hội là một cơ chế tham gia bảo vệ quyền
lợi NTD trong TMĐT. Các tổ chức này được gọi chung là Hội bảo vệ quyền lợi NTD và cũng
được xây dựng từ Trung ương tới địa phương, hoạt động theo điều lệ và tự chủ về tài chính
với hoạt động chính là tư vấn, hỗ trợ NTD trong giải quyết vi phạm quyền lợi.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA SÀN THƯƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ TRONG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
1. Thực trạng về thực hiện các quy định của pháp luật
Những năm gần đây, thương mại điện tử (TMĐT) phát triển mạnh mẽ và trở thành kênh phân
phối hiện đại với nhiều tiện ích, được nhiều người tiêu dùng lựa chọn. Tuy nhiên, bên cạnh
những lợi ích thiết thực thì hoạt động TMĐT vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro khi hàng giả, hàng nhái,
… xuất hiện khiến người tiêu dùng hoang mang. Do đó các cơ quan chức năng cần tăng
cường cơng tác quản lý, cũng như có những chế tài xử phạt rõ ràng nhằm đảm bảo quyền lợi
cho người tiêu dùng.
Thương mại điện tử về cơ bản là việc ứng dụng các phương tiện điện tử vào hoạt động kinh
doanh, thương mại. Hiện nay, mạng lưới Internet phát triển và phổ cập rộng rãi, tạo điều kiện
cho hoạt động kinh doanh trực tuyến phát triển và mang lại cho chủ thể kinh doanh những giá
trị và lợi ích to lớn. Chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử bên cạnh việc tuân thủ các
quy định trực tiếp về Thương mại điện tử, còn phải thực hiện các quy định pháp luật liên quan
khác như đầu tư kinh doanh, thương mại, dân sự.. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật về Thương mại điện tử trở nên cần thiết và cấp bách. Pháp luật về thương mại
điện tử được xem là công cụ pháp lý bảo vệ, định hướng chủ thể kinh doanh, tạo ra môi
trường kinh doanh thông qua Thương mại điện tử an toàn. Trên cơ sở quy định của pháp luật
các chủ thể xác định được các quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp phù hợp nhất với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình khi có tranh
chấp xảy ra. Các quy định về trách nhiệm pháp lý của sàn thương mại điện tử trong bảo vệ
người tiêu dùng được ghi rõ trong nhiều các văn bản luật khác nhau nhưng rõ nét hơn cả là
Luật Đầu tư 2020, Luật Doanh nghiệp 2020. Các quy định này định hướng cho sự phát triển
chung của sàn thương mại điện tử mà vẫn bảo đảm việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Qua theo dõi, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng ghi nhận các sàn thương mại điện tử
làm việc khá nghiêm túc, các chính sách với người tiêu dùng được công khai, minh bạch. Hầu
10
hết các vụ việc khiếu nại giải quyết không thành công đều liên quan đến các cá nhân hoặc hộ
kinh doanh nhỏ lẻ trên các sàn thương mại điện tử.
Bà Đỗ Trúc Quỳnh, đại diện sàn thương mại điện tử Shopee cho hay, trong thời gian qua,
Shopee đã áp dụng chính sách hỗ trợ người tiêu dùng theo cam kết đảm bảo cung cấp trải
nghiệm mua sắm trực tuyến bảo mật, an tồn. Bên cạnh đó, các ngân hàng sẽ thanh toán cho
người bán khi đơn hàng được xác nhận, người mua nhận được hàng trong tình trạng tốt và
khơng có bất kỳ khiếu nại nào kèm theo. Hơn nữa, Shopee cịn áp dụng chính sách trả hàng
hồn tiền nên người mua có quyền trả hàng hồn tiền sản phẩm trong trường hợp có những
khiếu nại về chất lượng sản phẩm. Đối với người bán, Shopee cũng thường xuyên sàng lọc
danh sách, đảm bảo người bán khơng vi phạm chính sách bán hàng nhằm góp phần bảo vệ
người mua trên sàn thương mại điện tử.
Ngoài ra, trong Nghị định 85/2021/NĐ-CP cũng đã tăng cường trách nghiệm của các sàn
thương mại điện tử trong việc phối hợp xử lý các phản ánh, khiếu nại của người dùng. Hiện
tại, các sàn thương mại điện tử lớn như Shopee hay Lazada, người dùng có thể báo xấu hoặc
đánh giá mức độ uy tín của người bán hàng trên các sàn này. Riêng những người bán có điểm
phạt cao sẽ bị đánh giá kém uy tín và ít được hỗ trợ khi bán hàng trên sàn thương mại điện tử.
