Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

MốI liên hệ giữa lý luận và thực tiễn và vận động phân tích mốii liên hệ giữa đổi mới tư duy với đổi mới kinh tế ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.03 MB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ ĐỒNG NAI

TIỂU LUẬN

Môn: TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI: MI LIÊN HỆ GIỮA L LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ
VẬN DNG PHÂN TÍCH MI LIÊN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI TƯ
DUY VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC TA.

GVHD
HVTH

: TS. Bùi Trung Hưng
: Võ Minh Luân

Lớp

: 21MQLKT1

Mã HV

: 0521900026

Đồng Nai, Tháng 11 năm 2021
MỤC LỤC
1


Trang


Mở đầu……………………………………………………………………… 3
Chương 1. Lý luận và thực tiễn…………………………………………..

4

1. LÝ LUẬN……………………………………………………………….. 4
1.1. Khái niệm lý luận
1.2. Những đặc trưng và tính chất của lý luận.
1.3. Hai cấp độ và các hình thức của nhận thức lý luận.
1.4. Cấu trúc của hoạt động lý luận.
2. THỰC TIỄN……………………………………………………………..

8

2.1. Khái niệm thực tiễn.
2.2. Các đặc trưng và tính chất của thực tiễn.
2.3. Những hình thức của thực tiễn.
2.4. Vai trị của thực tiễn đối với nhận thức.
2.5. Phân loại hoạt động thực tiễn.
3. MỐI LIÊN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN…………………….. 14
Chương 2. Mối liên hệ giữa đổi mới
1.

tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta………………………….. 19
LÝ DO DỔI MỚI……………………………………………………….. 19

2.

NỘI DUNG DỔI MỚI………………………………………………….. 20
2.1.

2.2.

3.

Đổi mới tư duy
Đổi mới kinh tế

MỐI LIÊN HỆ GIỮA DỔI MỚI TƯ DUY VA DỔI MỚI KINH TẾ…. 24

Kết luận…………………………………………………………………….. 26

Mở đầu
2


- Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản của triết học Mác - Lênin. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
sự thống nhất biện chứng và cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực
tiễn. Thực tiễn ln ln vận động, biến đổi, do đó lý luận cũng không
ngừng đổi mới, phát triển ; sự thống nhất biện chứng giữa chúng - vì thế cũng có những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong mỗi
thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
- Với vai trò của bản thân là một người đứng đầu trong mơ hình kinh tế tập
thể kiểu mới (Hợp tác xã kiểu mới), và đồng hành cùng Đảng và Nhà
nước tại địa phương đổi mới phương thức sản xuất nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới, bản thân tôi cảm nhận sâu sắc về sự thay đổi từ tư
duy cho đến hoạt động kinh tế. Và để làm rõ hơn cho những thực tiễn mà
mình đang cơng tác, bản thân tơi mạnh dạn chọn đề tài : « MỐI LIÊN HỆ
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI
LIÊN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI TƯ DUY VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC
TA" »

- Mục đích là vừa dựa trên nền tảng kiến thức môn học để phân tích và hiểu
rõ hơn thực tiễn những cơng việc mình đang làm, đồng thời đưa những
vấn đề thực tiễn vào để làm sinh động hơn kiến thức môn học.

Chương 1. Lý luận và thực tiễn
3


1.
1.1.

LÝ LUẬN
Khái niệm lý luận
- Lý luận là một hệ thống các quan điểm phản ánh thực tiễn, được thể
hiện dưới dạng hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra
những quan niệm tương đối hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản và
các quy luật của hiện thực khách quan. Theo quan niệm của chủ nghĩa

1.2.

Mác - Lênin, mọi lý luận chân chính đều bắt nguồn từ thực tiễn, phản
ánh đúng thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
Những đặc trưng và tính chất của lý luận.
- Từ bản chất của lý luận và từ việc xem xét những hình thức, biểu hiện
khác nhau của hoạt động lý luận, có thể chỉ ra và phân tích nhũng đặc
trưng và tính chất của nó như sau.
- Về nội dung phản ánh: Lý luận phản ánh cái bên trong, cái tất yếu của
đối tượng. Cái bên trong, tất yếu này có thể là cái chung, cái bản chất,
cái căn bản, cái quy luật của đối tượng, lý luận có thể phản ánh cái bên
trong, cái tất yếu của sự vật trong tính chỉnh thể, tồn vẹn của nó,

nhưng cũng có thể chỉ phản ánh cái bên trong, tất yếu của từng mặt nào
đó của đối tượng.
- Về hình thức phản ánh: Lý luận biểu hiện, “trình bày” đối tượng trong
hình thức những khái niệm, phạm trù, quy luật hoặc hệ thống các khái
niệm, phạm trù, quy luật.
- Lý luận có tính chất trừu tượng hố, khái qt hố, tổng họp và những
tính chât này hình thành trên cơ sở của phân tích, so sánh. Tính chất
này thể hiện khơng chỉ trong q trình hoạt động, mà cả trong kết quả
của hoạt động lý luận và nó thể hiện rõ ở việc chủ thể sử dụng những
công cụ là các phạm trù, khái niệm, quy luật trong hoạt động nhận
thức.
- Do những tính chất trên mà hoạt động lý luận có một tính chất nổi bật
khác là tính gián tiếp đối với đối tượng nhận thức.

