Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

(SKKN 2022) một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi a trường mầm non thọ thanh, huyện thường xuân, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 24 trang )

p

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẪU GIÁO 4 - 5 TUỔI A
TRƯỜNG MẦM NON THỌ THANH, HUYỆN THƯỜNG
XUÂN, TỈNH THANH HÓA

Người thực hiện: Lê Thị Lâm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Thọ Thanh
SKKN thuộc lĩnh vực: Chun mơn

THANH HĨA, NĂM 2022


Mục lục
ST
T
1
2
3
4
5
6
7


8
9

CÁC PHẦN CHÍNH CỦA SKKN
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử
dụng để giải quyết vấn đề

SỐ
TRANG
1
1
2
2
2
2
2
4
5

10


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân đồng nghiệp và nhà trường

17

11
12
13
14

3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

19
19
20
21


3

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trang bị kỹ năng sống cho trẻ mầm non là điều quan trọng, nhiều phụ
huynh bao bọc con quá kỹ, khiến con không thích nghi được với cuộc sống bên
ngồi dẫn đến những sai lệch trong hành động. Cha mẹ nào cũng luôn mong
muốn dành những điều tốt đẹp nhất cho con của mình từ miếng ăn cho đến giấc
ngủ. Tuy nhiên, phụ huynh bao bọc con mình q kỹ, khiến bé khơng thích nghi

được với mơi trường xung quanh, khả năng tự lập thấp và dẫn đến những sai
lệch trong nhận thức lẫn hành động. Vì thế nhà trường và gia đình cần phải tìm
ra những phương pháp ni dạy trẻ từ 0 đến 6 tuổi phù hợp để trẻ rèn luyện kỹ
năng sống tự lập ngay từ bậc học mầm non.
Kỹ năng sống là một trong những kỹ năng nền tảng giúp trẻ mẫu giáo hình
thành và phát triển tồn diện về nhân cách. Giáo dục kỹ năng sống là một trong
những giáo dục quan trọng cho trẻ mẫu giáo. Việc đẩy mạnh giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống. Biết được
những điều nên làm và không nên làm, đồng thời nó sẽ đóng vai trị nền tảng
trong việc mang lại cho các cháu rất nhiều lợi ích cả về mặt sức khỏe, giáo dục
lẫn văn hóa xã hội. Có kỹ năng sống sẽ giúp các bé sớm có một cơ thể cường
tráng, lành mạnh về trí tuệ cũng như thể lực, sớm có ý thức và khả năng thích
nghi với cuộc sống, làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều
lành mạnh cho chính mình, cho cộng đồng.
Ở các nước trên thế giới, từ nhiều năm qua giáo dục kỹ năng sống được
đưa vào chương trình giảng dạy và được coi như bộ môn. Những năm học gần
đây Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào một số
trường mầm non và tiểu học để làm thí điểm, với phương châm dạy học hướng
vào học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tham gia lĩnh hội kiến thức
một cách thoải mái thông qua các phong trào thi đua.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là giáo dục cách sống tích cực trong
xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội
nhằm giúp trẻ có thể chuyền kiến thức, thái độ cảm nhận thành những khả năng
thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong cuộc sống hàng ngày [1].
Ngày nay, cuộc sống no đủ hơn, cha mẹ tấp nập lo công việc, kiếm thật
nhiều tiền để lo cho con cuộc sống đầy đủ, thuê giúp việc chăm sóc cho con cơm
đưa tận miệng, quần áo có người mặc hộ, giày dép có người đeo, quần áo có
người giặt, ngã thì có người nựng, nâng… Lớn hơn một chút đi học có người
đưa đi, học bài thì có sách giải mà khơng cần suy nghĩ, đi học thì cơ giáo đọc
cho chép về học thuộc, bị bắt nạt thì chỉ biết khóc hoặc mách cơ giáo mà không

biết cách tự giải quyết, cả ngày chỉ biết lao vào học, điện tử, máy tính, ipad…Do
đó kỹ năng sống của trẻ dường như bị tụt lùi. Điều này càng thể hiện rõ đối với
trẻ ở thành thị, những vùng kinh tế phát triển.


4

Chưa bao giờ giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo được giáo viên mầm
non và các bậc cha mẹ quan tâm nhiều như hiện nay. Tuy nhiên vẫn còn giáo
viên mầm non và các bậc cha mẹ lúng túng về kiến thức và phương pháp giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ.
Chính trường mầm non và gia đình là môi trường rèn luyện tốt nhất, giáo
viên mầm non và cha mẹ là những người hướng dẫn tốt nhất các kĩ năng sống
cho trẻ mẫu giáo
Chính vì vậy để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đã
nghiên cứu và lự chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi A ở trường mầm non Thọ Thanh,
Huyện Thường Xuân, Tỉnh Thanh Hóa” nhằm mục đích đưa các em trở thành
con người có ích trong xã hội.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tìm ra các biện pháp nhằm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5
tuổi. Với mục đích giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, hiểu được những
việc mình cần làm hoặc không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử
lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ,
đem đến cho trẻ những hoạt động hấp dẫn và phong phú, giúp trẻ hứng thú lĩnh
hội kiến thức tự nhiên, chính xác có tính khoa học. Nâng cao hiệu quả giáo dục
trong nhà trường nói riêng và nâng cao chất lượng đổi mới giáo dục nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo
4 - 5 tuổi A ở trường mầm non Thọ Thanh, Huyện Thường Xuân, Tỉnh Thanh Hóa.

1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận, đọc, phân tích, hệ thống hóa các tài liệu
có liên quan.
- Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp thực hành.
- Phương pháp quan sát mọi hoạt động của trẻ.
- Phương pháp dùng tình cảm khích lệ động viên.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Kỹ năng sống được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, tùy theo cách
tiếp cận, lí thuyết ứng dụng, đối tượng được giáo dục kỹ năng sống
Trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo, có thể coi kỹ năng sống
hành động tích cực có liên quan đến kiến thức và thái độ, trực tiếp hướng vào
hoạt động của cá nhân, hoặc tác động vào người khác, hoặc hướng vào những
hoạt động làm thay đổi môi trường xung quanh, giúp mỗi cá nhân ứng phó có
hiệu quả với các yêu cầu, thách thức của cuộc sống hàng ngày
Kỹ năng sống thuộc nhóm năng lực tâm lí - xã hội. Một người có kỹ năng
sống là người có khả năng làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với người khác với