Với các thông tin vi phạm, các sàn thương mại điện tử phải gỡ bỏ trong vòng 24 giờ sau khi
nhận được quyết định từ cơ quan quản lý nhà nước. Các sản phẩm vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ cũng sẽ bị gỡ bỏ.
Tuy nhiên, thực hiện các quy định của pháp luật còn gặp nhiều bất cập:
Thứ nhất, bên cạnh website TMĐT, các mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, được sử dụng rất
phổ biến ở Việt Nam. Hiện số người sử dụng các diễn đàn mạng xã hội để mua sắm trực tuyến
cũng gia tăng. Số doanh nghiệp sử dụng nền tảng di động như kênh liên lạc giữa nhà bán lẻ và
người tiêu dùng ngày càng tăng. Do đó, quản lý các mạng xã hội kinh doanh TMĐT cũng như
nền tảng di động cũng không kém phần cấp thiết. Thực tế cho thấy, Cơ quan chức năng cũng
chưa có quy định rõ ràng đối với danh sách các website TMĐT khuyến cáo người tiêu dùng
thận trọng; thiếu hướng dẫn chi tiết về quy trình giao kết hợp đồng mua hàng trực tuyến cũng
như những cảnh báo cần thiết đối với người tham gia loại hình dịch vụ này.
Thứ hai, quy định hiện hành cho phép Bộ Công thương công bố công khai trên cổng thông
tin Quản lý hoạt động TMĐT danh sách các website TMĐT bị phản ánh về việc có dấu hiệu
vi phạm pháp luật. Đây là điều kiện quản lý nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh hay
là cơ sở để cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện? Quy định hiện hành không giới hạn những
11
người có quyền phản ánh website có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cũng không quy định chi tiết
quy chế xác thực, dẫn tới rủi ro các đối thủ cạnh tranh lợi dụng phản ánh lẫn nhau.
Thứ ba, trường hợp thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ TMĐT (các sàn TMĐT nói
chung, nền tảng mạng xã hội nói riêng) thực hiện dịch vụ cung cấp thông tin về hàng hóa,
dịch vụ của người bán tới người tiêu dùng trên trang web TMĐT thì thương nhân, tổ chức đó
là “bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin” theo pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng (khoản 8, điều 1, Nghị định 85/2021/NĐ-CP). Theo quy định này, có thể hiểu rằng các
sàn TMĐT được phép cung cấp “dịch vụ thơng tin hàng hóa”, tức là có thu phí, tuy nhiên, nội
hàm của khái niệm cung cấp dịch vụ thơng tin hàng hóa này có phải là thực hiện một chuỗi
của nhiều loại hoạt động về dịch vụ thông tin hàng hóa khác nhau để thu phí hay khơng thì
85/2021/NĐ-CP chưa có quy định rõ ràng. Sự khơng rõ ràng này có thể gây ra những sự hiểu
sai về bản chất các quan hệ, trách nhiệm pháp lý có liên quan vì theo quy định “trường hợp tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thơng tin cho người tiêu dùng thông qua
bên thứ ba (các sàn TMĐT) thì bên thứ ba có trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thơng tin
khơng chính xác hoặc không đầy đủ” (Điều 13, Luật bảo vệ người tiêu dùng)
Thứ tư, việc “lạm dụng từ ngữ” để quảng cáo cho sản phẩm hàng hóa dịch vụ vẫn cịn xảy ra
ở nhiều loại hàng hóa, dịch vụ. Những sản phẩm hàng hóa tự gán những dịng chữ “chất
lượng hàng đầu” hay “sản phẩm số 1” lên nhãn hàng hóa, mặc dù khơng có tổ chức nào cơng
nhận. Có thể nói đây là hình thức quảng cáo trên nhãn hàng hóa theo kiểu “lập lờ” nhằm thu
hút sự quan tâm của người tiêu dùng đến sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
2. Những lợi ích của quy định về trách nhiệm của sàn thương mại điện tử mang lại cho
người tiêu dùng
Ngày nay những lợi ích to lớn và độ phổ biến của TMĐT không cần phải bàn cãi và đã trở
thành công cụ quan trọng đối với mọi doanh nghiệp và người dân. TMĐT làm cho xã hội
ngày càng phát triển và thơng qua đó khách hàng ở nhiều vùng miền có thể dễ dàng tiếp cận,
mua sắm những sản phẩm, dịch vụ một cách dễ dàng nhất. Đồng thời TMĐT cũng giúp thu
hẹp khoảng cách không gian và thời gian giữa nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ với đông đảo
khách hàng.
Đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng khi mua sản phẩm qua mạng tránh tình trạng lừa đảo
Bảo vệ người tiêu dùng liên quan đến các hành vi lừa dối và gây nhầm lẫn cho người tiêu
dùng. Do đó, các trang thương mại điện tử và các trang web bán hàng như Tiki, Sendo, hay
Lazada... đã xây dựng nền tảng ODR trong giải quyết tranh chấp tại website của mình trong
việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
12
Theo Nghị định về Thương mại điện tử số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 thì các website
thương mại điện tử bán hàng có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tranh chấp liên quan đến
hợp đồng được giao kết trên website thương mại điện tử của mình và Luật Bảo vệ người tiêu
dùng năm 2010 cũng quy định khá chi tiết về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp.
Về trách nhiệm cung cấp thơng tin về hàng hóa, dịch vụ của người bán. Theo quy định mới,
thơng tin về hàng hố, dịch vụ đối với website thương mại điện tử bán hàng phải được người
bán cung cấp chi tiết, cụ thể:
Đối với hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu trên website, người bán phải cung cấp những thơng
tin để khách hàng có thể xác định chính xác các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ nhằm tránh sự
hiểu nhầm khi quyết định việc đề nghị giao kết hợp đồng.
Thông tin về hàng hóa cơng bố trên website phải bao gồm các nội dung bắt buộc thể hiện trên
nhãn hàng hóa theo quy định pháp luật về nhãn hàng hóa, trừ các thơng tin có tính chất riêng
biệt theo sản phẩm như: năm, tháng, ngày sản xuất; hạn sử dụng; số lô sản xuất; số khung, số
máy.
Người bán hàng hóa, dịch vụ phải đáp ứng điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc danh mục
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện phải công bố số, ngày cấp và nơi cấp Giấy phép,
Giấy chứng nhận đủ điều kiện, văn bản xác nhận, hoặc các hình thức văn bản khác theo quy
định pháp luật về điều kiện kinh doanh của ngành, nghề đó.
Về quy định liên quan đến thông tin về điều kiện giao dịch chung. Từ ngày 01/01/2022, chính
sách kiểm hàng sẽ được coi là một trong những điều kiện giao dịch chung bắt buộc mà thương
nhân, tổ chức, cá nhân phải công bố trên website thương mại điện tử. Điều này được kỳ vọng
sẽ góp phần giúp người tiêu dùng hiểu rõ về chính sách kiểm hàng của từng doanh nghiệp để
đưa ra quyết định lựa chọn tiến hành giao dịch. Bên cạnh đó, với các website có chức năng
đặt hàng trực tuyến, người bán phải có cơ chế để khách hàng đọc và bày tỏ sự đồng ý riêng
với các điều kiện giao dịch chung trước khi gửi đề nghị giao kết hợp đồng. Quy định này sẽ
khiến các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ thương mại điện tử phải gia cố thêm tính năng
để đảm bảo người tiêu dùng có thể dễ dàng tiếp cận, xem xét và đưa ra quan điểm cá nhân
trước khi tiến hành các bước tiếp theo trong giao dịch mua sắm trực tuyến.
Như vậy, người tiêu dùng khi tiến hành các giao dịch mua sắm hàng hóa, sản phẩm được giới
thiệu trên website thương mại điện tử sẽ được cung cấp các thông tin chi tiết về hàng hóa, sản
phẩm, giúp hạn chế tình trạng mua phải hàng giả, hàng nhái, hàng khơng rõ nguồn gốc xuất
xứ do người bán đăng tải. Tránh tình trạng “treo đầu dê bán thịt chó”, lừa dối người tiêu dùng
mua sản phẩm.
13
3. Bất cập còn tồn tại ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng
Hiện nay, xu hướng mua sắm qua sàn TMĐT đang ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt dịch
Covid -19 lại càng thúc đẩy nhu cầu giao dịch trực tuyến. Tuy nhiên, việc mua hàng qua các
sàn TMĐT cũng tiềm ẩn khơng ít rủi ro cho người tiêu dùng.
3.1. Rủi ro khi hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng xuất hiện ngày một phổ biến khiến
người tiêu dùng hoang mang.
Đối với những website bán hàng có uy tín thì có quy định cụ thể trong thể thức giao hàng, đổi,
trả, quảng cáo hàng, phương thức thanh toán để người tiêu dùng tham khảo, lựa chọn và sử
dụng dịch vụ. Song cũng có khơng ít những người bán hàng online đã quảng cáo quá mức về
chất lượng, kiểu dáng, cơng dụng của hàng hóa; một số trường hợp bán hàng nhái, hàng kém
chất lượng, lợi dụng sự cả tin, thiếu kinh nghiệm của khách hàng để bán hàng. Năm 2020,
Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng đã tiếp nhận 1.428 phản ánh, yêu cầu, kiến nghị,
khiếu nại của người tiêu dùng về một số vấn đề như nhận hàng không đúng như khi đặt,
không đặt hàng nhưng vẫn được giao...
