HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG
------------------
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN LỊCH SỦ ĐẢNG
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào cơng
nhân và phong trào yêu nước. Sinh viên hiện nay cần làm gì để thể
hiện lịng u nước của mình.
Họ và tên:
Mã số sinh viên:
Lớp tín chỉ:
Lớp:
Hà Nội, tháng 12 năm 2021
1
MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU……….………………………………...………………………………....4
NỘI DUNG………………………...…………………………...………………………...5
I. Q trình thành lập Đảng ................................................................................................. 5
1. Bối cảnh lịch sử ......................................................................................................... 5
2. Đường lối thành lập Đảng ......................................................................................... 6
2.1. Nguyễn Ái Quốc tìm dường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng .................. 6
2.2. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
(V.I.Lênin) ................................................................................................................... 6
2.3. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời......................................................................... 8
2.4. Ý nghĩa thành lập Đảng ...................................................................................... 9
II. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh ....................................................................................................... 10
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin .............................................................................................. 10
1.1. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin ............................................................... 10
1.2. Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên thế giới ...................... 10
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh ............................................................................................ 11
2.1. Khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” ............................................................... 11
2.2. Nguồn gốc hình thành....................................................................................... 11
2.3. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh ......................................... 13
III. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của phong trào công nhân và phong trào
yêu nước. ........................................................................................................................... 17
1. Phong trào công nhân .............................................................................................. 17
1.1. Khái niệm và nguồn gốc của giai cấp cơng nhân ............................................. 17
1.2. Sự hình thành và phát triển của giai cấp công nhân ở Việt Nam ..................... 18
1.3. Phong trào công nhân ở Việt Nam ................................................................... 19
2. Phong trào yêu nước ................................................................................................ 20
2.1. Nguyên nhân nảy sinh phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam. ........ 20
2.2. Các phong trào yêu nước tiêu biểu ................................................................... 21
2.3. Tinh thần yêu nước trong xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam ........................ 22
2
III. Sinh viên cần làm gì để bày tỏ lịng yêu nước? ........................................................... 23
KẾT LUẬN……………………………………………………………………...………25
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………...………………………………26
3
LỜI NÓI ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập (3-2-1930). Từ thời điểm
lịch sử đó, lịch sử của Đảng hịa quyện và song hành cùng lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Đảng đã lãnh đạo và đưa sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, “có được cơ đồ là vị thế như ngày nay” .
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt
Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là hệ tư tưởng lý luận của giai cấp công nhân,
phong trào cơng nhân mà cịn là vũ khí giải phóng giai cấp cơng nhân, giải phóng dân tộc,
giải phóng tồn xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Việc thành lập Đảng là một bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp
vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Đường lối cách mạng của Đảng
thể hiện trong Cương lĩnh là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, phù hợp và đáp ứng đúng nguyện
vọng của giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời khẳng định giai cấp công nhân và đảng tiên phong của
nó đứng ở vị trí trung tâm và giữ vai trò lãnh đạo cách mạng. Sự lựa chọn con đường cách
mạng đó phù hợp với nội dung và xu thế cách mạng của thời đại mới được mở ra từ Cách
mạng tháng Mười Nga (1917) và chỉ có đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội mới bảo đảm độc lập tự do thật sự cho dân tộc, “đối với nước ta, khơng cịn con
đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn
mạnh rằng, đây là sự lựa chọn của lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra
đời của Đảng ta”. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
4
NỘI DUNG
I. Quá trình thành lập Đảng
1. Bối cảnh lịch sử
-
Tình hình thế giới
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển
sâu sắc. Trên thế giới mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày
càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc
địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý
luận đã trở thành hiện thực, trở thành nguồn cổ vũ to lớn cho các dân tộc bị áp bức đứng
lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Tháng 3 năm
1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế.
-
Tình hình trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị,
biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô,
Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân
Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời hai giai cấp mới là công nhân và tư sản
Việt Nam.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước
và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt
Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa
chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta theo khuynh hướng tư
tưởng phong kiến và dân chủ tư sản diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên, do thiếu đường
lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất
bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
5
2. Đường lối thành lập Đảng
2.1.