5

xã hội, làm việc hiệu quả và ứng phó tích cực trước tình huống của cuộc sống để
nâng cao sức khỏe về thể chất tinh thần và xã hội.[2]
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những
yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào
tạo ra những con người “phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú
về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là một bộ
phận của quá trình giáo dục, là một bộ phận có tính cốt lõi, nền tảng của cơng

tác giáo dục trẻ.
Có nhiều ngun nhân khác nhau gây ra tình trạng này, trong đó việc thiếu
kỹ năng sống là nguyên nhân sâu xa nhất. Do đó, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ
là rất cần thiết.
Rèn kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ phát triển nhân cách tồn diện, bền
vững, có khả năng thích ứng... Vì vậy, trong quá trình dạy kỹ năng sống, phải
xem xét các yếu tố văn hóa và xã hội có ảnh hưởng đến việc ra quyết định hay
lựa chọn hành động.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có thể tiến hành trong tất cả các hoạt động
giáo dục hàng ngày vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, sự kiện, lễ hội, tham
quan...
Kỹ năng sống như những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành
thái độ, giá trị, hành vi và thói quen lành mạnh. Vì vậy, cần dạy kỹ năng sống
cho trẻ ngay từ khi còn thơ bé nhằm giúp trẻ tự biết chăm sóc và bảo vệ bản thân
tránh khỏi những nguy hiểm có thể xảy ra. Trẻ có thể hồ nhập nhanh với cuộc
sống xung quanh, biết cách phát triển các mối quan hệ với mọi người, với thiên
nhiên từ đó học hỏi và làm giàu có thêm vốn kiến thức, kinh nghiệm cũng như
các kỹ năng của bản thân.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ có
nhiều cơ hội phát triển tồn diện, tuy nhiên cũng có khơng ít yếu tố tiêu cực có
thể trở thành cạm bẫy gây hại đến bản thân, gia đình và xã hội nếu không được
trang bị tốt các kỹ năng để ứng phó.
Kỹ năng sống bao gồm kỹ năng mềm và kỹ năng cứng. Kỹ năng mềm là
thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng thuộc trí tuệ, cảm xúc của con người còn kỹ
năng cứng lại là khả năng học vấn và trình độ chun mơn của bản thân. Theo
nghiên cứu của PGS-TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: Kỹ năng cứng không đủ
để giúp bạn thăng tiến mà cần phải có cả những kỹ năng mềm. Thực tế cho thấy
những người thành đạt chỉ có 25% là do những kiến thức chun mơn, 75% cịn
lại được quyết định bởi kỹ năng mềm-chính là kỹ năng sống mà họ được trang
bị. Để hòa chung với sựu phát triển của thế giới, kỹ năng sống đã và đang được

quan tâm rất nhiều ở Việt Nam. Đặc biệt, là việc xây dựng và phát triển kỹ năng
sống cho trẻ [3].
Ở lứa tuổi mẫu giáo, kỹ năng sống chiếm một vị trí hết sức quan trọng nó
góp phần giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp trẻ học tập,
lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội để trẻ vận dụng trong cuộc sống sau này.
Trong xã hội hiện nay, kiến thức của con người ngày càng phát triển và mở rộng,


6

từng cá nhân, nếu không được bồi dưỡng, cập nhật thông tin thường xuyên sẽ
trở thành lạc hậu. Bên cạnh đó, yêu cầu về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ
ngày càng cao. Để hình thành và có được các kỹ năng cho trẻ trong cuộc sống
hàng ngày trước tiên giáo viên phải có kiến thức, kỹ năng về chăm sóc giáo dục
trẻ. Giáo viên phải có kiến thức để tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải
nghiệm, để trẻ được cuốn hút vào các hoạt động đa dạng khác nhau cùng với các
bạn trong nhóm lớp. Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ tương tác, giao tiếp với nhau
trong lớp như: Thảo luận, trao đổi ý kiến, giải quyết xung đột, chia sẻ kinh
nghiệm, trải nghiệm những vai trò khác nhau...Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ được
tham gia và cảm thấy mình là một thành viên trong nhóm chơi và trẻ có cơ hội
để phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin, góp phần thúc đẩy sự
phát triển, tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ [4].
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Năm học 2021- 2022 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp mẫu
giáo bé 4 - 5 tuổi A với tổng số là 30 cháu trong đó nam 14 cháu và nữ 16 cháu.
Trong quá trình thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tơi nhận thấy một số
thuận lợi và khó khăn như sau:
* Thuận lợi
Được sự quan tâm của Phòng Giáo dục đào tạo Thường Xuân cùng với sự
quan tâm của Ban giám hiệu nhà Trường đã thường xuyên quan tâm bồi dưỡng

và nâng cao, chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên.
Trẻ đi học chuyên cần, trẻ khỏe mạnh nhanh nhẹn, tích cực tham gia vào
các hoạt động của lớp.
Các cháu đều ở cùng một độ tuổi, trẻ ngoan, mạnh dạn hồn nhiên, khả
năng tiếp thu bài của trẻ tương đối đồng đều. Trẻ thích học, thích khám phá,
trẻ có nề nếp học tập tốt. Đó là 1 thuận lợi lớn để tôi giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ
Bản thân tôi là giáo viên phụ lớp mẫu giáo 4 - 5 tuổi có trình độ trên chuẩn,
ln u nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao trình độ chun mơn, nhiệt tình
năng động. Tơi ln tìm tịi và tự làm một số đồ dùng, đồ chơi để phục vụ tiết
dạy vào hoạt động vui chơi của trẻ. Tôi luôn xác định được mục đích yêu cầu và
tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua các
hoạt động
Một số phụ huynh lớp tôi rất quan tâm đến việc học của con em mình,
ln phối hợp cùng với giáo viên trong việc dạy dỗ các cháu.
* Khó khăn
Trường chúng tơi nằm ở khu vực nơng thơn, đa số là con em gia đình
nơng nghiệp nên đời sống của nhân dân cũng gặp nhiều khó khăn, một số gia
đình chưa thực sự quan tâm đến việc học hành của con cái, c ó một số gia
đình bố mẹ đi làm ăn xa các bé ở với ơng bà vì thế trẻ được chiều chuộng ít
cho các em làm việc vừa sức mình, hay làm hộ trẻ do đó mà kỹ năng sống
của các em cũng bị thiếu hụt


7

Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm,
khơng có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với mơi trường xung quanh.
Số trẻ đơng vì thế gây khó khăn cho việc phân nhóm hoạt động giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.