Ông Vũ Minh Tuấn - Chủ tịch Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng tỉnh cho biết: Mặc
dù chính sách đồng kiểm (được kiểm tra hàng trước khi thanh toán) khi mua hàng online đã
được nhiều đơn vị áp dụng, song vẫn có những người tiêu dùng do chủ quan nên đã mua phải
hàng kém chất lượng, hàng không đúng như quảng cáo trên mạng. Thủ đoạn hoạt động của
các đối tượng vi phạm thương mại điện tử ngày càng tinh vi. Để tránh bị phát hiện, người bán
sử dụng hình ảnh thật khi đăng trên mạng, nhưng khi sản phẩm khách hàng nhận được lại là
hàng giả, hàng nhái. Một điều đáng lưu ý là do chưa hiểu hết quyền pháp lý của mình khi thực
hiện các giao dịch TMĐT và tâm lý e ngại nên đa số người mua đều chấp nhận “mất tiền oan”
chứ không phản ánh đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền hay đơn vị bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
3.2. TMĐT xuyên biên giới gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Hiện nay, cả 4 sàn giao dịch TMĐT lớn nhất (Shoppe, Lazada, Tiki và Sendo) đều có sự tham
gia của các nhà đầu tư nước ngồi, trong đó cá biệt có các nhà đầu tư đến từ chỉ một quốc gia
nắm tỷ trọng đáng kể tại 3 sàn, dẫn đến rủi ro, chi phối kinh tế khó lường trước được.
Hoạt động TMĐT là xu hướng kinh doanh tất yếu trong thời đại cơng nghệ số và hội nhập
kinh tế tồn cầu. Tuy nhiên, nếu không được quản lý chặt chẽ sẽ tiềm ẩn nhiều hệ lụy tiêu
cực, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, đặc biệt là TMĐT xuyên biên giới. Thực tế, nhiều mặt
hàng giả, không rõ nguồn gốc, hàng kém chất lượng, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ được
chào bán công khai, dễ dàng tung ra thị trường theo hình thức kinh doanh trực tuyến, qua sàn
14
TMĐT, qua mạng xã hội như Facebook, Zalo, Viber… được tích hợp các tính năng tiếp thị,
đặt hàng, giao hàng, thanh tốn như một sàn TMĐT.
Khn khổ cho hoạt động TMĐT, hoạt động của mạng xã hội được xây dựng chủ yếu tại
Nghị định số 52 Về Thương mại điện tử, năm 2013. Các quy định tại Nghị định 52 được xây
dựng trong giai đoạn đầu của TMĐT, nên có những vấn đề chưa được đề cập hoặc chung
chung. Cụ thể, tại điều 2 quy định có 3 đối tượng áp dụng tại Nghị định này: Một là, thương
nhân, tổ chức, cá nhân Việt Nam; hai là cá nhân nước ngoài cư trú tại Việt Nam; ba là thương
nhân, tổ chức nước ngồi có sự hiện diện tại Việt Nam thơng qua hoạt động đầu tư, lập chi
nhánh, văn phịng đại diện, hoặc thiết lập website dưới tên miền Việt Nam. Như vậy, toàn bộ
các quy định chỉ áp dụng cho các đối tượng là thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động thương mại điện tử trên lãnh thổ Việt Nam.
Nhưng qua quá trình triển khai thực hiện, nhiều vấn đề phát sinh đã vượt ra khỏi tầm kiểm
sốt của Nghị định 52. Ví dụ như, nhiều thương nhân nước ngồi khơng hiện diện tại Việt
Nam nhưng lại có thu nhập phát sinh từ Việt Nam thơng qua giao dịch TMĐT xuyên biên
giới. Thực tiễn cho thấy hiện nay hoạt động TMĐT có yếu tố nước ngồi đang diễn ra dưới
nhiều hình thái khác nhau khơng thuộc phạm vi điều chỉnh của khoản 1 Điều 2 Nghị định 52.
Các hình thái ấy bao gồm:
•
Thương nhân nước ngồi khơng có hiện diện tại Việt Nam nhưng có hoạt động thương
mại đối với người tiêu dùng Việt Nam;
•
Thương nhân nước ngồi khơng có hiện diện tại Việt Nam tham gia hoạt động thương
mại trên các nền tảng TMĐT của Việt Nam;
•
Nhà đầu tư nước ngồi thực hiện hoạt động đầu tư vào lĩnh vực TMĐT – là lĩnh vực
có hạn chế về tiếp cận thị trường theo cam kết quốc tế của Việt Nam, nhưng không
thành lập tổ chức kinh tế, không thực hiện dự án đầu tư, không theo hợp đồng liên
doanh mà chủ yếu theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp (mua bán,
sáp nhập).