Nguyễn Ái Quốc tìm dường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, trong nhiều nhà
yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911, người thanh
niên Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước theo
phương hướng mới. Trải qua q trình bơn ba đến nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu
nhiều cuộc cách mạng, nghiên cứu nhiều lý thuyết cách mạng trên thế giới.
Tháng 7/1920, qua tờ báo Nhân Đạo, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản “Sơ thảo lần thứ
nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin, người đã
tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc là con đường cách mạng vô sản. Người khẳng
định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất chính là chủ nghĩa Lênin”
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách
đại biểu Đông Dương, bỏ phiếu tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người
Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp,
nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị
về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp
đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học
Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc). Nhờ hoạt động không
mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm
1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín
muồi.
2.2.
Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa (V.I.Lênin)
Đọc Sơ thảo luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra những lý luận cách mạng
phù hợp với con đường cách mạng Việt Nam, cụ thể là:
-
Thứ nhất, Người đã xác định rõ đâu là kẻ thù của giai cấp, của dân tộc và phải chĩa
ngọn cờ cách mạng vào đúng kẻ thù.
6
Nội dung của Luận cương Lênin đã đánh giá đúng tình hình lịch sử cụ thể; phải phân biệt
rõ rệt lợi ích giai cấp của những người lao động, những người bị bóc lột, làm sáng tỏ bức tranh
của chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính giai cấp tư bản chủ nghĩa áp bức, bóc lột nhân dân lao
động chính quốc, đồng thời đô hộ đàn áp các nước thuộc địa. Về kẻ thù của cách mạng Việt
Nam được Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt năm 1930 đó
là: thực dân Pháp và bọn phong kiến. Đồng thời phân tích rõ mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn
dân tộc để lơi kéo, đồn kết tập trung mọi lực lượng tiến hành cách mạng, nhưng vẫn đảm bảo
quyền lợi của giai cấp vô sản, nhân dân lao động.
-
Thứ hai, Sơ thảo luận cương của Lênin chỉ rõ cho Nguyễn Ái Quốc thấy động lực to
lớn và lực lượng chính của cách mạng đó là giai cấp cơng nhân và nơng dân.
Từ ý chí tìm lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, từ thực tiễn hoạt động cách mạng,
thấy được sức mạnh to lớn của nhân dân trong các cuộc đấu tranh nhất là cuộc cách mạng
tháng Mười Nga, lại được lý luận chủ nghĩa Mác – Lê nin soi đường, Nguyễn Ái Quốc đã xác
định động lực của cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân và nông dân: “công nơng là gốc
cách mạng; cịn học trị, địa chủ nhỏ nhà buôn nhỏ…là bầu bạn cách mạng của công nông”.
Đồng thời cơng - nơng cũng là lực lượng nịng cốt của cách mạng.
-
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy hướng đi của cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa
Sơ thảo luận cương của Lênin đã vạch ra hướng đi: Con đường cách mạng vơ sản, giải
phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con
người. Đây cũng là nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Sau khi đọc Sơ thảo luận cương của
Lênin, Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản".
-
Thứ tư, Sơ thảo luận cương của Lênin đã chỉ ra tầm quan trọng của cách mạng thuộc
địa, mối quan hệ và đặc điểm giữa cách mạng chính quốc với các nước thuộc địa.
Lênin là người đã phát hiện ra vai trò to lớn của cách mạng thuộc địa, và Nguyễn Ái Quốc
tiếp nhận một cách sâu sắc. Tại Đại hội lần thứ I của Quốc tế III, Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi
vơ sản các nước đồn kết lại. Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng năm
1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “Phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô
sản thế giới, nhất là vô sản Pháp”.
7
Như vậy, sau khi nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng Sơ thảo luận cương của Lênin, Nguyễn
Ái Quốc đã tìm được con đường cách mạng giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vơ
sản, giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những lý luận cách mạng cách mạng đó
được hiện thực hóa trong quá trình hoạt động thực tiễn tiếp theo của Người. Đặc biệt là trong
công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam, để chuẩn bị những tiền đề về tổ
chức, lãnh đạo, lực lượng cách mạng thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
2.3.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930, ở
Việt Nam lần lượt xuất hiện 3 tổ chức cộng sản:
- Đông Dương Cộng sản Đảng (Bắc Kỳ)
- An Nam Cộng sản Đảng ở (Nam Kỳ)
- Đơng Dương Cộng sản Liên đồn (Trung kỳ)
Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929 là bước tiến
nhảy vọt của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, phù hợp với xu thế
và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức cộng
sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư
tưởng và hành động.