4


- Xét về mặt tâm lý, có thể thấy chủ thể lý luận là người hoạt động tự
giác và tích cực, chủ động nắm bắt đổi tượng. Vì thế, lý luận biểu hiện
rõ tính chủ thể của con người.
- Ngơn ngữ lý luận mang tính chung.
- Lý luận cịn mang tính khuynh hướng. Có lý luận tiên tiến, cách mạng,
có lý luận bảo thủ, phản cách mạng, có lý luận giáo điều, chiết trung,
nguỵ biện, duy lý, phi duy lý, duy khoa học, có lý luận khoa học và
khơng khoa học, phản khoa học v.v. Tuy nhiên, tính khuynh hướng của
lý luận khơng phải là q trình tự thân của lý luận, mà do thực tiễn quy
định.
1.3.

Hai cấp độ và các hình thức của nhận thức lý luận.

- Cấp độ 1. Cấp độ này là lý luận, lý thuyết, quan điểm của các lĩnh vực
nhận thức cụ thể, như kinh tế học, luật học, xã hội học, lịch sử, nghệ
thuật học hoặc các lĩnh vực nhận thức của khoa học tự nhiên. Trong
mỗi lĩnh vực ấy lại có thể phân chia thành các cấp độ khác nhau nữa,
như kinh tế học đại cương và các lý luận kinh tế ngành, sinh học đại
cương và các lý luận thuộc các ngành sinh học cụ thể.v.v.
- Cấp độ 2. Đây là cấp độ cao hơn, nó là những hệ thống quan điểm triết
học, chính trị, xã hội dùng để định hướng, tổ chức hoạt động của các
tầng lớp, giai cấp, các tập đồn, thậm chí cho cả một chế độ, một cộng
đồng xã hội. Trong cấp độ này, cũng có sự phân chia, chang hạn cấp độ
lý luận triết học và lý luận chính trị, xã hội v.v. Theo Hêghen, “phép
biện chứng là sự vận động của lý tính cao cấp”. Ý kiến của ông cho
thấy lý luận triết học là một thành tố của lý luận ở cấp độ hai và trong
cấp độ ấy triết học còn thể hiện như một yếu tố cao hơn cả.
- Sự phân chia những cấp độ khác nhau của lý luận, một mặt căn cứ vào
phạm vi đối tượng, những lĩnh vực đối tượng mà lý luận quan tâm,
phản ánh, mặt khác căn cứ vào mức độ, trình độ trừu tượng, khái quát
và tổng hợp của tư duy (khả năng, năng lực nhận thức) của mỗi lĩnh
vực nhận thức, đồng thời căn cứ vào vai trò, tác dụng của mỗi lĩnh vực
nhận thức lý luận đối với nhận thức và thực tiễn.
5


- Những hình thức lý luận. Có thể nói, có bao nhiêu lĩnh vực hoạt động

1.4.

lý luận thì có bẩy nhiêu các hình thức lý luận. Thí dụ, trong triết học có
triết học chung và các triết học cụ thể, trong sinh vật học có “Sinh học
đại cương và các lĩnh vực cụ thể của sinh học v.v.

Cấu trúc của hoạt động lý luận.
- Hoạt động lý luận là một hệ thống bao gồm những yếu tố và điều kiện
cấu thành cơ bản: (1) chủ thể (người hoạt động lý luận) ↔ (2) khách
thể (đối tượng) hoạt động lý luận ↔ (3) sản phẩm lý luận ↔(4) những
điều kiện của hoạt động lý luận.
- Chủ thể hoạt động lý luận là con người hoạt động lý luận, có nhu cầu,
mục đích, tiềm năng, năng lực trí tuệ, thể lực, tinh thần nói chung, có
kỹ năng, kinh nghiệm, các phương tiện, công cụ hoạt động lý luận (vật
chất và tinh thần, hệ thống khái niệm, phạm trù, quan niệm.), đặc trưng
cho nó. Chủ thể lý luận cịn có những lợi ích, giá trị xã hội, văn hố
đặc trưng cho nó. Mục đích trực tiếp của chủ thể hoạt động lý luận là
nắm bắt những quá trình bên trong, tất yếu (bản chất, quy luật) của đối
tượng. Mục đích sâu xa của chủ thể hoạt động lý luận là những lợi ích
kinh tế – xã hội của những tập đoàn, giai cấp, cộng đồng xã hội mà họ
là thành viên của chúng. Chủ thể lý luận có thể là cá nhân, có thể là tập
thể, tập đoàn người, cộng đồng xã hội nhất định. Trong hoạt động tập
thể, cộng đồng, chủ thể lý luận có sự phân cơng giữa các cá nhân và
các nhóm và vì thế mỗi cá nhân, mỗi nhóm có vị trí, phạm vi hoạt
động và vai trị khác nhau. Căn cứ vào những cấp độ khác nhau của
hoạt động lý luận có thể thấy những hình thức, dạng, vị trí và vai trị
khác nhau của chủ thể lý luận.
- Đối tượng của hoạt động lý luận là những khách thể mà chủ thể lý luận
tác động vào nhằm khám phá, nắm bắt những quá trình bên trong, tất
yếu của chúng. Những khách thể ấy là những hiện tượng, quá trình tự
nhiên, xã hội hoặc đời sống tinh thần. Căn cứ vào mỗi lĩnh vực hoạt
động và vào những cấp độ khác nhau của hoạt động lý luận có thể
phân chia những dạng, hình thức khác nhau của đối tượng hoạt động lý
6