Nhiều phụ huynh chưa hiểu và quan tâm đến việc giáo dục rèn luyện kỹ
năng sống cho trẻ.
Một số trẻ mới lần đầu đi học cịn nhút nhát và sợ sệt, tự ti, khơng dám
nói chuyện với bạn, khơng mạnh dạn trình bày ý kiến của mình với cơ giáo.
Trong các hoạt động tập thể, kỹ năng hợp tác với bạn hầu như khơng có. Đặc
biệt là kỹ năng tự phục vụ của trẻ rất yếu, trẻ luôn luôn thụ động trông chờ vào
sự giúp đỡ của cô giáo mà không tự chủ động làm những cơng việc vừa sức của
mình. Từ thực tế đó tôi đã nhận ra nhiệm vụ cấp thiết là phải rèn kỹ năng sống
cho trẻ.
Trước thực trạng này tôi đã trăn trở để tìm ra những giải pháp thiết thực để
tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mang lại ý nghĩa tích cực.
* Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học
Qua điều tra thực tế về vốn kỹ năng sống của trẻ trong lớp tôi, ngay từ đầu
năm học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng ban đầu về các kỹ năng và phân
loại chất lượng trên trẻ. Tôi đã thực hiện khảo sát trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi A trong
năm cụ thể:
Bảng 1: Kết quả khảo sát chất lượng trẻ đầu năm học 2021-2022 (tháng 9
năm 2021)
Xếp loại
TT

Nội dung

Tổng
Số
số trẻ
trẻ

Đạt
Chưa đạt

Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
%
trẻ
%

1

Kỹ năng tự phục vụ

30

13

43,3

17

56,7

2

Kỹ năng tự bảo vệ

30

12

40


18

60

3

Kỹ năng hợp tác

30

11

36,6

19

63,4

4

Kỹ năng giao tiếp, ứng xử văn minh

30

13

43,3

17


56,7

5

Kỹ năng vệ sinh

30

12

40

18

60

6

Kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc

30

14

46,6

16

53,4


Qua bảng kết quả khảo sát trên của lớp mẫu giáo bé 4 - 5 tuổi A. Cho thấy
rằng số trẻ đạt chiếm tỷ lệ thấp, số trẻ chưa đạt chiếm tỉ lệ cao. Qua lần khảo sát
trên tôi nhận thấy đa số trẻ chưa có các kỹ năng sống cơ bản. Vì vậy làm thế nào
để có thể nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tôi đã tìm tịi, học
hỏi và mạnh dạn áp dụng “ Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi A ở trường mầm non Thọ Thanh, Huyện
Thường Xuân, Thanh Hóa”.


8

2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1. Giải pháp 1: Tìm tòi, bồi dưỡng bản thân, chia sẻ với đồng nghiệp.
Để có thể thực hiện tốt “ Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi A” trước hết giáo viên mầm non khơng
chỉ nghiên cứu nắm vững mục đích yêu cầu của hoạt động mà giáo viên còn cần
phải nắm chắc được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội
kiến thức một cách nhẹ nhàng, khơng bị gị bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu và vận
dụng những điều đã học vào thực tế hàng ngày của trẻ. Vì vậy, để giúp trẻ 4 - 5
tuổi lớp tơi có được những kỹ năng sống cơ bản đó thì sự nhiệt tình, sáng tạo và
u nghề địi hỏi tơi phải khơng ngừng đọc và nghiên cứu kỹ chương trình chăm
sóc và giáo dục trẻ mầm non 4- 5 tuổi.
Tham gia các đợt kiến tập và các chương trình chuyên đề do trường tổ chức.
Tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp
chí mầm non.
Sách hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ
mầm non
Chương trình giáo dục mầm non; Giáo trình kỹ năng sống. (nhà xuất bản
đại học sư phạm Hà Nội).
Module 39 Lê Thị Bích Ngọc về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo

Sách các hoạt động phát triển kĩ năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo.
Sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống…
Để dạy trẻ được những kỹ năng sống thì việc đầu tiên cơ giáo phải là tấm
gương để trẻ soi vào, để trẻ học làm người. Chính vì vậy, khơng phương pháp
nào hiệu quả bằng phương pháp “Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”.
Những người dạy nội dung giá trị và kỹ năng sống càng cần là tấm gương mẫu
mực về hành vi, lời ăn, tiếng nói, cách ứng sử, cách giải quyết vấn đề…Đây là
những yêu cầu rất cao và đòi hỏi các cơ giáo cũng ln phải tự rèn luyện mình
để công tác giáo dục trẻ hiệu quả hơn. Và tôi đưa ra những điều mà giáo viên
nên và không nên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đó là:
- Khơng nói dài và nói nhiều.
- Khơng ln đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tịi
- Khơng vội vàng phê phán đúng, sai như một quan tịa nhưng kiên trì giúp
trẻ tranh luận và kết luận.
2.3.2. Giải pháp 2: Những kỹ năng sống cơ bản cần giáo dục
- Kỹ năng tự phục vụ (Ví dụ: Biết rửa tay, tự xúc ăn, gấp quần áo…)
- Kỹ năng tự bảo vệ (Ví dụ: Ăn mặc phù hợp theo mùa, tránh xa ao, hồ,
sông, suối, không leo trèo, không nghịch ổ điện, không ngậm đồ chơi, không
cho vật lạ vào mắt, mũi, miệng, không đi theo người lạ…)
- Kỹ năng hợp tác (Ví dụ: Biết chờ đến lượt trong các hoạt động, biết đặt
câu hỏi và trả lời)
- Kỹ năng trong giao tiếp ứng xử văn minh (Ví dụ: Khi ăn thì mời người
lớn, ăn từ tốn, trẻ cần lễ phép dạ thưa với người lớn, ho ngáp che miệng, không
khạc nhổ bừa bãi, giúp người lớn dọn dẹp, ngoài ra cần thực hiện một số quy tắc


9

xã hội: Không hái hoa, bẻ cành cũng như không được trêu chọc con vật. Không
tự ý nghịch phá đồ chơi ở lớp khi chưa cho phép, ở nơi công cộng thì khơng

chen lấn, nhường người già, em nhỏ,…)
- Kỹ năng vệ sinh (Ví dụ: Ln có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh
mơi trường, vệ sinh trong ăn uống,…)
- Kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc (Ví dụ: Trẻ biết cảm xúc khi vui,
buồn, giận dữ, lo lắng và thể hiện cảm xúc đó qua nét mặt, cử chỉ, lời nói..)
Khi đã xác định từng nhóm kỹ năng tơi đã tùy vào từng chủ đề để lựa chọn
các kỹ năng cho phù hợp để rèn luyện trẻ.
2.3.3. Giải pháp 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
thông qua các hoạt động hàng ngày.
Khi đến độ tuổi mẫu giáo, đặc biệt trẻ mẫu giáo bé 4 - 5 tuổi thì phải hình
thành cho trẻ nhiều kỹ năng sống cần thiết hơn, cụ thể hơn q trình chăm sóc
và giáo dục trẻ, thông qua kế hoạch hoạt động hàng ngày tôi đã cung cấp cho
các cháu kiến thức và những kỹ năng sống sống cơ bản.
* Dạy trẻ kỹ năng giao tiếp chào hỏi, lễ phép với người lớn tuổi trong
giờ đón, trả trẻ
Trẻ trong giai đoạn mầm non chưa có nhiều nhận thức sâu sắc về các sự
kiện, hoạt động diễn ra xung quanh. Do đó, trẻ thường có thói quen bắt chước,
học theo các lời nói, hành động của mọi người. Vì thế, trẻ cũng dễ học theo các
thói hư, tật xấu nếu phụ huynh không ngăn chặn kịp thời. Để tránh tình trạng
này xảy ra, các bậc phụ huynh nên hướng dẫn kỹ năng giao tiếp ứng xử cho bé,
bắt đầu từ những việc cơ bản như chào hỏi lễ phép, nhường nhịn... Các thói quen
đơn giản này sẽ giúp bé tạo được lối sống tốt đẹp về sau.
Hầu hết các trẻ chưa có các kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng chào hỏi… lí do
phụ huynh đều là thuần nơng và điều quan trọng họ chưa có khái niệm dạy kỹ
năng cho trẻ, mà chủ yếu là nuông chiều với suy nghĩ đơn giản là trẻ nhỏ chưa
biết gì, chiều nó chút cũng khơng sao. Nhưng điều đó sẽ tạo nên những hành vi
và nhận thức sai lệch của trẻ mà dần dần sẽ biến thành thói quen khó thay đổi.
Vì vậy đối với trẻ người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép và tự
nhiên, khơng q màu mè và hình thức, cũng khơng được phép cộc lốc và xuồng
xã. Điều này trẻ sẽ học được một cách hiệu quả thông qua cách giao tiếp và ứng