Trong bối cảnh đó, nhận thấy sự cần thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất,
chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam, ngày 23-12-1929, Nguyễn
Ái Quốc từ Xiêm đến Trung Quốc. Người triệu tập đại biểu của Đông Dương và An Nam
Cộng sản Đảng đến họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng) để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo
luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ,
thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đơng Dương”. Hội nghị đã nhất trí
thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay
mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh
lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng.
8
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng. Trong
đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng có giá trị như cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm Ngày kỷ niệm
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.4.
Ý nghĩa thành lập Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới
cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất
của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và
trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách
mạng và toàn thể dân tộc.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của
lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng
hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả
nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất
trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách
mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng
lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, phong trào yêu nước và phong trào công nhân ở
Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách
mạng.
9
II. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin
1.1.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin
Giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nhiều nước Tây Âu đã
phát triển mạnh mẽ. Bước lên vũ đài chính trị, giai cấp vơ sản cần có lý luận khoa học để
hướng dẫn cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình khỏi áp bức, bất cơng xã hội. Trên thế
giới lúc đó cũng đã xuất hiện những tiền đề về kinh tế - xã hội khoa học và lý luận, v.v…
dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác là kết quả của sự kế thừa có chọn lọc,
tiếp thu có phê phán tồn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng của nhân loại từ cổ đại
đến thời đại của C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895),
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác được V.I.Lênin bổ sung, phát triển
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khoa học về thế
giới vi mô phát triển và chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng ở nước Nga Xô viết, mở
ra giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học
thuyết khoa học và cách mạng, bởi nó phản ánh đúng quy luật khách quan vận động của
lịch sử và đấu tranh xóa bỏ mọi hình thức nô dịch người, xây dựng một xã hội mà ở đó
khơng cịn người bóc lột người, người đàn áp người, người nô dịch người và sự tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người.
1.2.
-
Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên thế giới
Thời kỳ trước “đổi mới, cải cách, cải tổ”.
Các nhà lý luận của chủ nghĩa xã hội đã cụ thể hóa và làm giàu thêm những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng thực tiễn đấu tranh giải phóng giành độc lập dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, họ cũng
đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ những sự xuyên tạc, vu khống ác ý đối với chủ nghĩa Mác
- Lênin. Tuy nhiên, sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin ở các nước xã hội chủ
nghĩa nói chung, ở Liên Xơ nói riêng trước đổi mới, cải cách, cải tổ ít nhiều đã bị giáo điều.
Chính vì vậy, mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trước đổi mới, cải cách, cải tổ có những
biểu hiện giáo điều, xơ cứng, bảo thủ, chậm đổi mới.
-
Thời kỳ “đổi mới, cải cách, mở cửa”.
10
Trong thời kỳ đổi mới, một số Đảng Cộng sản trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn mỗi
nước.. Trung Quốc đã xây dựng mơ hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Chủ nghĩa
xã hội vẫn tiếp tục được xây dựng ở Cu Ba, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào... Vì vậy, chủ
nghĩa Mác - Lênin vẫn tồn tại và phát triển, vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa
học của hàng triệu triệu con người tiến bộ trên trái đất.
Trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt
Nam với 8 đặc trưng, trong đó đặc trưng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” vừa là đặc trưng thứ nhất vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Việt Nam.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1.
Khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh”
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trong quá trình lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, lãnh đạo
Đảng và nhân dân ta đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam và dân tộc Việt
Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của
Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng
lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
2.2.
-
Nguồn gốc hình thành
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất
khoa học và cách mạng của học thuyết này. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Kết quả vận dụng sáng tạo và phát
triển đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, sự bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin.