Việc khơng quy định đối tượng bên ngồi lãnh thổ Việt Nam có phát sinh giao dịch, thu nhập
tại thị trường Việt Nam khiến phát sinh những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quản lý,
bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng trong nước.
Đứng trên phương diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, có thể thấy, trong
giao dịch TMĐT xuyên biên giới (theo các hình thái 1 và 2 nêu trên), trường hợp giao dịch
phát sinh tranh chấp hoặc khiếu nại của người tiêu dùng, quyền, lợi ích của người tiêu dùng sẽ
15
gặp 3 thách thức lớn, khác biệt cơ bản so với trường hợp phát sinh với chủ thể có hiện diện tại
Việt Nam:
Thứ nhất, cơ quan quản lý nhà nước, người tiêu dùng khi liên hệ với chủ thể cung cấp hàng
hóa, dịch vụ để giải quyết tranh chấp, khiếu nại sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí là khơng
thực hiện được mà chủ yếu phụ thuộc vào chính sách, thiện chí của từng chủ thể.
Thứ hai, việc cơ quan quản lý nhà nước, các chủ sở hữu hợp pháp đối với sản phẩm yêu cầu
các chủ sở hữu của các hình thức TMĐT phối hợp xử lý những hành vi vi phạm pháp luật có
nhiều bất cập, khó khả thi do khoảng cách địa lý, độ trễ thời gian, quyền tài phán và thậm chí
là phụ thuộc hồn tồn vào thiện chí của các chủ sở hữu nói trên.
Thứ ba, với việc những sàn TMĐT lớn đều cho phép cá nhân và thương nhân nước ngoài mở
tài khoản bán hàng và hỗ trợ khâu logistics, dẫn đến người bán nước ngồi đã có thể dễ dàng
bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng Việt Nam, và hàng hóa lưu thơng theo kênh này khơng
chịu sự kiểm sốt về chất lượng cũng như khó quản lý về thuế. Trong bối cảnh hoạt động
TMĐT phát triển trên quy mơ tồn cầu, đây là những thách thức không nhỏ với cơ quan quản
lý không chỉ riêng tại Việt Nam.
3.3. Những bất cập từ góc độ quy định pháp luật
Thứ nhất, Khung pháp lý về TMĐT hiện nay còn chưa đồng bộ, mặc dù Luật thương mại hay
Luật dân sự có những quy định cơ bản về hợp đồng, về mua bán hàng hóa, có Nghị định
185/2013, Nghị định 52 Về Thương mại điện tử, năm 2013 quy định chi tiết về giao dịch điện
tử, tuy nhiên thương mại khơng chỉ có mua bán mà cần phải kiểm sốt nhiều khía cạnh khác
như tội phạm mạng, an ninh mạng, an tồn thơng tin,…. Bên cạnh đó năng lực quản lý cịn
yếu kém, tư duy quản lý, cách tiếp cận của Nhà nước còn chưa thực sự được quy định cụ thể.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện hành chưa quy định trách nhiệm của tổ chức, cá
nhân kinh doanh đối với người tiêu dùng hoặc có quy định nhưng theo hướng riêng rẽ, chưa
có sự kết nối để tạo hiệu quả điều chỉnh thống nhất. Các yêu cầu, việc phân loại tính chất mức
độ khuyết tật của hàng hóa và việc kiểm soát chưa được quy định phù hợp đã tạo khó khăn
cho q trình thực thi của cả cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Thứ hai, các quy định liên quan đến hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, hợp đồng theo
mẫu, điều kiện giao dịch chung chưa thực sự chặt chẽ, đầy đủ, rõ ràng, đặc biệt là trong bối
cảnh thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ 4 khi sự phát triển khơng ngừng của Internet
càng làm gia tăng vai trị của hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung; một số quy định
cịn thiếu tính linh hoạt, khơng cho phép tính tốn đến hồn cảnh, lĩnh vực kinh doanh đặc thù
của từng loại thị trường.