sử của bố, mẹ, người thân trong gia đình, cơ giáo và người khác.
Giờ đón, trả trẻ là thời gian khá thuận tiện để giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ, thơng qua cuộc trị chuyện giữa cơ và cha mẹ, giữa trẻ và cô sẽ giúp trẻ quan
sát được những hành động, cử chỉ, cách giao tiếp lịch sự, tôi luôn làm tấm
gương sáng cho trẻ noi theo. Tôi luôn chủ động chào hỏi, trao đổi với các bậc
phụ huynh giúp cho trẻ thấy được sự gần gũi của cơ giáo từ đó trẻ sẽ bắt chước
cơ chào bố mẹ, ông bà và những người lớn tuổi một cách lễ phép.
Ví dụ: Kĩ năng ứng xử: Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi
và giao tiếp với cô cùng bạn bè, tôi chủ động chào trẻ trước “Cơ chào bạn A”
Thì lúc đó trẻ sẽ biết đáp lại câu “Con chào cô ạ” và tôi nhắc trẻ con chào bố,
mẹ đi để vào lớp với cô nào. Hoặc khi trẻ đang chơi mà có khách đến lớp tôi


10

nhắc trẻ “Các con chào bác, bà, cô… đi nào” cứ như vậy dần dần trẻ có thói
quen chào cơ, chào bố mẹ và chào khách, khi đến lớp, khi ra về.
Ví dụ: Kỹ năng tự phục vụ, cơ cho trẻ tự cất ba lô, giày dép đúng nơi quy
định.

Ảnh minh họa: Trẻ chào cô giáo và tự cất ba lơ
Ngồi ra tơi cịn sưu tầm những bài thơ, câu truyện, bài hát có nội dung
giáo dục về lễ giáo với nội dung cụ thể như: “Yêu mẹ”, “Quà tặng mẹ”, “ Chú
gấu con ngoan” …Tôi đưa ra các câu hỏi tình huống để trẻ trả lời, tổ chức các
trị chơi có luật để kích thích những trẻ cịn nhút nhát cùng tham gia, nhờ áp
dụng giải pháp này tôi đã thấy trẻ tiến bộ rõ rệt, khi có người vào lớp trẻ đã biết
chào hỏi, giao tiếp tự tin hơn mà không cần cô nhắc nhở.
* Thông qua hoạt động học
Hoạt động học là hoạt động giáo viên giáo trẻ phát triển đồng đều các lĩnh
vực: Thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính

tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tìm tịi, biết vận dụng
vốn kiến thức, kĩ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
Những kiến thức mà trẻ lĩnh hội được từ đơn giản đến phức tạp mng tính
logic cao, giúp trẻ học các kĩ năng sống nhanh và chính xác nhất. Hoạt động học
là hoạt động mà giáo viên có thể giúp trẻ hình thành được rất nhiều các kĩ năng


11

sống như: Rèn cho trẻ kĩ năng học tập, kĩ năng tự tin, kĩ năng hợp tác, kĩ năng
giao tiếp và quan hệ xã hội…tùy theo từng chủ đề, từng lĩnh vực, từng đề tài mà
giáo viên hình thành cho trẻ được kĩ năng sống.
Ví dụ: Thơng qua hoạt động làm quen văn học
Tôi đã lựa chọn những bài thơ câu chuyện có mang tính giáo dục kỹ năng sống
như: Tích Chu; Ai đáng khen nhiều hơn; Bơng hoa cúc trắng; Ba chú lợn con…

Hình ảnh: Trẻ diễn kịch cùng cơ
Ví dụ: Thơng qua hoạt động nghệ thuật: Như nhảy múa, ca hát, vẽ tranh…
Tơi sẽ kích thích trẻ bộc lộ những suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, khả năng tưởng
tượng và sáng tạo của mình.
Trong tiết dạy vận động minh họa cho bài hát “Cả nhà thương nhau”
Trẻ nói: Cơ ơi con khơng biết múa.
Cơ: Thế con có u q các cơ giáo của mình khơng nào? À con u q
cơ giáo của mình, vậy cơ con mình cùng nhau múa nhé. Từ những lời động viên
khích lệ đó trẻ sẽ có hứng thú và tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong hoạt động
để từ đó trẻ sẽ mạnh dạn, chủ động, tự tin trong những giờ hoạt động khác…
Ví dụ: Trong hoạt động khám phá khoa học “Một số hiện tượng tự nhiên”
tôi cho trẻ khám phá trải nghiệm các hình ảnh về mưa, các hiện tượng tự nhiên
về sấm, sét, chớp tơi tạo tình huống để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ, để giúp trẻ
có kiến thức ứng phó với mưa, các hiện tượng tự nhiên đúng cách để bảo vệ sức

khỏe như: Khi thấy trời mưa các con phải làm gì? Vì sao các con phải mặc áo
mưa? Khi có sấm sét các con phải như thế nào?... Cứ như vậy, thông qua các