luận. Có thể cùng một khách thể nhưng mỗi cấp độ, mỗi lĩnh vực lý
luận có thể nghiên cứu, khám phá nó từ những góc nhìn riêng. Chẳng
hạn, cùng nghiên cứu phương thức sản xuất, nhưng kinh tế và kinh tế –
chính trị học tiếp cận khách thể này khơng hoàn toàn giống nhau. Kinh
tế học nghiên cứu phương thức sản xuất thuần tuý về kinh tế, trong khi
kinh tế – chính trị học nghiên cứu phương thức sản xuất trong tương
quan logic với chế độ chính trị nhất định.
- Điều kiện của chủ thể hoạt động lý luận là mơi trường tự nhiên, xã hội
và văn hố cùng với những yếu tố, quá trình vật chất và tinh thần mà
trong đó hoặc trên đó hoạt động lý luận diễn ra. Điều kiện của hoạt
động lý luận có thể trực tiếp hoặc gián tiếp quy định hoạt động lý luận
cả về nội dung và phương thức. Trong tất cả những điều kiện của hoạt
độn2 lv luận thì điều kiện đầu tiên, căn bản nhất là chủ thế hoạt động
phải được đáp ứng, thoả mãn những nhu cầu sinh sống tối thiểu, ức là
họ phải có “ăn, ở, mặc và đi lại”. Hoạt động lý luận còn phải dựa trên
nhũng tiền đề lý luận nhất định, đó là bản thân kết quả của hoạt động
lý luận trong những giai đoạn lịch sử trước đó, chẳng hạn những khái
niệm, những phạm trù, những lý thuyết đó có trong lịch sử. Chủ thể lý
luận cần kế thừa một cách tích cực, có phê phán những tiền đề lý luận
mới làm cho sản phẩm hoạt động lý luận của mình đạt trình độ cao,
tương xứng với yêu cầu của thời đại.
- Sản phẩm của hoạt động lý luận hay kết quả của hoạt động lý luận, là
những học thuyết, quan niệm, tư duy, là năng lực tư duy nâng lên sau
hoạt động, là quá trình kết tinh, chuyển hố lý luận vào các lĩnh vực
nhận thức khác v.v. Sản phẩm lý luận rất đa dạng. Tuỳ theo lĩnh vực và
cấp độ hoạt động lý luận nhất định mà có những hình thức sản phẩm
hoạt động lý luận tương ứng. Sản phẩm hoạt động lý luận có thế là
chính con người, nhưng khơng phải là con người nói chung, mà là con
người lý luận, con người tinh thần, tuy nhiên đây không phải là sản
phẩm chỉ của hoạt động lý luận.


7


- Hoạt động lý luận có thể là hoạt động của từng cá nhân, có thể là của
tập thể, thậm chí của một tầng lóp, tập đồn, cộng đồng xã hội nhất
định.
- Hoạt động lý luận bao gồm những quá trình diễn ra bên trong bộ óc
chủ thể lý luận và những q trình bên ngồi bao gồm những yếu tố và
điều kiện bên ngoài (hoạt động điều tra, thu thập tài liệu, hoạt động tố
chức trong các cơ quan, viện nghiên cứu.). Sở dĩ phải phân biệt hai quá
trình này là vì, quá trình diễn ra bên trong bộ óc được xem là quá trình
bên trong cơ bản của hoạt động lý luận. Quá trình này trực tiếp đưa
đến các kết quả là những học thuyết, quan điểm lý luận và nó diễn ra
theo phương thức cá nhân, thơng qua bộ não của những cá nhân nhất
định.
2. THỰC TIỄN
2.1. Khái niệm thực tiễn.
- Thực tiến là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải biến thế giới khách quan.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt
động tinh thần của con người đều là hoạt động thực tiễn.
- Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt đơng bản năng của động vật.
- Có tính lịch sử - xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội và
trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
2.2. Các đặc trưng và tính chất của thực tiễn.
- Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người:
o Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nói
vậy tức là chỉ có con người mới có hoạt động thực tiễn.
 Con vật khơng có hoạt động thực tiễn. Chúng chỉ hoạt
động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động

với thế giới bên ngoài.
 Ngược lại, con người hoạt động có mục đích rõ ràng
nhằm cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích
8


nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ
thế giới.
o Con người không thể thỏa mãn với những gì có sẵn trong tự
nhiên. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật
chất để ni sống mình. Để lao động hiệu quả, con người phải
chế tạo và sử dụng công cụ lao động.
 Như thế, bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động
sản xuất, con người tạo ra những vật phẩm vốn khơng có
sẵn trong tự nhiên. Khơng có hoạt động thực tiễn, con
người và xã hội lồi người khơng thể tồn tại và phát triển
được.
 Do đó, có thể phát biểu rằng, thực tiễn là phương thức tồn
tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu
tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế
giới.
- Thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử – xã hội:
o Thực tiễn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội
loài người mặc dù trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn
có những thay đổi qua các giai đoạn lịch sử. Hoạt động đó chỉ có
thể được tiến hành trong các quan hệ xã hội.
o Thực tiễn có q trình vận động và phát triển của nó. Trình độ
phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục tự nhiên và
làm chủ xã hội của con người.
o Như vậy, về mặt nội dung cũng như về phương thức thực hiện,