16
Thứ ba, các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và các tổ chức, cá nhân
kinh doanh chưa được quy định phù hợp và đầy đủ khiến cho nhiều khiếu nại không được giải
quyết. Số lượng tranh chấp được giải quyết qua phương thức thương lượng, hòa giải chiếm đa
số nhưng hiệu quả, giá trị và hiệu lực thi hành của các phương thức này là chưa cao. Chưa có
sự phân biệt rõ ràng giữa các khái niệm yêu cầu, phản ánh, khiếu nại và cách xử lý. Theo Cục
cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công thương, nếu như từ giai đoạn 2016-2018 chỉ
tiếp nhận khoảng 100 sự việc khiếu nại của người tiêu dùng trong lĩnh vực TMĐT thì từ năm
2019 đến nay đã tăng gấp đơi. Trong q trình giao dịch trực tuyến, người tiêu dùng có ít cơ
hội thực hiện kiểm tra đánh giá về hàng hóa dịch vụ mà hầu như dựa vào thông tin do người
bán cung cấp. Yếu tố gián tiếp này đã dẫn đến nguy cơ gia tăng hơn nữa các hành vi vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng. Đứng trước các tranh chấp, khảo sát của Bộ Công thương cho thấy
44% người tiêu dùng sẽ lựa chọn im lặng hoặc bỏ qua vụ việc, 36% chọn khiếu nại trực tiếp
với tổ chức cá nhân kinh doanh và chỉ có 20% yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hỗ trợ.
Và giá trị hàng hóa quá nhỏ là nguyên nhân chính khiến nhiều người lựa chọn im lặng là
vàng. Giá trị hàng hóa quá thấp trong khi những thủ tục, trình tự quy định về bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của người tiêu dùng lại khó khăn, phức tạp khiến nhiều người còn e dè.
Thứ tư, cơ chế tiếp nhận và giải quyết yêu cầu tại cơ quan nhà nước (chủ yếu là cấp huyện),
hiện tại được thiết kế “lửng lơ” khiến thực tế không phát huy được hiệu quả. Một số quy định
hiện nay chỉ phù hợp với các giao dịch, kinh doanh - tiêu dùng có tính “truyền thống” mà
chưa tính đến mơ hình kinh doanh có yếu tố mới, cơng nghệ 4.0 hoặc trong điều kiện chuyển
đổi số. Cũng chưa có cơ chế kêu gọi tồn xã hội tham gia vào cơng tác bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng, đặc biệt chưa có cơ chế phù hợp để thành lập và tạo điều kiện cho các tổ chức xã
hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả.
Thứ năm, một số trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng của tổ chức, cá nhân kinh doanh đã
khơng cịn phù hợp, đầy đủ do sự xuất hiện của nhóm người tiêu dùng mới hoặc hành vi tiêu
dùng mới. Nhiều hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng mới xuất hiện nhưng chưa
được bổ sung vào phần các hành vi cấm hoặc nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan. Công tác
tuyên truyền phổ biến về quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng; hướng dẫn người tiêu
dùng nhận biết hàng thật và phân biệt hàng giả, hàng nhái; thông báo về thủ đoạn vi phạm
pháp luật, các hành vi lừa dối, xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng chưa được phổ biến rộng
rãi. Đặc biệt là công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt các vi phạm về TMĐT; đồng thời công
khai các trang TMĐT vi phạm để cảnh báo người tiêu dùng chưa được thực hiện một cách
chặt chẽ, hiệu quả.
17
Thứ sáu, các quy định liên quan đến cung cấp bằng chứng giao dịch, bảo hành, thu hồi hàng
hóa khuyết tật được thiết kế lỏng lẻo và sơ sài khiến các chủ thể liên quan gặp khó trong việc
thực hiện. Chưa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của người tiêu dùng trong việc thúc đẩy xu
hướng sản xuất, tiêu dùng bền vững... Đó là chưa nói tới những bất cập về mơ hình hoạt động
và nguồn lực thực thi; về tính hiệu quả hay việc thực hiện các cam kết quốc tế về bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng.
Nhìn chung, một số quy định hiện nay chỉ phù hợp với các giao dịch, kinh doanh - tiêu dùng
có tính “truyền thống” mà chưa tính đến mơ hình kinh doanh có yếu tố mới, nhất là mơ hình
ứng dụng sự phát triển của thương mại điện tử, các mô hình kinh doanh dựa trên nền tảng chia
sẻ, kinh tế số. Hơn nữa, một số trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của doanh
nghiệp đã khơng cịn phù hợp, đầy đủ do sự xuất hiện của nhóm người tiêu dùng mới hoặc
hành vi tiêu dùng mới. Nhiều hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng mới xuất hiện
cũng cần được bổ sung vào phần các hành vi cấm hoặc nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan,
những vấn đề này cần được xây dựng trọng tâm trong Luật mới khi được sửa đổi...
4. Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật thương mại điện tử
4.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật
Thứ nhất, cần phải có một hành lang pháp lý đầy đủ phân định rõ ràng trách nhiệm của các
chủ thể tham gia thương mại điện tử ở tất cả các công đoạn của giao dịch thương mại mà tính
an tồn, độ tin cậy bị đe dọa như máy trạm, máy chủ, đường truyền... Mặt khác, pháp luật
cũng cần có quy định về nhận thức của các chủ thể tham gia giao dịch phải tự bảo vệ mình
bằng các biện pháp kỹ thuật.
Thứ hai, cần bổ sung chế tài đủ mạnh để trừng trị thích đáng đáng đối với những hành vi tiêu
cực của Cách mạng công nghiệp 4.0 trong thương mại điện tử như việc lộ, lọt thông tin khách
hàng; việc quảng cáo tràn lan, không đúng sự thật, sử dụng công nghệ thương mại chiếm đoạt
tài sản của khách hàng, gây rối;
Thứ ba, để xác định được độ tin cậy của chữ ký điện tử, pháp luật cũng cần quy định một cơ
quan trung gian có thẩm quyền chứng thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của chữ ký
điện tử. Tính hợp pháp trong thương mại điện tử còn đòi hỏi ở việc phải đảm bảo tính bảo mật
và tơn trọng quyền riêng tư. Cá nhân được quyền đảm bảo bí mật các thông tin về đời tư. Khi
thực hiện các giao dịch thương mại điện tử.
Thứ tư, cần nghiên cứu ban hành chế tài đối với hành vi “ Gian lận thương mại điện tử ” phát
hiện nhiều đường dây, tổ chức, cá nhân có hoạt động thu thập, mua bán dữ liệu cá nhân trái
phép. Hoạt động này diễn ra phổ biến, đặt ra thách thức đối với an ninh dữ liệu quốc gia, uy
18
tín của doanh nghiệp, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân phá đường dây có hoạt động
mua bán dữ liệu cá nhân với tính chất, mức độ và số lượng lớn.
Thứ năm, cần xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về thương mại điện tử quốc gia,
ASEAN tiếp tục đưa ra các sáng kiến bổ sung về phát triển Công nghệ thông tin - truyền
thông, Logistics, kết nối thủ tục hải quan, tiêu chuẩn hoá đơn để hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho
sự phát triển của thương mại điện tử trong khu vực như Kế hoạch tổng thể về Công nghệ
thông tin - truyền thông của ASEAN (AIM) 2015 và AIM 2020, Lộ trình hội nhập ngành
logistics ASEAN (RILS)…
4.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện
Thứ nhất, tăng cường năng lực và hiệu quả công tác của cơ quan quản lý nhà nước về thương
mại điện tử cho phù hợp với yêu cầu thực tế.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp trực tuyến (ODR) sẽ là giải pháp hữu ích, tạo thuận lợi cho các
bên tranh chấp giải quyết nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí, đồng thời thúc đẩy sự phát
triển của thương mại điện tử ở Việt Nam ngày càng vươn xa.
Hiện nay, ở một số quốc gia phát triển thì ODR đã vượt ra khỏi phạm vi tranh chấp thương
mại điện tử, ODR còn được áp dụng cho các tranh chấp tại Tịa án. Khi đó ODR là một khơng
gian kỹ thuật số đối mặt cơng khai, trong đó các bên có thể triệu tập để giải quyết tranh chấp
hoặc vụ việc của họ. Việc thiết kế và triển khai các chương trình ODR liên quan đến Tịa án
khơng được làm giảm quy trình tố tụng hoặc khả năng tiếp cận cơng lý cho người sử dụng
chương trình.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế về thương mại điện tử và các lĩnh vực liên quan. Do là
nước tiếp cận muộn hơn, có xuất phát điểm về thương mại điện tử thấp hơn nên Việt Nam cần
hợp tác quốc tế về thương mại điện tử để bắt kịp sự phát triển của thế giới trong lĩnh vực này,
cũng như nâng cao hiệu quả quản lý thương mại điện tử phù hợp với yêu cầu hội nhập
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về lĩnh vực thương mại điện
tử gặp nhiều khó khăn. Để có thể nắm bắt và kịp thời xử lý các vi phạm thì cơng tác kiểm tra,
kiểm sốt phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục. Thực hiện nghiêm túc, hiệu
quả công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử để triệt
tiêu tận gốc những vi phạm trong thương mại điện tử bởi khi thực hiện việc đăng ký và chịu
sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng thì các doanh nghiệp hay thương nhân có
đăng ký kinh doanh sẽ thực hiện tốt hơn các nghĩa vụ của mình đối với người tiêu dùng trong
thương mại điện tử.