12

hoạt động có chủ định tơi lồng các nội dung giáo dục kĩ năng sống cho trẻ, trẻ
linh hoạt trong mọi tình huống khơng thụ động,
Ví dụ: Chủ đề “Thế giới thực vật” tôi cho trẻ thi “Xé dán tranh vườn cây
ăn quả”. Qua đề tài này tôi muốn củng cố kĩ năng tự chuẩn bị đồ dùng, rèn cho
trẻ các kĩ năng hợp tác, hoạt động cùng nhóm thật hiệu quả. Để cuốn hút trẻ
tham gia vào cuộc thi tôi gây sự chú ý cho trẻ bằng cách: Chia trẻ thành 3 nhóm,
mỗi nhóm đội mũ quả khác nhau, mũ quả cam, mũ quả xồi, quả táo…Mỗi một
nhóm hồn thành một công việc khác nhau trong moọt thời gian nhất định. Sau
khi nhóm đã hồn thành cơng việc được giao, mỗi nhóm sẽ lần lượt đưa ra nhận
xét về sản phẩm của nhóm mình và nhóm bạn và nói được bản thân mình u
thích sản phẩm nhóm nào? Vì sao?
Qua hình thức tổ chức này tơi thấy trẻ đã nhanh chóng tìm về nơi ngồi và
phối hợp cùng nhau thực hiện xé dán vườn cây ăn quả theo nhóm của mình, nói
được ý tưởng của nhóm mình, nhận xét được sản phẩm của mình, của bạn. Như
vậy ta thấy rằng thơng qua hoạt động này trẻ đã có tinh thần hợp tác với nhau và
cùng nhau phối hợp để hồn thành cơng việc được giao một cách hiệu quả.
* Chơi, hoạt động ở các góc
Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trị chủ
đạo, thơng qua hoạt động này bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và khơng tốt. Vì
vậy tơi luôn uốn nắn và sử sai ngay cho trẻ trong khi chơi đặc biệt qua các trị chơi
Ví dụ: Trị chơi phân vai: Trò chơi bác sĩ, qua trò chơi này cô giáo dạy trẻ
biết cảm thông chia sẻ với người ốm, với bệnh nhân phải ân cần chăm sóc và
động viên chia sẻ. Với trị chơi đóng vai, trẻ “nhập vai” và giải quyết tình huống
giả định, giúp trẻ tập các kĩ năng sống một cách nhẹ nhàng, thú vị.

Ví dụ: Góc xây dựng trẻ phải có sự phối hợp của nhóm chơi xây dựng với
nhóm chơi lắp ráp để hồn thành cơng trình xây dựng của mình từ đó hình thành
ở trẻ kỹ năng làm việc nhóm, biết sáng tạo tưởng tượng ra các cơng trình.


13

Hình ảnh: Trẻ chơi góc phân vai, xây dựng
Ví dụ: Đi siêu thị mà bị lạc thì trẻ làm gì? làm hỏng đồ chơi của bạn trẻ sẽ
làm thế nào?…
Ngoài ra tơi cịn xây dựng góc “Thực hành kĩ năng sống” cho trẻ chơi
thường xuyên như: Trẻ thực hiện kĩ năng tự cài khuy áo, chải tóc, tết tóc, gấp
quần áo..


14

Hình ảnh: Trẻ học gấp quần áo cùng cơ
Qua một thời gian áp dụng tơi thấy đa số trẻ có các kĩ năng tự phục vụ tốt,
về nhà biết giúp đỡ bố mẹ làm những công việc đơn giản, phụ huynh cảm thấy
rất vui.
* Chơi, hoạt động ngoài trời
Hoạt động chơi ngồi trời là khoảng thời gian vơ cùng q giá đối với sự
phát triển của trẻ mà ít thời điểm sinh hoạt nào khác có thể so sánh được. Khi
vui chơi ngoài trời là khoảng thời gian mà trẻ được thỏa mãn thực hiện các vận
động giải phóng năng lượng. Khơng gian vui chơi ngồi trời có rất nhiều lợi thế
cho việc tiếp xúc các hoạt động đa dạng, tích cực của trẻ mà điều kiện trong
phịng khơng thể đáp ứng được… Vui chơi ngoài trời tạo cho trẻ sự nhanh nhẹn
và hứng thú với môi trường tự nhiên đồng thời trẻ tự tin, mạnh dạn trong cuộc
sống, góp phần tích cực trong sự nghiệp phát triển tồn diện của trẻ.

Để giúp trẻ để thích nghi với mơi trường khơng có hoạt động nào tốt hơn là
hoạt động ngồi trời. Vì vậy tơi khơng bỏ lỡ cơ hội cho trẻ hoạt động ngoài trời
hàng ngày. Được ra ngoài trời không chỉ là để cho trẻ khám phá môi trường tự
nhiên, mà trẻ cịn được hít thở khơng khí thiên nhiên, được tắm nắng được thực
hiện các vận động chạy, leo trèo, chơi một cách tự nhiên trong sân trường. Trẻ
có thể nghịch với cát, đất, điều đó giúp cho trẻ vừa thoả mãn được tính năng
động, vừa nâng cao sức đề kháng. Trong q trình trẻ chơi tơi ln ln giám sát
để can thiệp khi có dấu hiệu của sự nguy hiểm, đối với sự vấp ngã nhẹ của trẻ tôi
quan sát để cho trẻ tự đứng lên, điều đó sẽ giúp trẻ mạnh dạn và tự tin hơn. Thói
quen biết xếp hàng, đây là thói quen tốt, có văn hố nơi cơng cộng.
Ví dụ: Ở lớp tơi rèn cho trẻ biết xếp hàng rửa tay trước khi ra về và rửa tay
khi tay bẩn và sau khi ăn, sau khi đi vệ sinh.
Thói quen biết bỏ rác vào thùng rác: Thùng rác bố trí hợp lý để trẻ bỏ rác
và tôi thường xuyên quan sát, nhắc nhở trẻ bỏ đúng nơi quy định, qua đó hình
thành cho trẻ thói quen tốt.
Thói quen biết xin lỗi và cảm ơn: Để trẻ thực hiện tốt thói quen này, tơi
thường làm gương cho trẻ noi theo, ở lớp bất cứ trường hợp nào và với bất cứ ai
(trong đó có trẻ) nếu cần nói lời xin lỗi hay cảm ơn tơi thường thể hiện cho trẻ
thấy. Qua đó, trẻ bắt chước theo và sẽ cảm nhận được một cách tự nhiên các
cách ứng xử này.


15

Hình ảnh: Trẻ quan sát góc thiên nhiên
Từ đó giáo dục trẻ biết yêu quý hoa không ngắt lá, bẻ cành, ngắt hoa… biết
u người lao động. Ngồi ra cịn giáo dục cho trẻ tránh những nơi nguy hiểm
như: Không leo trèo cây, không chơi gần bể nước…
Mặt khác tôi còn tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động để rèn luyện kỹ
năng phối hợp, biết chờ đợi khi đến