11
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống, ý chí độc lập, tự cường; đoàn kết, nhân ái, khoan
dung, tinh thần cộng đồng; lạc quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo… của dân tộc
Việt Nam được Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển. Tư tưởng của Người là sự
kết tinh những tinh hoa văn hóa, tinh thần, trí tuệ, đạo đức của dân tộc Việt Nam. Vì vậy,
Đảng ta đã khẳng định: Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chí
Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại. Vậy chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân
ta, non sơng đất nước ta.
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh ln
tìm tịi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán các quan điểm của các trường phái
triết học, các trào lưu tư tưởng trên thế giới, cả phương Đông và phương Tây, vận dụng
vào thực tiễn Việt Nam, phát triển lên, trở thành tư tưởng của mình.
Trong ba nguồn gốc trên, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt chủ nghĩa yêu nước
là cơ sở ban đầu, là động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, làm
cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có nội dung mới, tầm cao mới, “độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí
Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và cách mạng đúng đắn. Tinh hoa văn hóa
nhân loại làm phong phú và sâu sắc thêm chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng xã hội chủ nghĩa
ở Hồ Chí Minh.
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của các nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất
của cá nhân Người.
Những điều kiện trên cũng đã đến với nhiều người cùng thời với Hồ Chí Minh, nhưng
chỉ với Hồ Chí Minh những điều kiện đó mới được kết hợp lại, phát triển lên, trở thành tư
tưởng Hồ Chí Minh bởi có sự tham gia của các phẩm chất cá nhân của Người.
-
Thứ nhất, đó là khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với sự nhận xét, phê
phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu.
Thứ hai là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân
loại, kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân thế giới trong phong trào giải phóng dân
tộc, phong trào cơng nhân quốc tế.
12
-
Thứ ba, trong quá trình đi đến chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trải qua cuộc
sống của người cơng nhân lao động thực sự, ln hịa mình với đời sống của giai
cấp cần lao. Chính đó là yếu tố chủ quan then chốt, quyết định bước chuyển từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, để Người trở thành một chiến sĩ cách
mạng nhiệt thành; thương yêu những người cùng khổ; sẵn sàng hy sinh vì độc lập
của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Cùng với những năng lực bẩm sinh, những phẩm chất cá nhân cao quý trên đã giúp Hồ
Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời
đại thành tư tưởng đặc sắc của mình - tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.3.
Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh:
-
Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân.
Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân.
Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân…
2.3.1. Lấy chủ nghĩa Mác Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm tiền đề xây dựng
Đảng
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng
những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 6-1991), trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn, lẫn đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra khái niệm về tư tưởng Hồ Chí
Minh và khẳng định: “cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí
Minh” . Đến Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX (2001), khái niệm và nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh đã được xác định rõ hơn.
13
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991) của Đảng, mơ hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với
sáu đặc trưng. Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển, gồm tám đặc
trưng. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) Đảng ta tiếp tục xác định
tám đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
trong hai Văn kiện nêu trên.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành
quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện
hiện nay. Đó là thành quả của sự kết hợp hài hịa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù,” cái
chung và cái riêng để tạo nên một mơ hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
-
Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được
biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Mác-Lênin về mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa
xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được
hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…. Đây là khát vọng tha thiết
của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ
quốc.
-
Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu
việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong
tư tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ,
dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận
thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với
việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi
quyền lực).
14
-
Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà
nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa
xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền
kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
-
Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện
khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống
đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp
thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn
hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa
dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân
tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa,
làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
-
Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển tồn diện.
Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân
đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Để có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu
cầu chính đáng của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác
15
định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay
là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân. Tính
ưu việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con
người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ) của
Đảng và Nhà nước ta.
-
Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn
trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan
hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt
Nam.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong
giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại
đồn kết tồn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm
mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
-
Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó
chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe
ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm sốt,
ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm
phạm quyền dân chủ của cơng dân…
-
Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng khơng chỉ thể hiện tính ưu việt trong
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà cịn thể hiện trong quan hệ đối ngoại,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
16
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân
dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế… Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả
các nước, khơng phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc
cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã tổng kết 5 năm đổi mới (1986-1990), khẳng
định đường lối đổi mới là đúng đắn và bước đi phù hợp với thực tiễn. Đại hội khẳng định
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng. Có thể nói, từ Đại hội VI đến Đại hội VII, những quan niệm về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được hình thành trên những
nét chủ yếu nhất. Cùng với thành tựu cơ bản đó việc khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đánh
dấu một bước tiến mới về đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
III. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của phong trào công nhân và
phong trào yêu nước.