19
Thứ năm, đẩy mạnh công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quan hệ thương mại
điện tử ở Việt Nam có hiệu quả;
Ngồi ra, đề xuất các giải pháp hỗ trợ khác như: Nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của
các chủ thể trong quan hệ thương mại điện tử; Tuyên truyền việc tuân thủ pháp luật thương
mại điện tử của các chủ thể tham gia quan hệ thương mại điện tử; Tăng cường xử lý vi phạm
của các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh bán sản phẩm hàng hóa trên các sàn giao dịch
thương mại điện tử, trên các trang web bán hàng, trên các trang mạng xã hội nước ngoài
(Facebook, Youtube, Zalo..); Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của đội ngũ công chức
trong các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại điện tử. ..../.
4.3. Các biện pháp kiểm soát thương mại điện tử trên thế giới
Những tranh luận, phát sinh trong chính sách quản lý các ngành cơng nghiệp mới như thương
mại điện tử cũng xảy ra tại nhiều nước phát triển, đi trước chúng ta chứ cũng khơng riêng gì
với Việt Nam. Sau đây là kinh nghiệm quản lý đối với các sàn thương mại điện tử lớn nhất thế
giới.
Các sàn thương mại điện tử lớn nhất trên thế giới như eBay, Amazon và Bestbuy đều đang
thực hiện nghĩa vụ tính thuế doanh thu (hoặc thuế giá trị giá tăng) đối với từng đơn hàng thay
cho người bán trên sàn của mình và sau đó thay họ nộp vào ngân sách.
Ví dụ với riêng mình sàn eBay, từ đầu năm đến nay đã có tổng cộng 44 cơ quan thuế các nước
yêu cầu eBay thực hiện nghĩa vụ này.
Tại các nền kinh tế phát triển như Anh, Đức, Australia hay Mỹ, cơ quan thuế đã triển khai các
biện pháp thu thuế doanh thu thông qua các sàn điện tử từ năm 2018. Bởi khi người mua thực
hiện mua hàng từ người bán ở nước ngồi, thì giao dịch này phải thuộc đối tượng chịu thuế ở
nơi tiêu thụ (nơi người mua ở).
Tại Trung Quốc, bên cạnh nghĩa vụ thu và nộp thuế hộ cho người bán, các sàn thương mại
điện tử cịn phải xuất hố đơn cho khách hàng, đồng thời khai báo thông tin về hoạt động mua
bán, các thơng tin thuế có liên quan cho cơ quan thuế và những thông tin này phải được lưu
trữ trong tối thiểu 3 năm.
Trước áp lực yêu cầu xác minh tính xác thực của các sản phẩm từ Quốc hội Mỹ, Amazon đã
chặn niêm yết 10 tỷ sản phẩm bị nghi hàng giả trong năm ngối. Cơng ty cũng đầu tư khoảng
700 triệu USD vào các sáng kiến chống hàng giả, bao gồm cả công nghệ học máy
20
Ngày 25/5 vừa qua, đạo luật điều tiết hoạt động quảng cáo livestream của Trung Quốc chính
thức có hiệu lực. Quy định mới yêu cầu các nền tảng phải thực hiện tính xác thực và hợp pháp
của cả hàng hố và nội dung livestream.
Mới đây nhất, Cơ quan quản lý thị trường và cạnh tranh CMA của Anh tiến hành điều tra về
cáo buộc Amazon đã không hành động thoả đáng trong việc xử lý các đánh giá giả về sản
phẩm trên trang web của họ.
Mới đây Tiki, 1 trong top 4 sàn thương mại điện tử đa ngành lớn nhất thị trường hiện nay vừa
huy động thêm 1.000 tỷ đồng từ trái phiếu để tiếp tục bơm vốn đầu tư kho bãi, cho các công
ty con và hoạt động marketing. Trong bối cảnh cuộc cạnh tranh "đốt tiền" để tăng trưởng giữa
các sàn thương mại điện tử vẫn chưa hạ nhiệt, mỗi doanh nghiệp đầu ngành đều lỗ lũy kế
hàng nghìn tỷ đồng. Thị trường mới nổi sẽ phát sinh nhiều yêu cầu quản lý mới, nhưng trong
lúc các doanh nghiệp vẫn chịu sức ép cạnh tranh khắc nghiệt, giới chuyên gia cho rằng các
quy định cần sát thực tiễn và lộ trình thực hiện phù hợp.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sàn
thương
mại
điện
tử
-
hết
cái
thời
“quyền
anh,
quyền
tôi”?
/>2. Trung tâm Xúc tiến Đầu Tư, D. (2022). Tăng cường bảo vệ người tiêu dùng trong phát
triển thương mại điện tử />3. Pháp luật về thương mại điện tử, bất cập trong thực hiện quy định pháp luật
/>
229