Ví dụ: Cơ tổ chức cho 2 đội chơi trị chơi “Bật qua suối nhỏ” tơi chia trẻ
thành hai đội thời gian của trò chơi diễn ra bằng một bản nhạc đội nào tham gia
đúng luật, gắn được nhiều lá cho hoa sẽ giành chiến thắng và nhận thưởng một
chàng pháo tay. Với cách tổ chức này tôi thấy trẻ rất hứng thú, các kỹ năng của
trẻ cũng đạt kết quả rõ rệt, trẻ đã có ý thức bảo vệ môi trường hơn như đi qua
sân trường thấy vỏ sữa dưới đất trẻ đã biết nhặt lên và bỏ vào thừng rác, không
cần sự nhắc nhở của người khác, biết tránh xa những nơi khơng an tồn.
* Ăn, ngủ, vệ sinh
Thông qua hoạt động ăn: Kỹ năng tự phục vụ bằng cách tập cho trẻ những việc
vừa sức như: Sắp bàn ăn, xếp ghế, lau bàn, biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn,
chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống
một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây
tiếng ồn, biết tự dọn, cất đúng chỗ, biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn,
không làm ảnh hưởng đến người xung quanh, biết giúp cô những công việc vừa
sức. Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn
này. Giáo viên cần hiểu rõ tâm lý của trẻ cũng như sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau để hình thành nơi trẻ kỹ năng sống. Cô giáo cần rèn cho trẻ khả năng tự
phục, nhất là tự phục vụ trong ăn uống bằng cách: Tập cho trẻ cùng cô sắp bàn


16

ăn, sắp thìa, sắp khăn lau tay, khăn lau miệng. Đồng thời tập cho trẻ cách sử
dụng khăn lau miệng khi ăn như thế nào cho đẹp, đúng.
Ví dụ: Trước giờ ăn trưa tôi thực hiện các bước rửa tay theo đúng trình tự
sáu bước cho trẻ quan sát

Hình ảnh: Cô hướng dẫn trẻ rửa tay đúng cách
Trong giờ ăn cũng vậy tôi cùng các giáo viên khác dạy trẻ những nghi
thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ những kỹ năng tự lao động phục vụ,

rèn tính tự lập như biết tự đi lấy bát thìa theo số lượng của tổ mình và biết được
lần lượt ngày trực nhật của mình theo tổ, khi ăn, biết ăn uống lịch sự, khơng nói
chuyện trong khi ăn, và chỉ ăn uống tại bàn ăn của mình, biết cách sử dụng
những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, biết ăn hết xuất,
không làm rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng
khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất bát thìa đúng nơi quy
định, biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn không làm ảnh hưởng đến
người khác…. Ngoài ra trước những giờ ăn tôi thường lồng ghép các bài hát, bài
thơ “Giờ ăn”.
Qua hình thức giáo dục này tơi thấy trẻ rất tích cực tham gia hồn thành
cơng việc, khi đến giờ ăn cô không cần nhắc nhở trẻ đã biết nhiệm vụ của mình
phải làm gì? và làm như thế nào? biết mời chào khi ăn, ăn hết xuất, biết lau
miệng sạch sẽ sau khi ăn, nhiều cha mẹ cũng thấy rất vui vì qua cách rèn luyện
của cơ về nhà trẻ rất thích thú giúp đỡ gia đình những cơng việc vừa sức. Với
việc rèn luyện kỹ năng sống tự phục vụ cho trẻ tơi thấy là một việc rất có ý
nghĩa là tiền đề để phát triển nhân cách của trẻ sau này.


17

2.3.4. Giải pháp 4: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non thông qua.
Kỹ năng bảo vệ bản thân.

-

Để trẻ có thể tự bảo vệ bản thân mình trước những nguy hiểm phụ huynh
cần giúp trẻ hình thành thói quen và kỹ năng bảo vệ bản thân cơ bản nhất. Trong
các nhóm kỹ năng sống cho trẻ mầm non về bảo vệ bản thân gồm có những kỹ
năng như: Kỹ năng an toàn khi tự chơi, kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể, kỹ năng
xử lý khi bị lạc, an tồn khi tham gia giao thơng trên đường...

Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, những tình huống xảy ra mà
khơng phải trẻ nào cũng có thể nhận ra và biết hết về chúng. Bản chất của trẻ
nhỏ là hiếu động, thường xuyên hoạt động với các đối tượng khác nhau, đặc biệt
là với những đối tượng tạo cho trẻ hứng thú. Ghi nhớ số điện thoại của bố mẹ
hay người thân để gọi về khi bị lạc, tuyệt đối không đi theo người lạ, không
nhận q, bánh của người lạ vì rất có thể bị bắt cóc… là những kỹ năng mà trẻ
cần được trang bị để đề phịng bất trắc xảy ra. Thơng qua việc đặt các tình huống
giả định giúp trẻ hình thành khả năng nhận biết, phân biệt những tình huống tốt
xấu, nguy hiểm mà trẻ có thể gặp phải trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó, trẻ cỏ
thể tự giải quyết, xử lí các tình huống phịng tránh tai nạn thương tích bảo vệ
bản thân khi trẻ cảm thấy khơng an tồn.
Ví dụ: Cơ giáo dạy trẻ khi bị lạc
- Ghi nhớ số điện thoại di động của ba, mẹ và ít nhất một số điện thoại cố
định của người thân thường gọi hằng ngày (ơng bà nội, ngoại, cơ dì…)
Khóc hoặc la to gây sự chú ý
Ðứng yên tại chỗ chờ ba mẹ quay lại đón
Đến các trạm bảo vệ, nhân viên trật tự, quầy thu ngân, công an… (những
người có mặc đồng phục) nhờ giúp đỡ (gọi điện thoại về nhà hoặc cho bố mẹ,
phóng loa…)
Ví dụ: “ Khơng nhận quà bánh người lạ”
Cô giáo sẽ mặc trang phục kín, bịt mặt kín, cầm theo gói bim bim và rủ trẻ
đi cùng
Tôi sẽ quan sát từng trẻ xem trẻ nào sẽ đi cùng và trẻ nào không đi sau đó
tơi sẽ hỏi trẻ: Vì sao con lại đi? Vì sao con khơng đi? Tơi sẽ phân tích, giải thích
cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết:
Tuyệt đối khơng nhận q và đi theo người lạ dù món q đó chúng ta rất
thích vì có thể bị người xấu cho ăn thuốc mê, thuốc độc và trúng âm mưu của kẻ
xấu và có thể bị bắt cóc. Khi gặp trường hợp này các con có nên nói: Cháu cảm
ơn nhưng bố mẹ dặn cháu không được nhận quà của người lạ”.
Từ những tình huống cụ thể thế này trẻ sẽ khắc sâu được nếu đi theo người

lạ trẻ không bao giờ được thấy, được gần người thân của mình nữa từ đó trẻ sẽ
có được kỹ năng sống cho bản thân.