1. Phong trào công nhân
1.1.
-
Khái niệm và nguồn gốc của giai cấp công nhân
Khái niệm
“ Giai cấp vô sản là giai cấp những cơng nhân làm th hiện đại, vì mất hết tư liệu sản
xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”. (Theo C.Mác và
Angghen)
Giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
quá trình phát triển nền công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong
các quy trình cơng nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho
lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
-
Nguồn gốc
17
Giai cấp công nhân sinh ra và phát triển theo đà phát triển của kỹ thuật và công nghệ
và chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi sản xuất đại công nghệ đã thay thế về cơ bản
nền sản xuất thủ công. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp
những người lao động làm thuê cho nhà tư bản, là giai cấp hoàn tồn khơng có tư liệu sản
xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống (vô sản). Vì vậy, trong sản xuất
họ là giai cấp bị phụ thuộc và trong phân phối là giai cấp bị bóc lột, đối lập vè lợi ích trực
tiếp với giai cấp tư sản.
Sự phát triển của thời đại công nghiệp đã làm tăng thêm số người vô sản, và tập hợp
họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vơ sản hiện đại. Chính vì vậy,
giai cấp công nhân hiện đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại cơng nghiệp, nó là
sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại
cơng nghiệp đó.
Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định giai cấp cơng nhân chính là giai cấp có sứ mệnh lịch
sử hết sức quan trọng là xóa bỏ chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, thực hiện sự chuyển biến
cách mạng từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
1.2.
Sự hình thành và phát triển của giai cấp công nhân ở Việt Nam
Trước thế kỉ XV, Việt Nam chưa có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công,
thương nghiệp và kinh tế hàng hố, nhưng đã có tầng lớp thợ thủ cơng. Sang thế kỉ XV,
XVI đội ngũ “ Những người lao động làm thuê” đã xuất hiện. Đầu thế kỉ XIX, ngành khai
mỏ phát triển và hàng ngàn “thợ” mỏ làm việc trong các mỏ khai thác than, thiếc. Nhưng
đó chưa phải là công nhân hiện đại, sản xuất trong dây chuyền công nghiệp.
Đội ngũ công nhân Việt Nam xuất hiện khi có cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I (từ
năm 1897 đến năm 1914) của thực dân Pháp. Khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội, Sài
Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến Thủy, Hòn Gai đã làm cho số công nhân tăng
nhanh... Số lượng công nhân năm 1906 là 49.500 người trong đó có 1.800 thợ chun
mơn. Nhiều xí nghiệp tập trung đơng cơng nhân như: Xi măng Hải Phịng có 1.500
người, 3 nhà máy dệt ở Nam Định, Hải Phịng, Hà Nội cũng có 1.800 người, các nhà máy
xay xát ở Sài Gịn có tới 3.000 người, riêng trên các tuyến đường sắt Vân Nam - Hải
Phòng đã thu hút tới 6 vạn người. Ngành mỏ (năm 1914) có tới 4.000 thợ, đó là chưa kể
số “thợ theo mùa”. Tổng số cơng nhân Việt Nam tính đến trước chiến tranh thế giới lần
thứ I có khoảng 10 vạn người.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ I kết thúc, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ II (1919-1929) nhằm tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân thuộc địa để
bù đắp những tổn thất trong chiến tranh. Sự phát triển của một số ngành cơng nghiệp khai
khống, dệt, giao thơng vận tải, chế biến... dẫn đến số lượng công nhân tăng nhanh, công
18
nhân mỏ và công nhân đồn điền nhiều nơi tập trung hàng vạn người. ở các thành phố,
nhiều nhà máy đã có trên 1.000 cơng nhân như nhà máy Xi măng Hải Phòng, nhà máy
Dệt Nam Định. Đến cuối năm 1929, tổng số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp
của tư bản Pháp là hơn 22 vạn người, trong đó có 5,3 vạn thợ mỏ, 8,6 vạn cơng nhân các
ngành công thương nghiệp, 8,1 vạn công nhân các đồn điền trồng cây cơng nghiệp. Đó là
chưa kể đến những người làm ở xí nghiệp thủ cơng lớn, nhỏ, thợ may, thợ cạo, thợ giặt,
bồi bếp, khuân vác ở hải cảng...