2.3.

thực tiễn có tính lịch sử – xã hội.
Những hình thức của thực tiễn.
- Hoạt động sản xuất vật chất:
o Ví dụ về hoạt động sản xuất vật chất ta có thể thấy ở khắp mọi
nơi trong cuộc sống, như trồng lúa, trồng khoai, dệt vải, sản xuất
giày dép, ô tô, xe máy… Đây là dạng hoạt động thực tiễn
nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì:
9


o Hoạt động sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người.
o Đồng thời, dạng hoạt động này quyết định các dạng khác của
hoạt động thực tiễn, là cơ sở của tất cả các hình thức khác của
hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới
hạn tồn tại của động vật.
- Hoạt động chính trị – xã hội:
o Dạng hoạt động này nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ
xã hội.
o Ví dụ về hoạt động chính trị – xã hội là:
 Đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội.
 Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri.
 Thanh niên tham gia tình nguyện giúp đồng bào vùng sâu
vùng xa.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học
o Dạng hoạt động này ra đời cùng với sự xuất hiện của các ngành
khoa học. Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện
nay (cách mạng 4.0), hoạt động thực nghiệm khoa học ngày

càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
2.4.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
- Thứ nhất: Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực
tiếp của nhận thức
o Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
 Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận
thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp
đối với người này hay người kia, thế hệ nay hay thế hệ
khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng
đều bắt nguồn từ thực tiễn.

10


 Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế
giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những
tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.
 Sở dĩ như vậy, bởi con người quan hệ với hế giới không
phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ
trong q trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà
nhận thức ở con người được hình thành và phát triển.
 Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau
đó, con người tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái
qt hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất, quy luật
vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó
xây dựng thành các khoa học, lý luận.
o Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
 Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về

vấn đề khía cạnh hay ở lĩnh vực gì đi chăng nữa thì cũng
phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà khơng phục
vụ thực tiễn thì khơng phải là “nhận thức” theo đúng
nghĩa.
 Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực
tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng
được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
o Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
 Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
là thực tiễn cung cấp năng lượng nhiều nhất, nhanh chóng
nhất giúp con người nhận thức ngày càng tồn diện và sâu
sắc về thế giới.
 Trong q trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới,
con người cũng biến đổi ln cả bản thân mình, phát triển
năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người
ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những

11


bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của
mình về thế giới.
 Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát
triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn địi hỏi phải có tri
thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó
thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học.
Khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động
thực tiễn của con người.
- Thứ hai: Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
o Theo các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng

định: vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân
lý khách quan hay khơng hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý
luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con
người phải chứng minh chân lý.
o Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu
chuẩn logic nhưng tiêu chuẩn logic không thể thay thế cho tiêu
chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu
chuẩn thực tiễn.
o Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một
cách biện chứng. Tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có
tính tương đối:
 Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu
chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Thực tiễn ở
mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
 Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn
khơng đứng nguyên một chỗ mà luôn biến đổi và phát
triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi
con người nên khơng tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
- Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con
người thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát
triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và
12


2.5.

hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp
theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát
triển hoàn thiện hơn.
Phân loại hoạt động thực tiễn

- Thứ nhất, hoạt động sản xuất vật chất:
o Ví dụ về hoạt động sản xuất vật chất ta có thể thấy ở khắp mọi
nơi trong cuộc sống, như trồng lúa, trồng khoai, dệt vải, sản xuất
giày dép, ô tô, xe máy… Đây là dạng hoạt động thực tiễn
nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì:
 Hoạt động sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người.
 Đồng thời, dạng hoạt động này quyết định các dạng khác
của hoạt động thực tiễn, là cơ sở của tất cả các hình thức
khác của hoạt động sống của con người, giúp con người
thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật.
- Thứ hai, hoạt động chính trị – xã hội:
o Là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau
trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị-xã hội để
thúc đẩy xã hội phát triển.
o Ví dụ về hoạt động chính trị – xã hội là:
 Đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội.
 Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri.
 Thanh niên tham gia tình nguyện giúp đồng bào vùng sâu
vùng xa.
- Thứ ba, hoạt động thực nghiệm khoa học
o Dạng hoạt động này ra đời cùng với sự xuất hiện của các ngành
khoa học. Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện
nay (cách mạng 4.0), hoạt động thực nghiệm khoa học ngày
càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Khoa
học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong
những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp
13



lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những
quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng
hoạt động này có vai trị trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt
là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
3.