18

Hình ảnh: Khi người lạ vào cho trẻ quà
2.3.5. Giải pháp 5: Giáo dục kỹ năng sống qua việc tham gia các hoạt
động ngày hội, ngày lễ
Các ngày hội ngày lễ, ở trường mầm non bao gồm: Ngày hội đến trường
của bé, đêm hội trăng rằm, ngày tết nguyên đán, hội thi bé khỏe - bé ngoan, bé
với làn điệu dân ca…Thông qua các ngày hội, ngày lễ rèn cho trẻ các kỹ năng
hợp tác hoạt động nhóm, kỹ năng tự tin..Trong ngày hội này tất cả các trẻ được
tham gia vào hoạt động một cách tích cực, hào hứng, sơi nổi. Qua đó thúc đẩy
các hoạt động tập thể, gây khơng khí náo nức cho trẻ vì trẻ được tham gia biểu
diễn, trẻ được tham gia cùng các bạn, được biểu diễn ở tại lớp mình cho các lớp
khác xem. Trong quá trình hoạt động tập thể như vậy sẽ phát triển ở trẻ tính linh
hoạt, mạnh dạn, tự tin, tinh thần tập thể, tính kỷ luật. Nhờ có tính kỷ luật trẻ sẽ
phịng tránh được một số tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ: Trong ngày hội đến trường của bé, trẻ mạnh dạn với các bạn biểu
diễn tiết mục văn nghệ. Qua đó giúp trẻ cảm thụ nghệ thuật, tự tin trước đám
đông, nêu cao tinh thần tập thể.
Hay trong hội thi “Bé với làn diệu dân ca” trẻ sẽ tự tin tham gia các hoạt
động, thể hiện bản thân qua sự khéo léo vượt qua chướng ngại vật, hoàn thành
yêu cầu của hội thi..


19

Hình ảnh: Trẻ tham gia hội thi Bé với làn điệu dân ca cấp trường

Ví dụ: Ngày tết trung thu
Cơ giáo và các bạn cùng tham gia chuẩn bị lễ hội: Trang trí lớp học, khu
vực sân khấu, bày mâm ngũ quả, treo đèn…giúp trẻ cảm nhận được khơng khí
của ngày lễ.
Tập cho trẻ các tiết mục văn nghệ phù hợp với chủ đề “ Đêm hội trăng
rằm” để chào đón lễ hội.
Tổ chức cho trẻ trải nghiệm bày mâm ngũ quả, cô giới thiệu các loại quả
đặc trưng, các loại bánh kẹo ngày trung thu.

Hình ảnh: Trẻ tham vui liên hoan ngày Tết trung thu
Qua mỗi hoạt động ngày hội, ngày lễ trẻ được giáo dục, rèn luyện kỹ năng
tự tin, kỹ năng xử lý tình huống khi hoạt động nhóm, hoạt động tập thể, kỹ năng
hợp tác cùng bạn bè và cô giúp và phụ huynh.
2.3.6. Giải pháp 6: Phối hợp với phụ huynh trong việc rèn kỹ năng sống
cho trẻ ở trường cũng như ở nhà
Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường là một nhiệm vụ thiết thực, tạo
sự liên kết và thống nhất giữa trường và cha mẹ trẻ về nội dung, phương pháp,


20

cách thức tổ chức giáo dục trẻ ở lớp cũng như ở gia đình. Đây là điều kiện thuận
lợi để nhà trường thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức giáo dục
trẻ cho các bậc cha mẹ và cộng đồng nhằm giúp trẻ có sự phát triển tồn diện cả
về thể chất, tinh thần, nhận thức, tình cảm, thẩm mĩ, ngơn ngữ, giao tiếp ứng
xử... góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục mà nhiệm vụ năm học đã đề ra.
Tuyên truyền đến các bậc phụ huynh những văn bản chỉ đạo, những chính
sách, chế độ liên quan đến cơng tác giáo dục mầm non. Trong đó đặc biệt quan
tâm đến nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Cô giáo và cha mẹ cần thống nhất phương pháp để giáo dục trẻ như vậy

trẻ mới học và áp dụng được các kỹ năng trong cuộc sống hàng ngày.
Song song với việc thực hiện biện pháp giáo dục trên, là giáo viên chủ
nhiệm lớp, cô giáo phải luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp
giữa gia đình và nhà trường.Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải là chuyện
một sớm một chiều mà là cả một quá trình. Các kỹ năng sống phải được giáo
dục, rèn luyện đồng nhất thì mới bền vững và thành kỹ xảo. Nếu chỉ dạy kỹ
năng sống cho trẻ ở trường thơi thì chưa đủ,
Ví dụ: Một số kỹ năng phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ kỹ năng cất dép, kỹ
năng cất quần áo. Vậy muốn trẻ làm tốt được những kỹ năng này tôi phối hợp
với phụ huynh hướng dẫn và quan sát trẻ khi con ở nhà. Cha mẹ cần có niềm tin
với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu bẩm sinh của trẻ bên cạnh đó cha
mẹ cần dạy trẻ từ từ để trẻ hiểu và cha mẹ chính là tấm gương sáng để trẻ noi theo.
Kết quả:
Một số phụ huynh trước đây có sự giáo dục chưa đúng đắn, chưa khoa học,
không cho con làm những việc mà giáo viên giao cho trẻ thực hiện khi về nhà
nay đã nhận thức được vấn đề, họ đã rất nhiệt tình phối hợp và rất yên tâm khi
đưa con đến lớp.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác
của tập thể nhà trường, sự ủng hộ của tích cực của các bậc phụ huynh đã giúp tôi
áp dụng “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mẫu giáo 4-5 tuổi A trường mầm non Thọ Thanh” và đạt được một số kết quả
trong việc dạy trẻ mầm non các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả
như sau:
Giúp trẻ phát triển về thể chất: Chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mầm non bao gồm nhiều hoạt động đan xen kết hợp, giúp trẻ rèn luyện sức khỏe
và phát triển tốt về thể lực. Không những thế, những hoạt động trong chương
trình cịn giúp các em rèn luyện sự kiên trì, bền bỉ, năng động, tinh thần sẵn sàng
vượt qua khó khăn, và thích nghi tốt với mơi trường đầy thử thách.
Giúp trẻ tăng khả năng nhận thức: Ngoài việc giúp trẻ rèn luyện sức khỏe,

thì mục đích chính của chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non


21

còn để giúp các em nâng cao khả năng nhận thức của chính mình. Thơng qua
các bài học về kỹ năng sống, trẻ học được cách phân biệt đúng, sai, cách nhìn
nhận vấn đề một cách khách quan, cách đưa ra ý kiến cá nhân cũng như biết tôn
trọng ý kiến của mọi người.
Giúp trẻ phát triển tinh thần: Chương trình kỹ năng sống cho trẻ mầm non
cịn giúp trẻ xây dựng được thế giới tình cảm nội tâm phong phú. Trẻ được dạy
về tình yêu thương giữa con người với con người, tinh thần trách nhiệm đối với
mỗi việc mình làm, lịng biết ơn đối với cha mẹ, gia đình, thầy cơ và những
người xung quanh…
Sự chuyển biến trong nhận thức, kĩ năng về vấn đề kỹ năng sống của trẻ
trong năm học vừa qua được thể hiện kết quả đạt được như sau:
- 100% trẻ đều được cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tính
tị mị phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin được rèn khả năng
sẵn sàng học tập ở trường hiệu quả ngày càng cao.
- Trên 80% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự
lập, kỹ năng nhận thức, kỹ năng vận động thở, vận động tĩnh thông qua hoạt
động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ.
- Trên 90% trẻ được giáo dục, chăm sóc ni dưỡng tốt, được bảo vệ sức
khỏe, được đảm bảo, an tồn, phịng bệnh.
- Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 90% trở lên ít gặp khó
khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ.
Sau khi hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm cho ta kết quả và chất lượng trẻ
về kỹ năng sống đã chứng minh được tính khả thi của đề tài.
Kết quả khảo sát chất lượng trẻ tháng 3 năm 2022
Xếp loại