Như vậy, từ sự đầu tư vào công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp dẫn tới sự
ra đời tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Và đó
cũng là điều kiện cơ bản làm xuất hiện một giai cấp mới - giai cấp công nhân Việt Nam.
Đa số công nhân nước ta có nguồn gốc xuất thân từ nơng dân. Trong số 27.505 công
nhân, đồn điền, thợ mỏ ở 15 tỉnh Bắc Kỳ vào năm 1929 thì có tới 24.658 người là nông
dân (chiếm 84,6%).
1.3.
Phong trào công nhân ở Việt Nam
Sớm tiếp thu truyền thống anh dũng bất khuất, chống giặc ngoại xâm của dân tộc, giai
cấp công nhân Việt Nam đã hăng hái đấu tranh với tư bản Pháp. Tuy nhiên, phần lớn các
cuộc đấu tranh còn tản mạn và tự phát, thiếu tổ chức lãnh đạo và chỉ tập trung vào đòi
quyền lợi kinh tế, quyền sống trước mắt, với các hình thức như: bỏ việc về q, lãn cơng,
địi tăng lương, chống đánh đập. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân đường sắt Hà
Nội - Lạng Sơn, công nhân mỏ thiếc - kẽm Cao Bằng, gạch Yên Thế, dệt sợi Nam Định.
Song cũng có một số cuộc đấu tranh của cơng nhân có tinh thần dân tộc cao như phong
trào đấu tranh ủng hộ nghĩa qn n Thế, tham gia biểu tình địi thả nhà yêu nước Phan
Bội Châu, phong trào để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh... . trong cao trào yêu nước
những năm 1925 -1926 ở Sài Gòn.
Từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam, số lượng các cuộc bãi
công ngày một tăng và quan trọng hơn là bãi cơng có tính chất chính trị, có tổ chức lãnh
đạo. Nếu như năm 1927 có 7 cuộc bãi cơng thì năm 1929 có đến 24 cuộc, năm 1930 là 30
cuộc với số lượng người tham gia lên đến ngót 32.000 người. Sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào công nhân và phong trào yêu nước từ năm 1925 đến năm 1929 là một điều
kiện quyết định sự ra đời các tổ chức Cộng sản và Công hội Đỏ ở Việt Nam, đặc biệt là
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
19
2. Phong trào yêu nước
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Lịch sử của dân
tộc Việt Nam đã được viết bằng máu và mồ hôi của nhiều thế hệ ông cha đã làm nên biết
bao kỳ tích anh hùng, những trang sử vẻ vang đầy khí thế.
Chính những điều đó đã tạo nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà trong
đó nổi bật nhất là lịng u nước - một truyền thống cao quý vừa được hun đúc và phát huy
suốt trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Mỗi người Việt Nam
đều có quyền tự hào về những trang sử hào hùng của dân tộc, những người đã hy sinh để
bảo vệ mảnh đất quê hương. Những người đã viết nên thiên sử của dân tộc và sẽ luôn là
hành trang của các thế hệ người Việt Nam.
2.1.
Nguyên nhân nảy sinh phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam.
2.1.1. Tác động từ bên ngoài
-
Ảnh hưởng từ Trung Quốc.
Cuộc Duy tân Bách nhật của Lương, Khang… Các sỹ phu tiến bộ Trung Quốc đã viết,
dịch nhiều loại tân văn, tân báo truyền bá vào nước ta, các sĩ phu yêu nước tiến bộ Việt
Nam đã tiếp thu tư tưởng tư sản, chuyển từ tư tưởng quân chủ sang quân chủ lập hiến.
Cách mạng Tân Hợi lật đổ triều đình Mãn Thanh, lập Trung Hoa Dân quốc, các sĩ phu
yêu nước tiến bộ Việt Nam đoạn tuyệt với tư tưởng quân chủ, chuyển sang tư tưởng cộng
hoà.