MỐI LIÊN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
- Thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận
thức và do đó, cũng là của lý luận. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận
thức, lý luận. Mọi tri thức, lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực
tiễn. Ngày nay khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
mối quan hệ này cũng không thay đổi.
- Lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên
cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm,
tư tưởng, lý luận mới có thể "cải tạo" thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh
vực ý thức, chúng khơng có khả năng cải biến một cái gì ngồi khả
năng ý thức. Các tư tưởng, tự chúng, không phải là thực tiễn, mô hình
lý tưởng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mơ hình lý
luận. Lý luận hồn thành một chức năng nào đó trong xã hội khơng
phải là ở ngồi khn khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong bản thân
thực tiễn xã hội.
- Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn có thể được xem xét từ nhiều góc
độ, quan điểm khác nhau :
o Mối liên hệ vừa thống nhất vừa đối lập giữa lý luận và thực tiễn
 Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
 Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thể hiện ra là
mối liên hệ không thể tách rời giữa lý luận và thực
tiễn. Lý luận nảy sinh từ thực tiễn, thực tiễn quy
định nội dung lý luận, lý luận hình thành, phát triển
là vì mục đích thực tiễn. Thống nhất giữa lý luận và

thực tiễn thể hiện ra là tính tương thích, tương ứng
giữa chúng. Thực tiễn bao giờ cũng là thực tiễn có
14


những lý luận của nó và lý luận bao giờ cũng là của
thực tiễn nhất định. Khơng có thực tiễn của mọi lý
luận, cũng như khơng có lý luận cho mọi thực tiễn.
 Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cũng có nghĩa
là đồng nhất giữa thực tiễn và lý luận, đó là sự
chuyển hố lý luận thành thực tiễn, áp dụng lý luận
thành công trong thực tiễn, là sự phù họp của lý
luận với thực tiễn. Đồng nhất giữa lý luận và thực
tiễn còn thể hiện ở chỗ lý luận như một thành tố,
một quá trình, một sản phẩm tất yếu của thực tiễn.
 Quan niệm về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn có nội dung cơ bản là về sự phù hợp của lý
luận với thực tiễn. Nhung sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là thống nhất trong khác biệt, đối
lập.
 Sự đối lập giữa lý luận và thực tiễn:
 Với tư cách là hai mặt của thể thống nhất, lý luận
và thực tiễn đối lập với nhau với tư cách là đối lập
của cái phản ánh, cái sản phẩm với cái được phản
ánh, cái nguồn gốc, cái cơ sở.
 Chúng còn biểu hiện sự đối lập giữa cái bị quy định
và cái quy định.
 Đối lập của lý luận với thực tiễn còn thể hiện ở sự
lạc hậu của lý luận so với thực tiễn hoặc ngược lại,
hoặc đối lập với tư cách sự sai lầm của lý luận so

với thực tiễn và ngược lại.
o Tác động qua lại giữa lý luận và thực tiễn
 Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận
 Xem xét tác động qua lại giữa lý luận và thực tiễn
không thể tách rời quyết định luận, tức là quan
điểm về vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý
15


luận. Có thể thấy rõ quan điểm về vai trị quyết định
của thực tiễn đối với lý luận (nhận thức) được thể
hiện trong những luận điểm nổi tiếng của Mác và
Lênin. Dưới đây là những luận điểm tiêu biểu.
 “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể
đạt tới chân lý khách quan khơng, hồn tồn khơng
phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện
thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của
mình, Sự tranh cãi về tính hiện thực hay khơng hiện
thực của tư duy tách rời thực tiễn, là vấn đề kinh
viện thuần tuý”. Trong luận điểm triết học nổi tiếng
này Mác bàn trực tiếp đến tư duy nói chung, trong
đó bao hàm cả lý luận và ơng chỉ rõ vai trị quyết
định của thực tiễn đối với lý luận, ông chỉ ra rằng
muốn biết “tư duy con người có thể đạt tới chân lý
khách quan không”, rằng “sự tranh cãi về tính hiện
thực hay khơng hiện thực của tư duy”, “hồn tồn
khơng phải là một vấn đề lý luận mà ỉà một vấn đề
thực tiễn”. Điều đó có nghĩa là muốn đạt đến chân

lý khách quan, muốn làm cho tư duy con người có
tính hiện thực, thì phải thấy được mối liên hệ chặt
chẽ của tư duy với thực tiễn, phải căn cứ vào thực
tiễn, lấy thực tiễn làm cơ sở. Bởi vì, “chính trong
thực tiễn con người phải chứng minh chân lý, tính
hiện thực, sức mạnh của tư duy của mình”. Như
vậy, ở đây thực tiễn được chỉ ra khơng chỉ với nghĩa
là cơ sở nói chung của nhận thức, lý luận, mà cịn ở
chỗ là cơ sở cho tính hiện thực, sức mạnh, tính chân
lý của tư duy, lý luận, nghĩa là cho cả cái con
16


đường, nguyên tắc để tư duy đạt đến chân lý, đạt
được tính hiện thực, sức mạnh của nó.
 Lênin khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về thực
tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức”. Luận điểm của Lênin khơng
trực tiếp nói rằng thực tiễn là cơ sở của hoạt động
lý luận, mà nói về vị trí, vai trị của quan điểm về
đời sống, quan điểm về thực tiễn trong lý luận nhận
thức, cụ thể là nói về mặt phương pháp luận của lý
luận nhận thức. Song việc khẳng định vị trí, vai trị
của quan điểm đó đã chứng tỏ vai trị quan trọng
quyết định của thực tiễn đối với nhận thức nói
chung và lý luận nói riêng.
 Cần thấy rằng trong khi trình bày quan niệm về vai
trị của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nhận
thức của chủ nghĩa duy vật biện chúng đã bao hàm
quan niệm về vai trò của thực tiễn đối với lý luận.