T
T

Nội dung

Đạt
Tổng
Số
số trẻ
trẻ
30
28

Chưa đạt
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
%
trẻ
%
93,3
2
6,7

1

Kỹ năng tự phục vụ

2

Kỹ năng tự bảo vệ


30

26

86,6

4

13,4

3

Kỹ năng hợp tác

30

27

90

3

10

4

Kỹ năng giao tiếp, ứng xử văn minh

30


26

86,6

4

13,4

5

Kỹ năng vệ sinh

30

28

93,3

2

6,7

6

Kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc

30

27


90

3

10

Qua bảng so sánh cho ta thấy kết quả khảo sát chưa thực hiện giải pháp và
bảng sau khi thực hiện giải pháp tôi thấy chất lượng khi áp dụng giải pháp được
nâng lên rõ rệt tỷ lệ trẻ đạt cao chiếm ở mức độ đạt. Nhóm kỹ năng tự phục vụ ở
đầu năm chỉ chiếm tỷ lệ thấp.
* Đối với bản thân
Qua thời gian thực hiện đề tài, bản thân tôi nắm chắc phương pháp giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non, để thực hiện được phương pháp này


22

thì phải chuẩn bị tốt về mặt thể lực, về phát triển ngơn ngữ, về phát triển trí tuệ, về
phát triển tình cảm xã hội và phát triển thẩm mỹ. Bản thân tôi nâng cao
chuyên môn và chất lượng trong cơng tác tun truyền, cơng tác xã hội hóa
giáo dục.
* Đối với giáo viên, nhà trường
- Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, từ đó có các phương pháp để giáo
dục trẻ tốt hơn.
- Giáo viên cần chuẩn bị tốt không gian và đồ dùng, đồ chơi cho trẻ được
hoạt động.
- Tự tin, sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ
- Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín tiềm năng đối với phụ huynh
và với trẻ, được phụ huynh tín nhiệm.

- Mạnh dạn giám nghĩ, giám làm, khắc phục mọi khó khăn để giúp trẻ có
được những kỹ năng sống ngay từ khi còn nhỏ.
- Tạo mọi điều kiện để trẻ phát huy được những kỹ năng sống, cô giáo là
người gợi mở và hướng dẫn trẻ để trẻ tìm tịi khám phá và phát huy hết khả năng
của trẻ. Trong quá trình giáo dục trẻ giáo vien cần chú ý phải thực hiện từ đơn
giản đến phức tạp, từ dễ đến khó.
* Đối với phụ huynh
- Phụ huynh thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ
các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thơng qua bảng
thơng tin dành cho phụ huynh, bảng đánh giá trẻ ở lớp
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái đã gần gũi thường xuyên chia sẻ với con
hơn, ít la mắng trẻ, phân việc cho trẻ, hướng dẫn trẻ tự làm những công việc
phục vụ bản thân như: Trẻ tự đeo ba lô, tự vào lớp...
- Cha mẹ cảm thấy hài lòng với kết quả của con mình đạt được và đã có sự
quan tâm bằng việc ủng hộ giáo viên những nguyên vật liệu để giáo viên và trẻ
làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ ở lớp...
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Trẻ em được giáo dục kỹ năng sống tốt thì khả năng thích nghi và thành
cơng trong cuộc sống sẽ dễ dàng hơn. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc
làm hết sức quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp trẻ tự tin hơn, chủ động xử lý
các tình huống linh hoạt trong cuộc sống một cách tốt nhất, hợp lý nhất.
Bên cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương khuyến khích những hành vi,
lời nói của trẻ. Các bậc làm cha mẹ, cô giáo, những người lớn cần nhẹ nhàng,
khéo léo khi giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không nên hạ thấp khả năng của trẻ,
không dọa nạt trẻ. Người lớn không quá nuông chiều, bao bọc trẻ. Khuyến khích
tiếp xúc mơi trường xung quanh, bộc lộ chia sẻ với những người khác bằng
những lời nói, hành động cụ thể.
Đây là những kỹ năng hết sức quan trọng để khi trẻ có đủ tự tin, bản lĩnh
trong cuộc sống nhằm giúp trẻ hình thành tính tự lập và khả năng tự chăm lo cho

mình, khơng bị phụ thuộc vào bố mẹ ngay từ nhỏ chúng ta có thể làm tất cả mọi


23

thứ mà bản thân chúng có thể. Vì vậy cần có phương pháp dạy học phù hợp với
độ tuổi và nhận thức của trẻ để trẻ có thể tiếp thu và học cách sống tự lập tốt hơn.
3.2. Kiến nghị
- Đối với bản thân giáo viên: Không ngừng học hỏi, trao đổi với các bạn bè
đồng nghiệp, nghiên cứu sâu hơn các tài liệu về kỹ năng sống cho trẻ mầm non
để đạt hiệu quả cao hơn.
- Đối với nhà trường
+ Trang bị tài liệu về kỹ năng sống cho giáo viên nghiên cứu
+ Mua sắm thêm đồ dùng, đồ chơi trang thiết bị học tập và vui chơi cho cô
và trẻ.
+ Mua thêm giá đồ chơi cho trẻ.
- Đối với phòng giáo dục: Tăng cường tổ chức thêm các buổi bồi dưỡng về
kỹ năng sống cho giáo viên mầm non học tập thêm kinh nghiệm.
Do còn thiếu các tài liệu hướng dẫn phương pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi A nói riêng và trẻ mẫu giáo nói chung. Do vậy sáng
kiến kinh nghiệm còn nhiều hạn chế. Rất mong được các cấp lãnh đạo cùng bạn
bè, đồng nghiệp, góp ý để sáng kiến của tơi thật sự có hiệu quả.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
Thường xuân, ngày 16 tháng 5 năm 2022
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung người khác
Người viết sáng kiến


Lê Thị Lâm
XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO PHÒNG GD&ĐT

Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Thanh Bình (2007) Giáo trình kỹ năng sống, NXB Đại học sư
phậm Hà Nội


24

[2]. Module 39. Lê Thị Bích Ngọc- Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu
giáo
[3]. PGS-TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Năm xuất bản 2012 Giáo dục giá trị
sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non , NXB Đại học quốc gia
[4]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010) Chương trình Giáo dục mầm non, NXB
giáo dục mầm non.



×