-
Ảnh hưởng từ Nhật Bản:
Sau Minh Trị duy tân, Nhật Bản đã trở thành một đế quốc hùng mạnh.
Sau chiến thắng chiến tranh Nga - Nhật, Nhật Bản càng được các sỹ phu yêu nước tiến bộ
Việt Nam ngưỡng mộ, muốn noi gương Nhật Bản tiến hành cải cách và nhờ Nhật giúp
đánh Pháp.
-
Ảnh hưởng từ yêu cầu thời đại
Thế kỉ XX là thời kỳ chung của chế độ phong kiến, sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản
trên quy mơ tồn thế giới, nhiều nước châu Á mang nặng tư tưởng phong kiến cũng đã
chuyển biến theo con đường tư sản đã tác động mạnh đến nhận thức của giới sỹ phu yêu
nước Việt Nam.
20
2.1.2. Tác động từ trong nước
Thực dân Pháp dập tắt phong trào Cần Vương à sự thất bại của phong trào yêu nước
theo ngọn cờ phong kiến và đặt ra yêu cầu cần có con đường mới thay thế.
Pháp căn bản hồn thành cơng cuộc bình định qn sự, chúng bắt tay vào công cuộc
khai thác lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam bước đầu phân hoá, các giai tầng xã hội mới ra
đời như tư sản, tiểu tư sản, cơng nhân nhưng những tầng lớp này cịn non yếu, chưa đủ
sức phát động được một cuộc cách mạng mới, trong khi các sỹ phu Nho học có nhiều
chuyển biến về tư tưởng, chính trị đã nắm lấy thời cơ để tổ chức các trào lưu cứu nước
mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản…
2.2.
Các phong trào yêu nước tiêu biểu
2.2.1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản
-
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896) do vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết
lãnh đạo, hoạt động tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ
KN Ba Đình (1881-1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo, diễn ra tại
Thanh Hóa
KN Bãi Sậy (1883-1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, diễn ra ở các tỉnh Hải
Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình
KN Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo, diễn ra
ở địa bàn Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh.
KN nơng dân Yên Thế (1885 – 1913) do Hoàng Hoa Thám và Lương Văn Nắm
lãnh đạo, diễn ra tại Bắc Giang.
2.2.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu
ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ
phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành 2 xu
hướng:
-
Xu hướng bạo động
Phan Bội Châu (1867-1941), chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực
dân Pháp khôi phục nền độc lập cho dân tộc - Phát động phong trào Đông Du đưa du học
sinh Việt Nam sang Nhật học tập. Ông chọn Nhật vì đây là quốc gia “đồng văn, đồng
chủng”, nền kinh tế phát triển mạnh, hùng mạnh về quân sự.
21
-
Khuynh hướng cải cách
Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lịng
u nước cho nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân
chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản
đối đấu tranh vũ trang cầu viện nước ngồi, cầu xin Pháp đến khai hóa cho VN.
Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt nam cịn nhiều phong trào đấu tranh khác như:
Phong trào Đơng Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách trú”(1919); Phong
trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng
quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do dân chủ…
2.2.3. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Tháng 12/1920, Nguyham dự Đại hội lần
thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu Đông Dương, bỏ phiếu tán thành thành lập
Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.chuẩn
bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
2.3.
Tinh thần yêu nước trong xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam
Theo học thuyết Mác - Lênin, một Đảng Cộng sản ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa xã
hội khoa học và phong trào công nhân. Luận điểm này đúng, nhưng chỉ đúng với các
nước phương Tây, khi giai cấp công nhân đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách một lực
lượng cách mạng độc lập, được lý luận khoa học của Mác dẫn đường. Cịn ở các nước
phương Đơng, đặc biệt là các nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam, những nước
này bị chủ nghĩa thực dân thống trị, nền kinh tế hết sức lạc hậu. Công nghiệp gần như
chưa phát triển, giai cấp công nhân tuy đã ra đời và sống khá tập trung, song cịn nhỏ bé.
Vì vậy, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chưa đại diện được cho toàn bộ
phong trào dân tộc. Hơn nữa, vấn đề dân tộc cần phải giải quyết trở nên hết sức bức xúc,
cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân phải hồ chung với phong trào u nước của các
tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc để
lãnh đạo những cuộc đấu tranh này.
Tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống đấu tranh bất khuất trong lịch sử dân
tộc, có vai trị hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, trong các phong
trào cách mạng. Sự ra đời của Đảng là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin
22
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Như vậy, khi đề cập đến sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố là chủ nghĩa Mác - Lênin và
phong trào công nhân, Hồ Chí Minh cịn kể đến yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước.
Đây là một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt
Nam, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với quá trình
hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời Người cũng đánh giá rất cao vai trò
của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhưng Người bổ sung yếu tố phong trào yêu nước, coi
nó là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam là vì:
-
-
-
Thứ nhất, phong trào u nước có vị trí, vai trị cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc Việt Nam. Là giá trị văn hoá trường tồn trong văn hoá Việt Nam.
Thứ hai, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào u nước bởi vì hai
phong trào đó đều có mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được
hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào yêu nước
có trước phong trào công nhân, phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó nó lại là
phong trào yêu nước.
Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong
trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nơng dân. Do đó, giữa phong trào
cơng nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy
sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chính vì vậy, sự xuất hiện của nhân tố phong trào yêu nước trong sự hình thành Đảng
Cộng sản Việt Nam như một điều hiển nhiên, tất yếu. Nó nhân lên sức mạnh của Đảng,
tạo chỗ dựa vững chắc cho Đảng, cho giai cấp công nhân Việt Nam.
III. Sinh viên cần làm gì để bày tỏ lòng yêu nước?
Là một sinh viên, tinh thần yêu nước trong thời bình có thể được thể hiện qua nhiều
cách, đơn giản nhất là trang bị những kiến thức về lịch sử, văn hóa, xã hội về đất nước ta,
có sự nhận thức đúng đắn về quyền và nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với Tổ quốc. Sinh
viên nên có thói quen tìm hiểu về các nét văn hóa đặc trưng, các dân tộc cùng sinh sống
trên đất nước mình để khơng lãng qn những bản sắc văn hóa truyền thống từ lâu đời.
Trong thời đại cơng nghệ hiện nay, sinh viên nên biết cách chọn lọc nguồn thơng tin một
cách chính xác, chỉ tìm kiếm từ những trang thơng tin chính thống của Nhà nước như VTV,
báo Công an Nhân dân,… Cần nhận thức thông tin nào là sai lệch, tin giả, tin do các đối
tượng phản động đăng lên nhằm chống phá Nhà nước, gây hoang mang dư luận,… đặc biệt
là trong thời điểm dịch bệnh Covid.
23
Lòng yêu nước còn được thể hiện trong việc giúp đỡ những người có hồn cảnh khó
khăn như làm tình nguyện, đi hiến máu nhân đạo, ủng hộ đồng bào miền lũ,… Không quan
trọng số lượng mà quan trọng là lịng hảo tâm. Xơng pha vào các ổ dịch để giúp đỡ các
bệnh nhân mắc Covid cũng là một cách thể hiện lòng yêu nước, truyền thống lá lành đùm
lá rách quý báu.
Nhận thức đúng về trách nhiệm của bản thân đối với Tổ quốc cũng là thể hiện lòng u
nước. Khi dịch bệnh hồnh hành, sinh viên nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung cần
tuân thủ quy tắc 5K, thực hiện đầy đủ việc khai báo y tế khi di chuyển, khai báo F0, tự cách
ly tại nhà để không làm ảnh hưởng đến cộng đồng.
24
KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về dường lối cứu
nước, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam
trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ sản thế giới. Đó là kết quả của sự vận
động phát triển và thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị tích
cực, sáng tạo, bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đồn kết, nhất trí của những chiến
sĩ cách mạng tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào cơng nhân và phong trào u nước Việt Nam.
Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước đã dẫn tới viêch thành lập Đảng, “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí
Minh dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần
ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước...”. Tổ tiên đã trải qua
bao nhiêu năm dựng nước và giữ nước, ngày nay khi sống trong thời bình, khơng chiến
tranh, kinh tế xã hội đều phát triển, đứng trước dịch bệnh hoành hành, lòng yêu nước của
mỗi chúng ta cầm phải lớn hơn cả, để đất nước con rồng cháu tiên không bị khuất phục
trước bất cứ thách thức nào.
25