Tuy vậy, không thể đồng nhất hoàn toàn mối liên hệ
giữa thực tiễn và lý luận với mối liên hệ giữa thực
tiễn và nhận thức nói chung. Trái lại, điều quan
trọng, cần thiết ở đây là phải làm rõ tính đặc thù của
mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận (lý luận và
thực tiễn).
 Về vai trò của lý luận đối với thực tiễn
 Do tính phổ biến, lý luận có thể dẫn đường cho các
giai cấp, thậm chí tồn xã hội trong hoạt động,
nhưng điều đó có thể diễn ra với hai khuynh hướng,
xu hướng, hai khả năng khác nhau. Nếu lý luận tiến
bộ, cách mạng, nó sẽ trở thành sức mạnh vật chất
(khi nó “thâm nhập vào quần chúng”), và như thế
nó sẽ góp phần làm nên những thay đổi tích cực, kỳ
17


diệu đối với đời sổng xã hội. Nhưng khi lý luận bảo
thủ, lạc hậu nó có thể trở thành sức kìm hãm xã hội
rất lớn và trên diện rộng, nó có thể làm tê liệt về
tinh thần cả một tập đoàn, giai cấp, xã hội, làm cho
cả tập đoàn, giai cấp, xã hội bế tắc, mất phương
hướng.
 Liên quan đến nội dung trên, lý luận thể hiện vai trị
của nó trong tổ chức hoạt động của con người trong
từng lĩnh vực riêng biệt cũng như trong tổng thể
của chúng. Bởi vì, tính tổ chức của hoạt động con
người liên quan chặt chẽ đến việc xác định mục
đích, mục tiêu hoạt động, đến việc xây dựng mơ
hình sản phẩm mà con người sáng tạo ra, đến việc

lập kế hoạch, chương trình hành động, đến việc
vạch ra những lợi ích, hệ giá trị định hướng, con
đường thực hiện lợi ích, đến khả năng tuyên truyền
vận động, thuyết phục đông đảo mọi người hành
động vì mục tiêu chung. Tất cả nhũng điều đó
khơng thể có được nếu khơng có lý luận.
 Vai trị hết sức quan trọng của lý luận là khẳng định
tính chủ thể của con người. Chỉ khi con người nắm
bắt được bản chất, quy luật của đối tượng mới có
thể chi phối đối tượng, do đó mới có thể khẳng định
tính chủ thể của mình. Cho nên, con người cần phải
có lý luận trong hoạt động. Mỗi cấp độ của lý luận
khẳng định tính chủ thể con người một cách khác
nhau. Lý luận của khoa học cụ thể khẳng định tính
chủ thế của nhà khoa học, lý luận chung của một
lĩnh vực khẳng định chủ thế cộng đồng nhà khoa
học, lý luận ở cấp độ cao, cấp độ 2 khẳng định tính
chủ thể của giai cấp, cộng đồng xã hội.
18


 Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn khơng phải là
mối liên hệ của hai q trình độc lập với nhau được
kết họp lại với nhau theo một cách thức nào đó, mà
trái lại, có cơ sở, căn cứ của chúng. Cơ sở, căn cứ
ấy chính là bản thân thực tiễn. Rõ ràng là chỉ có
trong thực tiễn con người mới sản sinh ra nhận
thức, lý luận của mình và sự ra đời của nhận thức,
lý luận là do yêu cầu tất yếu của thực tiễn, đó là
thực tiễn cần phải được nhận thức, được ý thức (“ý

thức khơng bao giờ có thể là cái gì khác hơn là tồn
tại được ý thức”- Mác). Như vậy, lý luận (hay ý
thức nói chung) trở thành một yếu tố, vịng khâu
(mắt xích) của thực tiễn.

Chương 2. Mối liên hệ giữa
đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta
1.

LÝ DO DỔI MỚI
- Trong giai đoạn sau giải phóng, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên
cứu tìm tịi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý
chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá
mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý
kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc
cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ
phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.
- Những sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan này
đã dẫn đến khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội ở Việt Nam
những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Tình hình kinh tế - xã hội
có những khó khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và

19


đầu tư thấp; đời sống nhân dân lao động gặp nhiều khó khăn; hiện
tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm trọng…
- Chúng ta có khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất

nước, trong việc xác định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về
chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực
hiện.
- Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn
từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán
bộ của Đảng.
- Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và
sự yếu kém về vận dụng các quy luật trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Về tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là thiếu quy
hoạch và chậm đổi mới cán bộ; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ
trong sinh hoạt đảng, phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang
nặng chủ nghĩa quan liêu; tổ chức bộ máy quá lớn, chồng chéo và kém
hiệu lực; giáo dục và quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ.
- Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống cịn là đưa đất nước thốt ra khỏi
khủng hoảng. Mặt khác, chính trị thế giới có nhiều biến động phức tạp,
tiềm ẩn những bùng nổ, thay đổi bất lợi cho sự phát triển của nước ta
theo cơ chế lúc bấy giờ. Trong tình thế cần lựa chọn, điều chỉnh, thay
đổi, bằng kinh nghiệm lãnh đạo sáng suốt nhìn thẳng vào sự thật, tin
tưởng vào lực lượng quần chúng và trách nhiệm lớn lao trước vận
mệnh của Tổ quốc, Đảng ta đã kiên quyết đổi mới trên tất cả các lĩnh
vực, trước hết là đổi mới về tư duy và trọng tâm là đổi mới về kinh tế.
2.

NỘI DUNG DỔI MỚI
2.1. Đổi mới tư duy
- Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội: Mỗi quốc gia, dân tộc đều
phải suy nghĩ, tìm tịi, lựa chọn để làm sao vừa theo đúng quy luật
chung vừa phù hợp với điều kiện, đặc điểm của nước mình. Hiện nay,
nước ta cịn đang ở thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, có rất nhiều

20


vấn đề cần được nhận thức, vận dụng đúng đắn, phù hợp với thực tế và
quy luật khách quan; không thể nơn nóng, giáo điều, máy móc.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Đối với nước ta trong
giai đoạn hiện nay, giải phóng và phát triển sức sản xuất, bảo đảm cho
kinh tế tăng trưởng nhanh, phát triển bền vững phải là nhiệm vụ chính
trị trọng đại số một, nhiệm vụ trọng tâm.
- Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Tại
Đại hội VI lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
đã đặt đúng tầm vấn đề xã hội trong mối quan hệ với kinh tế. Và càng
về sau Đảng ta càng khẳng định phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất
chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn
hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội: Phát triển văn hóa đồng
bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, tiến bộ
chính trị, là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức mới, sự phát triển tư duy lý
luận của Đảng ta.
- . Giữ vững mơi trường hịa bình, hữu nghị vì sự phát triển của đất
nước: Chúng ta đã đổi mới nhận thức về tình hình thế giới và khu vực;
chuyển từ cách nhìn thế giới chỉ dưới góc độ một vũ đài đấu tranh sang
cách nhìn tồn diện hơn; coi thế giới như môi trường tồn tại và phát
triển của Việt Nam; đổi mới tư duy đối ngoại theo tinh thần "thêm bạn
bớt thù"…
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa:
Chúng ta từng bước nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;

giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh - đối ngoại; nhận thức toàn diện
hơn về khái niệm "an ninh quốc gia" và "bảo vệ Tổ quốc".
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ
21


chính trị ở nước ta. Báo cáo Chính trị tại Đại hội VII của Đảng cũng
chỉ rõ: Thực chất của cơng cuộc đổi mới và kiện tồn hệ thống chính
trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; dân chủ vừa là
mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
- Nâng cao vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng : Sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cơng cuộc đổi
mới cũng như tồn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Để có đủ
khả năng và điều kiện lãnh đạo đúng đắn và có hiệu quả, Đảng càng
phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đây là quy luật tồn tại
và phát triển của Đảng
2.2. Đổi mới kinh tế
- Đổi Mới về kinh tế được định nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể:
- Một là, từ quan niệm về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần xã hội chủ nghĩa
đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế này, ngoài hai thành phần
nói trên, cịn có : kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế ấy đều là bộ phận của
nền kinh tế quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát
triển lâu dài, cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

- Hai là, từ quan niệm cho rằng, để xây dựng được quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa, phải nhanh chóng hoàn thành cải tạo kinh tế tư bản tư
nhân và kinh tế cá thể, tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi xã hội
chủ nghĩa, đã đi đến quan niệm cho rằng việc cải tạo quan hệ sản xuất
cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với từng
bước phát triển của lực lượng sản xuất.
- Ba là, từ quan niệm chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có một chế độ sở hữu
duy nhất là chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất đã đi đến
22


quan niệm về một nền kinh tế nhiều sở hữu. Trong đó, khơng chỉ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất được thừa nhận, mà ngay chế độ công
hữu cũng được hiểu không phải về tất cả các tư liệu sản xuất mà chỉ là
về các tư liệu sản xuất chủ yếu để làm chỗ dựa cho nền kinh tế quốc
dân.
- Bốn là, từ quan niệm kinh tế quốc doanh là chủ đạo đã đi đến quan
niệm kinh tế nhà nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và những
bộ phận khác như dự trữ quốc gia, ngân sách nhà nước...) là chủ đạo.
- Năm là, từ quan niệm hợp tác xã thuần túy là kinh tế tập thể, cho rằng
tập thể hóa tư liệu sản xuất càng mạnh, tỷ trọng sở hữu tập thể càng
cao thì hợp tác xã càng gần chủ nghĩa xã hội, do đó mà gò ép những
người lao động cá thể vào hợp tác xã, đã đi đến quan niệm hợp tác xã
là một tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở người lao động tự
nguyện góp sức, góp vốn và quản lý dân chủ, với quy mô và mức độ
tập thể hóa tư liệu sản xuất khác nhau.
- Sáu là, từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể, với việc xóa bỏ nhanh các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,
ngay từ đầu, đã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan
niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể

ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, thì
phải trải qua một quá trình xây dựng, củng cố và phát triển hai thành
phần đó với những bước đi thích hợp.
- Bảy là, từ quan niệm Nhà nước phải chỉ huy nền kinh tế theo một kế
hoạch tập trung với những chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã
đi đến quan niệm phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
với chức năng quản lý kinh doanh ; chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế và chủ sở hữu tài sản cơng là thuộc Nhà nước, cịn chức năng
quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp.
- Tám là, từ quan niệm chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất
chính đáng là phân phối theo lao động, đã đi đến quan niệm thực hiện
nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
23


quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các
nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc
lợi xã hội.
- Chín là, từ quan niệm thị trường xã hội chủ nghĩa đối lập với thị trường
tư bản chủ nghĩa, hạn chế quan hệ kinh tế quốc tế, đã đi đến quan niệm
về một nền kinh tế mở, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa các quan
hệ, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu; kết hợp nội lực với
ngoại lực, lấy phát huy nội lực là chính, đồng thời ra sức tranh thủ
ngoại lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp; thực hiện hội nhập kinh tế
quốc tế nhưng vẫn giữ được tính độc lập tự chủ, giữ được độc lập, chủ
quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
- Mười là, từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư
bản chủ nghĩa đã đi đến quan niệm coi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị
trường khơng phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành
quả phát triển qua nhiều phương thức sản xuất mặc dù đến chủ nghĩa

tư bản thì kinh tế thị trường phát triển đến mức điển hình.
3.

MỐI LIÊN HỆ GIỮA DỔI MỚI TƯ DUY VA DỔI MỚI KINH TẾ
- Tại sao Đảng ta lại đặt ra yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới,
trước hết là đổi mới tư duy. Bởi vì khơng có bước đổi mới tư duy đi
trước thì khơng có bất cứ một sự đổi mới nào cả. Đổi mới tư duy để
tìm ra những vấn đề lý luận và thực tiễn nước ta, làm căn cứ phương
pháp luận cho việc xác định con đường và bước đi sắp tới. Đổi mới tư
duy thực chất là một cuộc giải phóng triệt để mang ý nghĩa lịch sử. Tư
tưởng giải phóng là một q trình rời bỏ khỏi bản thân mình và tồn xã
hội những gì đang kìm hãm và cản trở sự phát triển, là quá trình tổ
chức lại xã hội và đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống
đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên lực đẩy cho sự phát
triển nhanh và bền vững.
- Ngày nay cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới khác
về chất: Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
24


nghĩa - Một phương thức chưa từng có trong tiền lệ. Con đường mới
lại diễn ra trong xu thế toàn cầu hoá và sự cạnh tranh rất quyết liệt
trước sức ép của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, trước sự
phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và cơng nghệ. Trong
hồn cảnh ấy, đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng trở
thành nhu cầu không thể thiếu.
- Thực tiễn cho thấy, sức sống của một Đảng chính trị tập trung trước
hết là ở đường lối của chính Đảng ấy. Là một Đảng cầm quyền, Đảng
ta lãnh đạo cách mạng cũng chính bằng đường lối chính trị của mình.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng là những vấn

đề hoàn toàn mới cả về lý luận và thực tiễn. Mác, Ăng ghen, Lênin và
kể cả các lãnh tụ tiền bối của Đảng ta cũng chưa từng đề cập đến vấn
đề này. Con đường phía trước địi hỏi chúng ta phải hoàn toàn sáng tạo
mới.
- Con đường ấy vừa thể hiện sự trung thành với quá khứ, nhưng không
lệ thuộc vào quá khứ. Trong kinh tế, chúng ta một mặt rất muốn phát
triển, nhưng mặt khác lại rất sợ phát triển vượt khỏi khuôn khổ chuẩn
mực của chủ nghĩa xã hội theo những tiêu chí truyền thống. Vì vậy,
đường lối kinh tế vẫn mang nặng hơi thở của lối tư duy cũ, tư duy thời
kế hoạch hoá-tư duy bao cấp, đối lập với kinh tế thị trường. Kết quả là
đường lối đổi mới trong kinh tế chưa thực sự khơi dậy mọi nguồn lực
hiện có. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế ngày càng xa hơn là có thật. Do đó,
Đảng đã chỉ đạo chuyển sang kinh tế thị trường, thiết kế một hệ thống
chính sách nhằm tạo điều kiện để tất cả mọi công dân ở trong nước và
các nhà đầu tư nước ngồi, có khả năng làm kinh tế đều hồn tồn có
thể tham gia làm kinh tế, theo những định hướng vĩ mô của nhà nước,
trong khuôn khổ của luật pháp.
- Đường lối đổi mới là sản phẩm của đổi mới tư duy, của sự khảo
nghiệm từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều năm trước đó, là
sự kế thừa và phát triển đường lối đã hình thành qua các thời kỳ và
tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc, sáng tạo.
25


×